Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Thay đổi tổng sản phẩm quốc dân tại các vùng kinh tế mới và chính sách phát triển kinh tế docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.49 KB, 61 trang )

Lời Nói Đầu
GDP là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nhất, phản ánh kết quả hoạt động sản xuất của
một quốc gia, là thước đo đánh giá hiệu qủa sản xuất xã hội không những của toàn
bộ nền kinh tế mà còn của từng ngành sản xuất thực hiện trên lãnh thổ kinh tế quốc
gia đó. Qua chỉ tiêu GDP người ta đánh giá được mức tăng trưởng kinh tế, thực
trạng của nền kinh tế. GDP còn là cơ sở giúp các tổ chức hiểu rõ hơn về nền kinh tế
cuả một quốc gia, so sánh kết quả sản xuất xã hội, mức sống, sự giàu nghèo của
quốc gia đó với các quốc gia khác, các nước khác trong khu vực. Nó còn làm cơ sở
cho các nhà doanh nghiệp nghiên cứu, xem xét thực tế hoạt động, kết quả các
ngành, hiệu quả sử dụng vốn để từ đó có chính sách đầu tư thích hợp, thực hiện liên
kết, liên doanh trong việc lập ngành nghề mới trên lãnh thổ kinh tế của quốc gia đó.
Không những thế, GDP còn gíp cho các nhàd nghiên cứu kinh tế tầm vĩ mô xem xét
thực trạng nền kinh tế nước nhà, từ đó đề ra các chính sách chiến lược kinh tế (ngắn
hạn, dài hạn) cho quốc gia, cho vùng, lãnh thổ, cho địa phương. GDP ngoài tính cho
một quốc gia còn được tính cho khu vực, thành phố, tỉnh hoặc vùng lãnh thổ trong
một quốc gia.
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của chỉ tiêu GDP và tình hình thực tế tại thị xã Tam
Kỳ, là nơi vừa xảy ra một sự kiện lớn. Năm 1997, tỉnh Quãng Nam được tái lập,
Tam Kỳ trở thành thị xã tỉnh lỵ của Quãng Nam, chắc chắn sẽ đạt được nhiều thành
tựu, cũng như những bước thay đổi lớn trong phát triển kinh tế. Do đó em đã mạnh
dạn chọn đề tài : “Nghiên cứu biến động GDP của thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000
- 2002 “
Kết cấu của đề tài được chia làm 3 phần chính :
Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tế của đề tài
Chương 2 : Phân tích biến động GDP của thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000 - 2002
Chương 3 : Kết luận và kiến nghị
Vì trình độ bản thân còn hạn chế, hơn nữa thời gian nghiên cứu và xâm nhập thực tế
cũng hạn chế. Do đó không tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự thông cảm
và đóng góp ý kiến. Xin chân thành cảm ơn.

Sinh viên thực hiện


Bùi Thị Hoài Thuỷ

Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tế của đề tài
1.1 Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1 Những tiền đề cơ bản xác định chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
1.1.1.1Thế nào là hoạt động sản xuất
Quan niệm thế nào là sản xuất; những hoạt động nào, những yếu tố nào được coi là
tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải cho xã hội. Đây là một trong những tiền
đề cơ bản xác định chỉ tiêu tổng sản phẩm nội địa (GDP).
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, đã có nhiều nhà kinh tế chính trị thuộc
trường phái này, hoặc trường phái khác cùng với điều kiện lịch sử kinh tế của đất
nước trong các thời kỳ đó đã đưa ra những khái niệm về sản xuất và nguồn gốc tạo
ra của cải xã hội. Ngày nay, trong bối cảnh mới của hoạt động kinh tế xã hội, vấn đề
trên được quan niệm như thế nào ?
- Nhà kinh tế Irving Sirken đã khái quát về hoạt động sản xuất : "Là quá trình
chuyển hoá các đầu vào bao gồm hàng hoá và dịch vụ, thành các đầu ra (sản lượng)
có ích hơn các đầu vào Sảnphẩm của các đơn vị sản xuất có thể là hữu hình như
hàng hoá được sản xuất ra ở các nông trại và nhà máy,nhưng cũng có thể là vô hình,
những cái mà chúng ta gọi là dịch vụ do các cửa hàng sữa chữa, trạm phát điện,cửa
hàng bán lẻ, trường học, bệnh viện sản xuất ra".
- Theo Tiến sĩ Vũ Quang Việt, cố vấn dự án " Thực hiện hệ thống TKQG ở Việt
Nam " (VIE 88.032) thì phạm trù sản xuất là những hoạt động sản xuất ra hàng hoá
và dịch vụ mà có thể giao cho người khác hoặc một đơn vị khác làm thay được.Ăn,
ngủ không thuộc phạm trù sản xuất vì không thể giao cho người khác làm thay
được.
- Có định nghĩa về sản xuất như sau : Sản xuất là mọi hoat động của con người,
với tư cách là các nhân, hay một tổ chức bằng năng lực quản lý của mình, cùng với
các yếu tố về đất và vốn (tư bản) sản xuất ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ
hữu ích và có hiệu quả cao nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng để phục vụ cho nhu cầu
sử dụng cuối cùng cho đời sống sinh hoạt dân cư và xã hội, xuất khẩu ra nước

