Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Nghiên cưu các khó khăn và đề xuất giải pháp cho nhập khẩu linh kiện mặt hàng xe máy docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.39 KB, 42 trang )

lời nói đầu

Đất nước ta đang bước vào thời kì đổi mới, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế
giới. Để bắt kịp với nền kinh tế thế giới, tại đại hội Đảng khoá VIII, Đảng đã chủ
trương : “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại tự chủ, mở rộng đa phương hoá, đa
dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Vịêt Nạm muốn làm bạn với tất cả các
nước trên thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều măt,
song phương và đa phương với các nước, các khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng cùng có lợi giải quyết các vấn đề
còn tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng.
Trên cơ sở đó hoạt động thương mại quốc tế ở nước ta ngày càng phát triển, vì
thương mại quốc tế là tất yếu khách quan tạo ra hiệu quả cao nhất trong nền sản xuất
của mỗi quốc gia củng như trên toàn thế giới. ở nước ta, việc nhập khẩu đẩy nhanh quá
trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Hoạt động xuất khẩu ở nước ta còn hạn chế mà chủ yếu là nhập khẩu, có thể là
nhập thiết bị máy móc để phục vụ sản xuất, nhập nguyên vật liệu để gia công xuất
khẩu , nhập tư liệu về sản xuất phục vụ đời sống dân sinh . Vịêt Nam ta đã qua thơi
phải lo cho việc ăn sao cho đủ no mặc sao cho đủ ấm, mà bây giờ vươn lên nhu cầu tự
thoả mãn bản thân, mua sắm phục vụ đời sống, nhu cầu đi lại sao cho thuận tịên. Hịên
nay xe máy và xe đạp vẫn là những phương tiện đi lại chủ yếu của người dân Vịêt
Nam, thị trường xe máy hiện nay rất sôi động và kinh doanh mặt hàng xe máy đang là
nguồn lợi của nhiều công ty.
Công ty Quan Hệ Quốc Tế -Đầu Tư Sản Xuất củng tham gia vào thị trường đó
và hoạt động liên tục có lãi trong nhiều năm qua .Trong thời gian thực tập và nghiên
cứu tại công ty,tôi đã chọn đề tài:“Nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe máy của công ty
Quan Hệ Quốc Tế Đầu Tư Sản Xuất Thuận lợi , khó khăn và giải pháp”.
Đề tài gồm các nội dung chủ yếu sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về nhập khẩu
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe máy của công ty
Quan Hệ Quốc Tế Đầu Tư Sản Xuất Giai đoạn năm 2000 –2002


Chương III: Một số giải pháp tiến hành hoạt động nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe máy
có hiệu quả của công ty Quan Hệ Quốc Tế Đầu Tư Sản Xuất
Chương I Những vấn đề lý luận chung về nhập khẩu
I.Vai trò của hoạt động nhập khẩu
1. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