ngoài, cho tích luỹ để mở rộng sản xuất và đời sống Quá trình trên tồn tại và vận
động khách quan không ngừng được lặp đi, lặp lại trong năm.
Như vậy, quá trình hoạt động sản xuất có các đặc trưng chung sau :
Là hoạt động có mục đích, có thể làm thay được của con người.
Bao gồm cả hoạt động sản xuất sản phẩm vật chất và hoạt động sản xuất sản phẩm
dịch vụ, nhằm thoả mãn không chỉ yêu cầu cá nhân mà cả nhu cầu chung toàn xã
hội.
Toàn bộ sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ được sản xuất ra có thể đem bán
trên thị trường và không đem bán trên thị trường.
Tuy nhiên, tuỳ điều kiện và quy định của từng quốc gia, trong một số trường hợp
hoạt động của con người không được coi là hoạt động sản xuất :
Những hoạt động tự phục vụ cho mìnhkhông tạo ra thu nhập như : ăn uống, tắm
rửa, tự sửa chữa đồ dùnh trong gia đình;
Những hoạt động nội trợ khác của hộ gia đình dân cư;
Những hoạt động sản xuất và dịch vụ quốc cấm : buôn lậu, buôn ma tuý, hoạt động
mê tín dị đoan, chơi hụi, đánh bạc
1.1.1.2. Lãnh thổ kinh tế :
Lãnh thổ kinh tế của một quốc gia là lãnh thổ địa lý của quốc gia đó, không kể
phần địa giới các sứ quán, lãnh sự quán, khu vực quân sự, cơ quan làm việc của các
tổ chức quốc tế mà các quốc gia khác, các tổ chức liên hợp quốc, các tổ chức phi
chính phủ thuê và hoạt động trên lãnh thổ quốc gia đó và được tính thêm phần địa
giới các tổ chức tương ứng của quốc gia đó thuê và hoạt động trên lãnh thổ địa lý
của quốc gia khác.
Nói một cách cụ thể lãnh thổ kinh tế của một quốc gia bao gồm :
- Lãnh thổ địa lý bao gồm : Đất liền, hải đảo, vùng trời, vùng biển thuộc quốc
gia, trừ phần địa giới các sứ quán, lãnh sự quán, khu vực quân sự, cơ quan làm việc
của các tổ chức quốc tế mà các quốc gia khác, các tổ chức quốc tế thuê và hoạt
động trên lãnh thổ địa lý của quốc gia đó.
- Vùng trời, mặt nước, vùng đất nằm ở vùng biển quốc tế mà ở đó quốc gia
được hưởng các quyền đặc biệt về mặt pháp lý như khai thác hải sản, khoáng sản,

dầu khí
- Vùng lãnh thổ nằm ở nước khác được chính phủ thuê và hoạt động vì mục
đích ngoại giao, quân sự, khoa học như các sứ quán, lãnh sự quán, các căn cứ
quân sự, trạm nghiên cứu khoa học
1.1.1.3 Đơn vị thường trú:
Một tổ chức hay cá nhân đuợc gọi là đơn vị thường trú trên lãnh thổ kinh tế của một
quốc gia nếu tổ chức, cá nhân đó thuộc quốc gia sở tại hay nước ngoài có kế hoạch
cam kết hoạt động lâu dài(trên 1 năm) và chịu mọi sự kiểm soát về pháp luật của
quốc gia đó.
Ví dụ: Hãng Điện tử Samsung của Cộng hoà Hàn quốc đang hoạt động ở Việt Nam
trong nhiều năm nay là đơn vị thường trú trên lãnh thổ Việt Nam.
Xí nghiệp xây dựng cầu đường Z của Việt Nam sang hoạt động ở nước bạn-Lào từ
năm 1991 đến nay là đơn vị thường trú của lãnh thổ kinh tế Lào.
Theo khái niệm đó, đơn vị thường trú trên lãnh thổ kinh tế của một quốc gia bao
gồm :
- Các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong các ngành kinh tế thuộc tát
cả các hình thức sở hữu : Nhà nước, tập thể, tư nhân, hổn hợp, cá thể của quốc
gia hoạt động trên lãnh thổ địa lý của quốc gia.
- Các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong các ngành kinh tế của nước
ngoàiđầu tư trực tiếp, hợp tác liên doanh quốc gia với thời gian trên 1 năm.
- Các tổ chức hoặc tư nhân của quốc gia đó đi công tác, làm việc ở nước
ngoài, kể cả học sinh đi du học ở nước ngoài trên một năm.
- Các đại sứ quán, lãnh sự quán, đại diện quóc phòng, an ninh làm việc ở nước
ngoài.
Ngược lại, một tổ chức hay cá nhân được coi là không thường trú trên lãnh thổ kinh
tế của một quốc gia nếu tổ chức, cá nhân đó đến quốc gia sở tại làm việc, học tập,
nghiên cứu, tham quan dưới thời gian một năm.
1.1.1.4 Phân ngành Kinh Tế Quốc Dân
Nền kinh tế quốc dân : là toàn bộ các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế có chức
năng hoạt động khác nhau, tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với nhau được hình

thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Phân ngành kinh tế quốc dân là sự phân chia nền kinh tế quốc dân thành các tổ
khác nhau (gọi là các ngành kinh tế quốc dân) dựa trên cơ sở vị trí, chức năng hoạt
động của các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế trong hệ thống phân công lao động
xã hội.
Trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), nền kinh tế quốc dân được phân chia
thành 17 ngành (hoạt động) cấp I thuộc 3 nhóm (khu vực) lớn khác nhau theo quy
trình và hình thức hoạt động tự nhiên. Cụ thể :
- Nhóm I được gọi là nhóm ngành khai thác bao gồm các ngành khai thác thuỷ
sản từ tự nhiên, như nông nghiệp và lâm nghiệp, thuỷ sản, khai thác mỏ.
- Nhóm II được gọi là nhòm ngành chế biến, bao gồm các ngành chế biến sản
phẩmkhai thác từ tự nhiên như công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối điện,khí
đốt và nước, xây dựng.
- Nhóm III được gọi là nhóm ngành dịch vụ, bao gồm các ngành sản xuất ra
sản phẩm dịch vụ (dịch vụ sản xuất và dịch vụ không sản xuất) như thương nghiệp,
vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo
Ở Việt Nam dựa vào bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế các hoạt động kinh tế
(ISIC) của hệ thông tài khoản quốc gia (SNA), ngày 27/10/93 Chính phủ đã ra Nghị
định số 75CP ban hành hệ thống ngành kinh té quốc dân gồm 20 ngành cấp I như
sau :
1. Ngành nông nghiệp và lâm nghiệp,
2. Ngành thuỷ sản,
3. Nhành công nghiệp khai thác mỏ,
4. Ngành công nghiệp chế biến,
5. Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước,
6. Ngành xây dựng,
7. Ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ,mô tô,xe máy, đồ dùng cá nhân
và gia đình,
8. Ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc,
9. Ngành khách sạn, nhà hàng,

10. Ngành tài chính, tín dụng,
11. Ngành hoạt động khoa học và công nghệ,
12. Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn,
13. Ngành quản lý nhà nướcvà an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt buộc,
14. Ngành giáo dục và đào tạo,
15. Ngành y tế và hoạt động cứu trợ xã hội,
16. Hoạt động văn hoá và thể thao,
17. Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội,
18. Ngành hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng,
19. Ngành hoạt động làm thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân,
20. Ngành hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế.
1.1.1.5 Vấn đề giá cả :
Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong hệ thống tài khoản quốc gia được tính theo 2
loại giá : giá thực tế và giá so sánh năm gốc.
• Giá thực tế :
Giá thực tế là giá phát sinh trong quá trình giao dịch của năm báo cáo. Giá thực tế
phản ánh sự vận động thống nhất của giá trị sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong sản
xuất - kinh doanh, trong quá trình lưu thông, phân phối và sử dụng cuối cùng với sự
vận động tiền tệ, tài chính, thanh toán. Qua đó giúp ta nhận thức đúng đắn thực tiễn
khách quan về cơ cấu kinh tế, mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong sản xuất, mối
quan hệ phân phối thu nhập, mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với phần huy động
vào ngân sách trong từng năm.
Giá thực tế báo cáo trong SNA là giá thị trường, tức là giá xuất hiện trên thị trường,
giá theo đó người bán sản phẩm và người mua mua sản phẩm trên thị trường, bao
gồm giá cơ bản, giá sản xuất và giá sử dụng cuối cùng theo phạm vi tính và nội
dung kinh tế của từng loại giá.
Giá cơ bản (giá bán buôn xí nghiệp trước đây) = Chi phí sản xuất +
Lợi nhuận xí nghiệp
Giá sản xuất = Giá cơ bản + Thuế sản xuất và thuế hàng hoá (đã trừ các
khoản trợ giúp của Nhà nước)

Giá sử dụng = Giá sản xuất + Chi phí lưu thông
(thương nghiệp và vận tải)
Mối quan hệ giữa các loại giá như sau :
Chi phí sản xuất Lợi nhuận xí nghiệp
Giá cơ bản Thuế sản xuất và hàng hoá
Giá sản xuất Chi phí lưu thông
Giá sử dụng
Căn cứ mục đích nghiên cứu mà tính theo loại giá thích hợp.
• Giá so sánh năm gốc :
Giá so sánh năm gốc là lấy giá sản xuất thực tế của một năm nào đó, trên cơ sở đó
tính đổi các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của các năm khác theo giá năm gốc, nhằm loại
trừ sự ảnh hưởng của yếu tố giá trong mỗi năm để nghiên cứu sự thay đổi thuần về
khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, năm được chọn làm gốc để tính giá so sánh có
thể là năm trước hoặc năm sau năm báo cáo. Trong thực tế thường chọn năm trước
năm đầu của 5 năm kế hoạch. Ví dụ, thời kỳ kế hoạch 1990 -1995 chọn giá sản xuất
thực tế năm 1989 làm gốc; thời kỳ kế hoạch 1995 - 2000 chọn giá sản xuất thực tế
năm 1994 làm gốc. Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp theo giá năm
gốc.
Ngoài ra, kết quả sản xuất còn được tính theo giá cố định. Giá cố định là loại giá so
sánh đặc biệt, do nhà nước tính toán, ban hành và thường được cố định trong một
thời kỳ dài.
1.1.2. Khái niệm, ý nghĩa của tổng sản phẩm quốc nội
1.1.2.1. Khái niệm
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) là toàn bộ sản phẩm vật
chất và dịch vụ do tất cả các ngành kinh tế mới sáng tạo ra trong từng thời kỳ. Là
một bộ phận của giá trị sản xuất còn lại sau khi trừ đi chi phí trung gian. Đó là bộ
phận giá trị mới do lao động sản xuất tạo ra và khấu hao TSCĐ trong một thời kỳ
nhất định ( thường là một năm ).
Hay nói cách khác, tổng sản phẩm quốc nội bằng tổng giá trị tăng thêm của tất cả

các ngànhvà thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân tạo ra trong một thời kỳ
nhất định.
Giá trị tăng thêm (VA - Value Added) và tổng sản phẩm quốc nội giống nhau về nội
dung (các yếu tố giá trị hợp thành C1+ V + M ) nhưng khác nhau về phạm vi tính
toán. C1 + V + M của các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân được gọi là giá trị
tăng thêm (VA), C1 +V + M của toàn bộ nền KTQD được gọi là tổng sản phẩm
quốc nội (GDP).
Quy mô tổng sản phẩm quốc nội là chỉ tiêu tuyệt đối thời kỳ, được tính theo đơn vị
giá trị (theo giá hiện hành, so sánh và cố định).
1.1.2.2 Ý nghĩa
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan
trọng phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các ngành, thành
phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định( thường là
một năm ). Đó là nguồn gốc mọi khoản thu nhập, nguồn gốc sự giàu có và phồn
vinh của xã hội. Nó không chỉ biểu hiện hiệu quả của tái sản xuất theo chiều sâu mà
cả hiệu quả tái sản xuất theo chiều rộng, là một trong những cơ sở quan trọng để
tính các chỉ tiêu kinh tế khác.
Tổng sản phẩm quốc nội là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá sự tăng
trưởng kinh tế của một quốc gia, nghiên cứu khả năng tích luỹ, huy động vốn, tính
toán các chỉ tiêu đánh giá mức sống dân cư, so sánh quốc tế, xác định trách nhiệm
của mỗi nước đối với các tổ chức quốc tế
1.1.2.3 Cơ cấu tổng sản phẩmquốc nội
Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội có thể được nghiên cứu theo các tiêu thức :
- Ngành, vùng, thành phần kinh tế nhằm chỉ rõ vai trò của từng ngành, vùng,
thành phần kinh tế trong việc tạo ra tổng sản phẩm quốc nội.
- Yếu tố cấu thành giá trị : Toàn bộ tổng sản phẩm quốc nội gồm : C1, V, M.
- Loại thu nhập : Toàn bộ tổng sản phẩm quốc nội chia ra thu nhập của các hộ
(người lao động), thu nhập của các doanh nghiệp và của nhà nước.
- Theo mục đích sử dụng
Xét theo quan điểm vật chất, tổng sản phẩm quốc nội bao gồm : tiêu dùng cuối

cùng vủa cá nhân và xã hội, tích luỹ, xuất khẩu hàng hoá thuần.
Xét theo quan điểm tài chính, tổng sản phẩm quốc nội bao gồm : chi cho tiêu
dùng cuối cùng của hộ và chính phủ, tiết kiệm, số dư quan hệ kinh tế với nước
ngoài.
1.1.3 Nguyên tắc tính tổng sản phẩm quốc nội
Là một bộ phận của tống giá trị sản xuất, tổng sản phẩm quốc nội được tính theo
nguyên tắc sau :
- Nguyên tắc thường trú (hay theo lãnh thổ kinh tế ) : Chỉ được tính vào GDP
kết quả sản xuất của các đơn vị thường trú.
- Tính theo thời điểm sản xuất : Kết quả sản xuất của thời kỳ nào được tính
vào GDP của thời kỳ đó.
- Tính theo giá thị trường
Các nguyên tắc trên cần được quán triệt khi tính toán, phân tích các chỉ tiêu thuộc
GDP phù hợp với các đặc điểm cụ thể của chúng.
1.1.4 Các phương pháp tính tổng sản phẩm quốc nội
Là một chỉ tiêu biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất, GDP vận động trải qua ba
giai đoạn : được sản xuất ra trong các ngành sản xuất, được phân phối để hình thành
các khoản thu nhập, được đem sử dụng để thoả mãn các nhu cầu của cá nhân và xã
hội. Tương ứng với ba giai đoạn vận động của nó có ba phương pháp tính tổng sản
phẩm quốc nội (phương pháp sản xuất, phương pháp phân phối và phương pháp sử
dụng cuối cùng).
Tổng sản phẩm quốc nội thường được tính theo ba phương pháp theo quá trình vận
động từ sản xuất - phân phối đến sử dụng.
1.1.4.1 Phương pháp sản xuất
1.1.4.1.1 Công thức tổng quát :
Tổng sản phẩm quốc nội = Tổng giá trị sản xuất - Chi phí trung gian
GDP = GO - IC
• Tổng giá trị sản xuất là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh
tế theo từng kỳ : quý, 6 tháng, năm. Chỉ tiêu này được xác định bằng tổng giá trị sản
xuất của từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế.

Tổng giá trị sản xuất bao gồm toàn bộ các yếu tố : Chi phí trung gian và giá trụ mới
tăng thêm, tổng giá trị sản xuất đã sản xuất ra trong kỳ được sử dụng cho nhu cầu
sản xuất, cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và xã hội (Nhà nước), cho tích luỹ
tài sản và xuất khẩu ra nước ngoài.
Như vậy, tổng giá trị của toàn bộ nền kinh tế đã tính trùng giữa các thành phần chi
phí trung gian. Ví dụ : giá trị sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra đã tính vào giá trị
sản xuất ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp chế biến lương thực lại tính một
lần nữa sản phẩm nông nghiệp đã sử dụng cho sản xuất trong ngành này. Giá trị sản
phẩm vật liệu xây dựng đã tính vào giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến.
Ngành xây dựng sử dụng sản phẩm trên vào xây dựng các công trình nên trong giá
trị sản xuất ngành xây dựng lại tính thêm một lần nữa giá trị sản phẩm của ngành
công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
Sự tính trùng trong chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất phụ thuộc vào mức độ chi tiết của
phân ngành kinh tế quốc dân. Phân ngành kinh tế càng chi tiết, mức độ tính trùng
của chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất càng lớn.
•Chi phí trung gian là bộ phận cấu thành tổng giá trị sản xuất bao gồm những
chi phí vật chất và dịch vụ cho sản xuất (không kể khấu hao). Đó là chi phí sản
phẩm các ngành khác nhau để sản xuất sản phẩm của một ngành nào đó.
Chi phí trung gian bao gồm :
Chi phí vật chất
- Nguyên vật liệu chính, phụ
- Bán thành phẩm
- Nhiên liệu
- Động lực
- Giá trị công cụ lao động là vật rẻ tiền mau hỏng được phân bổ trong năm,
quần áo, dụng cụ bảo hộ lao động dùng trong thời gian làm việc.
- Sửa chữa nhỏ nhà xưởng, máy móc
- Thiệt hại tài sản lưu động trong định mức
- Chi phí vật chất khác
Chi phí dịch vụ

- Cước vận tải, bưu điện
- Chi phí tuyên truyền, quảng cáo ;
- Phí dịch vụ trả ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm ;
- Công tác phí ( không kể phụ cấp đi đường,lưu trú );
- Chi phí đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, chuyên gia
- Chi phí bảo vệ, vệ sinh môi trường ;
- Chi phí dịch vụ pháp lý ;
- Chi phí phòng cháy chửa cháy ;
- Chi nhà trẻ, mẫu giáo;
- Chi thường xuyên về y tế, văn hoá, thể dục thể thao
- Chi tiếp khách
- Dịch vụ khác
Cần lưu ý là, chi phí trung gian là một bộ phận của giá trị sản xuất. Trong cấu thành
chi phí trung gian không có chi phí khấu hao TSCĐ và chi phí thù lao lao động.
Chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và chi phí trung gian là VA, còn chênh lệch
giữa doanh thu và chi phí sản xuất là lợi nhuận. Trong chi phí trung gian còn bao
gồm những khoản chi phí trước đây không được tính vào chi phí sản xuất như chi
phí cho nghỉ mát, điều dưỡng do doanh nghiệp trả. Các hoạch toán như vậy cho
phép tính đầy đủ chi phí mà doanh nghiệp đã thực tế bỏ ra và xác định chính xác
hơn hiệu quả chi phí.
Cần phân biệt hai phạm trù, hai chỉ tiêu khác nhau có liên quan với nhau : chi phí
trung gian và tiêu dùng trung gian.
Xét về nội dung : Khái niệm và nội dung chi phí trung gian đã được trình bày ở
trên, còn tiêu dùng trung gian là tiêu dùng cho sản xuất. Nói chi phí trung gian tức
là nói để sản xuất sản phẩm một ngành cần chi phí bao nhiêu sản phẩm các ngành.
Nói tiêu dùng trung gían là nói trong số sản phẩm được sản xuất ra của một ngành,
có bao nhiêu sản phẩm được dùng làm tư liệu sản xuất để sản xuất sản phẩm các
ngành.
Xét về quy mô : Trong phạm vi từng ngành, chi phí trung gian thường khác tiêu
dùng trung gian. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tổng chi phí trung

gian bằng tổng tiêu dùng trung gian.
Xét về tác dụng : Chi phí trung gian là cơ sở tính giá trị tăng thêm. Xét chi phí
trung gian là xét sản xuất theo quan điểm tài chính. Tiêu dùng trung gian liên quan
đến chỉ tiêu tiêu dùng cuối cùng và sử dụng cuối cùng, xét tiêu dùng trung gian là
xét sản xuấ theo quan điểm vật chất.
Chi phí trung gian được tính theo nguyên tắc :
- Chỉ những yếu tố nào đã được tính vào tổng giá trị sản xuất mới được tính
vào chi phí trung gian.
- Giá tính chi phí trung gian là giá sử dụng khi tính giá trị sản xuất của các yếu
tố thuộc chi phí trung gian.
1.1.4.1.2 Xác định tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo phương pháp sản xuất
Xác định tổng sản phẩm quốc nội theo phương pháp sản xuất là xác định trực tiếp từ
người sản xuất thông qua các yếu tố chi phí và doanh thu đạt được trong kỳ nghiên
cứu ( thường là một năm)
Công thức tổng quát :
Tổng sản phẩm quốc nội = Tổng giá trị sản xuất của các ngành KT -
Tổng chi phí trung gian của các ngành
(TSPQN) (TGTSX) (CPTG)
GDP = VA = ( GO - IC ) = GO - IC
Như trên đã nói, trong phạm vi toàn bọ nền KTQD, tổng chi phí trung gian bằng
tổng tiêu dùng trung gian. Do vậy, còn có công thức tính GDP như sau :
Tổng sản phẩm quốc nội = Tông giá trị sản xuất của các ngành KT -
Tổng tiêu dùng trung gian SP của các ngành
(TSPQN) (TGTSX) (TDTG)
Công thức này không dùng được khi tính giá trị tăng thêm các ngành, các đơn vị, vì
trong phạm vi từng ngành,chi phí trung gian thường không bằng tiêu dùng trung
gian.
Như trên đã nói, GDP là nguồn gốc mọi khoản thu nhập. Khi tổng hợp giá trị tăng
thêm (C1 + V + M ) các ngành để có (C1 + V + M) của toàn bộ nền KTQD (GDP)
chưa tính đến thu nhập từ thuế nhập khẩu nên trong thực tế GDP được tính theo

công thức :
GDP = Tổng giá trị sản xuất của các ngành KT - Tổng chi phí trung
gian các ngành + Tổng thuế nhập khẩu sản phẩm vật chất và dịch vụ
GOi - ICi + Ti
= Tổng giá trị tăng thêm + Tổng thuế nhập khẩu sản phẩm vật chất và dịch
vụ
= ( C1i + V1 + Mi ) + Ti
Trong đó :
GOi : Tổng giá trị sản xuất ngành i
ICi : Chi phí trung gian của ngành i
( C1i + V1 + Mi ) : Giá trị tăng thêm ngành i
Ti : Tổng thuế nhập khẩu sản phẩm vật chất và dịch vụ
1.1.4.2 Phương pháp phân phối :
Tổng sản phẩm quốc nội bao gồm các yếu tố sau :
- Thu nhập từ sản xuất (SX) của người sản xuất
+ Tiền lương, tiền trả công lao động
+ Trích bảo hiểm xã hội trả thay lương
+ Thu nhập khác từ sản xuất
- Thuế sản xuất (không bao gồm thuế lợi tức, thuế thu nhập và các lệ phí khác
không coi là thuế sản xuất)
- Khấu hao tài sản cố định
- Giá trị thặng dư
- Thu nhập hỗn hợp từ sản xuất
Nếu chỉ tiêu Tổng giá trị sản xuất bị tính trùng giữa các ngành và thành phần kinh tế
thì Tổng sản phẩm quốc nội không bị tính trùng trong từng ngành, từng thành phần
kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Thuế sản xuất bao gồm :
+ Thuế doanh thu hoặc VAT
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt
+ Thuế xuất khẩu

+ Thuế nhập khẩu
+ Thuế vốn
+ Thuế tài nguyên : đất, rừng, hầm mỏ
+ Thuế môn bài
+ Các lệ phí khác coi như thuế sản xuất
- Giá trị thặng dư là phần còn lại của giá trị sản xuất sau khi trừ đi phần trả thù
lao cho người sản xuất, nộp thuế sản xuất cho nhà nước, khấu hao TSCĐ. Trong đó
bao gồm : trả lợi tức kinh doanh cho bên ngoài; trả lãi tiền vay (sau khi trừ đi dịch
vụ tiền vay đã tính vào chi phí trung gian); trả lợi tức thuê đất, tài nguyên, vùng trời,
vùng biển; lợi tức nộp cấp trên; thuế lợi tức, thuế thu nhâp của doanh nghiệp; lợi tức
thuần từ hoạt động kinh doanh còn lại của doanh nghiệp.
- Thu nhập hỗn hợp bao gồm phần thu nhập của người sản xuất và lợi tức kinh
doanh. Chỉ tiêu này thường được tính đối với thành phần kinh tế cá thể, sản xuất
của hộ gia đình, hoạt động của khu vực kinh tế không chính quy (Informal sector).
Phương pháp phân phối cũng được tính cho từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế
rồi tổng hợp cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.1.4.3 Phương pháp sử dụng cuối cùng :
Tổng sản phẩm quốc nội được tính theo phương pháp này trên phạm vi toàn bộ nền
kinh tế theo công thức sau :
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) = Tiêu dùng cuối cùng của dân cư, hộ gia
đình và xã hội (nhà nước) + Tích luỹ tài sản (TSCĐ, TSLĐ) + Xuất
khẩu hàng hoá và dịch vụ (giá FOB) - Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
(giá FOB)
- Tiêu dùng cuối cùng (TDCC) của hộ gia đình là toàn bộ giá trị sản phẩm vật
chất và dịch vụ hộ gia đình (cá nhân) đã sử dụng phục vụ cuộc sống thường nhật .
TDCC của hộ gia đình bao gồm TDCC từ thu nhập cuối cùng của hộ gia đình và
TDCC được hưởng không phải trả tiền từ các tổ chức dịch vụ nhà nước và từ các
đơn vị không vì lợi phục vụ trực tiếp cho hộ gia đình.
- TDCC của Nhà nước là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ Nhà
nước đã sử dụng để chi tiêu cho các nhu cầu thường xuyên của Nhà nước về quản lý

Nhà nước, an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội bắt buộc
- Tích luỹ TSCĐ bao gồm : tích luỹ mới và sữa chửa lớn TSCĐ hữu hình ; tích
luỹ TSCĐ vô hình; chi phí đầu tư làm tăng giá trị TSVĐ hữu hình không phải là kết
quả sản xuất ; tích luỹ tài sản thuê tài chính
- Tích luỹ tài sản lưu động bao gồm : nguyên, nhiên, vật liệu dự trữ cho sản
xuất; thành phẩm, bán thành phẩm tồn kho; sản phẩm dở dang.
- Xuất, nhập khẩu bao gồm toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ được mua
bán, trao đổi, chuyển nhượng giữa các đơn vị thường trú và không thường trú của
nền kinh tế quốc dân. Xuất nhập khẩu bao gồm xuất nhập khẩu tại chổ và xuất nhập
khẩu qua biên giới.
1.2 Đặc điểm tình hình thị xã Tam Kỳ
Năm 1997 tỉnh Quảng Nam được tái lập theo Nghị quyết Quốc hội kỳ họp thứ 10,
khoá VIII, Tam Kỳ trở thành thị xã tỉnh lỵ là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá
của tỉnh Quảng Nam.
Thị xã Tam Kỳ cách thành phố Đà Nẵng 70km về phía Bắc, cách khu công nghiệp
Dung Quất 40km về phía Nam, nằm trong vùng phát triển kinh tế Đà Nẵng - Dung
Quất, vùng trọng điểm phát triển kinh tế của miền Trung. Diện tích tự nhiên
343,72km2, có 21 đơn vị hành chính (gồm 8 phường và 13 thị xã), diện tích đất đô
thị 36km2 (3562 ha) chiếm 10,6% tổng diện tích, diện tích đất xây dựng đô thị
14,6km2 chiếm trên 40% diện tích đất đô thị. Dân số trung bình 172.378 người
(năm 2002), trong đó dân số thành thị 55.073 người, chiếm 31,94% tổng số dân.
Mật độ dân số bình quân toàn thị xã 502 người/km2.
Cùng với việc lãnh đạo phát triển kinh tế, trên lĩnh vực quy hoạch, đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng đã được chú trọng : Công tác quy hoạch được tập trung, đã hoàn thành
quy hoạch khu nội thị, khu công nghiệp Thuận Yên (Trà Cai), khu văn hoá du lịch
biển Tam Thanh, khu dân cư thương mại Bạch Đằng, hệ thống giao thông, mạng
lưới chợ nông thôn và nội thị, các khu dân cư mới. Đang xúc tiến quy hoạch và xử
lý rác thải, mạng lưới trường học, nuôi trồng thuỷ sản, hệ thống thuỷ lợi, vùng
nguyên liệu.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng có bước khởi sắc đáng kể. Trong 6 năm đã đầu tư

trên địa bàn hơn 720 tỷ đồng. Trong đó, thị xã làm chủ đầu tư 176 tỷ đồng, chiếm
24,1%. Ngoài ra, còn huy động sự đóng góp trong dân với phương châm “Nhà nước
và nhân dân cùng làm”, “dân làm Nhà nước hỗ trợ” như : bê tông hoá giao thông
nông thôn, đường kiệt nội thị, kiên cố hoá kênh mương thuỷ lợi, lát vỉa hè, giải toả
xây dựng các công trình công cộng, mở rông đường Trần Cao Vân sự đóng góp ấy
là to lớn, chưa thể thống kê hết.
Trong 6 năm qua, cơ bản hình thành cơ sở hạ tầng khu hành chính tỉnh lỵ. Nhiều
công trình đã đưa vào sử dụng như : trụ sở làm việc của các cơ quan Trung ương,
tỉnh, thị xã, các cơ sở phúc lợi xã hội như : Đài phát thanh truyền hình tỉnh, trung
tâm văn hoá thông tin tỉnh, bệnh viện Quảng Nam, bệnh viện y học dân tộc tỉnh,
Trung tâm thể thao, hạ tầng kinh tế kỹ thuật như : hệ thống tài chính - ngân hàng,
điện lực, bưu chính viễn thông khá hoàn chỉnh, góp phần đáng kể cho sự phát triển
đô thị. Các tuyến đường ngang, dọc khu hành chính tỉnh, đương Hùng Vương, cầu
Tam Kỳ 2, cầu Nguyễn Văn Trỗi các tuyến nội thị đã chỉnh trang nâng cấp trên
15km đường nhựa. Cùng với việc mở rông đô thị có 12 khu dân cư mới hình thành
với tổng kinh phí đầu tư trên 35 tỷ đồng. Hệ thống cấp nước sạch, điện chiếu sáng,
cảnh quan, môi trường sinh thái đô thị, hệ thống cây xanh vỉa hè, đường kiệt nội thị,
thu gom xử lý rác thải được đầu tư nâng cấp mở rộng và xây dựng mới.
Mặc dầu Tam Kỳ là một đô thị nhưng khu vực nông thôn có một vùng rông lớn,
chiếm hơn 2/3 diện tích và dân số toàn thị xã, lại là vùng còn nhiều khó khăn nhất, 6
năm qua đã tập trung gần 100 tỷ đồng, xây dựng mới, sữa chửa nhiều cầu cống và
các tuyến giao thông liên xã, liên thôn, hệ thống trạm xá được đầu tư tu sữa nâng
cấp, 9/13 xã được xây dựng trụ sở làm việc mới, nhiều trường học ở vùng lũ, ở
vùng trọng điểm được đầu tư tầng hoá. Bộ mặt nông thôn đã đổi thay, đời sống
nhân dân được tăng lên đáng kể, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị được rút
ngắn.
Trên lĩnh vực thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ. Tổng thu ngân sách trên địa bàn
tăng bình quân hằng năm 10 %, đảm bảo được nhu cầu chi thường xuyên và giành
một phần cho đầu tư phát triển. Năm 2002 tổng chi ngân sách tăng gấp 4 lần so với
năm 1996 và cơ cấu chi đầu tư phát triển chiếm 44 % tổng chi.

Trong 6 năm qua, đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài trên 63 tỷ đồng. Trong đó dự án
điện OPEC trên 10 tỷ, dự án cơ sở hạ tầng nông thôn 10 tỷ, dự án nhà máy nước 30
tỷ và các nguồn viện trợ khác tăng 3 tỷ đồng (chưa kể các dự án do tỉnh, trung ương
làm chủ đầu tư), và hiện đang lập các dự án kêu gọi đầu tư khoảng 47 triệu USD.
Xuâït phát từ quan điểm “ Phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết tốt các vấn đề
VH - XH “, trong những năm qua, trên lĩnh vực văn hoá xã hội đã có nhiều cố gắng,
giải quyết tốt những những vấn đề bức xúc như đảm bảo cơ sở vật chất tối thiểu cho
dạy và học, đa dạng hoá các loại hình trường lớp ở các cấp học, bậc học. Khuyến
học, khuyến tài phát triển sâu rộng đến tận thôn tổ, tộc họ; từng bước chuẩn hoá
được đội ngũ; hoàn thành phổ cập tiểu học và xoá mù chữ, 8/20 xã, phường đã phổ
cập THCS trong độ tuổi. Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân đã
được chú trọng, 20/20 trạm y tế xã, phường được nâng cấp, xây mới. Đội ngũ thầy
thuốc ngày được nâng cao về chất lượng, 60 % trạm xá xã, phường có bác sĩ.
Thựchiện có kết quả nhiều chương trình y tế quốc gia như TCMR, thanh tóan bệnh
phong
Trong định hướng phát triển kinh tế, thị xã tỉnh lỵ Tam Kỳ chuyển dịch theo hướng
công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch - nông nghiệp . Chính vì vậy, việc thu
hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, với các chính sách ưu đãi để đầu tư phát
triển công nghiệp tại khu công nghiệp Thuận Yên (Trà Cai), cụm công nghiệp
TTCN Trường Xuân, các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nội thị, ven đô
khác và khai thác tiềm năng du lịch tại hồ Phú Ninh, biển Tam Thanh, tháp Chiên
Đàn, địa đạo Kỳ Anh, nhà tưởng niệm cụ Phan Châu Trinh là nhiệm vụ trọng tâm
trong thời gian đến.
Khu công nghiệp Thuận Yên (Trà Cai)
Nằm trên tuyến phát triển phía tây của thị xã Tam Kỳ, cách trung tâm thị xã tỉnh lỵ
2 Km, cách quốc lộ 1A một Km về phía tây và nhà ga Tam Kỳ 1 Km về phiá nam,
thuộc địa phận xã Tam Đàn. Tổng diện tích quy hoạch 225 ha, đất công nghiệp 110
ha, quy hoạch giai đoạn 150 ha.
Đây là một trong những khu công nghiệp tập trung các loại hình thuộc các ngành :
sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất

hàng gia dụng, may da giày xuất khẩu
Thị xã Tam Kỳ khuyến khích vào khu công nghiệp Thuận Yên các ngành công
nghiệp như : sản xuất đồ gia dụng, dệt may, giày da xuất khẩu, cơ khí chế tạo, sản
xuất vật liệu xây dựng, bao bì đóng gói, công nghiệp hoá chất, đồ nhựa
Cụm công nghiệp TTCN Trường Xuân
Có diện tích 10 ha, cách đường sắt Bắc nam 200 m và quốc lộ 1A một Km về phía
tây. Cụm công nghiệp TTCN Trường Xuân có các lợi thế : giao thông thuận tiện, cơ
sở hạ tầng sẳn có, giá đất thấp, ưu tiên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hổ trợ một
phần lãi suất sau đầu tư, thủ tục giải quyết nhanh gọn
Các ngành nghề khuyến khích đầu tư vào cụm công nghiệp TTCN Trường Xuân :
công nghiệp dệt may, giày da xuất khẩu, công nghiệp bao bì đóng gói, công nghiệp
sản xuất đồ gia dụng, công nghiệp cơ khí chế tạo, gia công vật liệu xây dựng, công
nghiệp chế biến nông lâm, thuỷ hải sản.
Du lịch - dịch vụ
Du lịch dịch vụ trên địa bàn thị xã Tam Kỳ đang trên đà khởi sắc, tiềm năng sẽ
được khơi dậy khi các trục kinh tế Chu Lai - Dung Quất, các khu công nghiệp
Quãng Nam phát triển sôi động, nối liền với các tour du lịch đã và đang khai thác
như : Hội An - Mỹ Sơn - Cù Lao Chàm Du lịch Tam Kỳ phát triển với 2 loại hình
chính : du lịch sinh thái và du lịch văn hoá.
Chương 2 :Phân tích biến động GDP thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000 - 2002
2.1 Tình hình thực hiện kế hoạch GDP
2.1.1Tình hình thực hiện kế hoạch GDP năm 2000
Biểu 1 :
Nhóm ngành Kế hoạch Thực hiện % HTKH Số tuyệt đối
Nông, lâm, thuỷ sản 210391 224698 106.8 14307
Công nghiệp - xây dựng 140110 151599 108.2 11489
Dịch vụ 186735 206067 110.35 19332
TỔNG 537236 582364 108.4 45128
Nhìn chung, việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch GDP của thị xã năm 2000 là hoàn
thành, vượt mức kế hoạch đề ra là 8.4 % hay 45128 triệu đồng. Cụ thể, trong năm

2000, do hậu quả thiên tai để lại trong năm 1999 đã gây ảnh hưởng rất nhiều đến
tình hình sản xuất và đời sống người dân, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Trong
năm, khu vực kinh tế nông, lâm, thuỷ sản chỉ vượt mức kế hoạch 6.8 %. Ngoài ra,

×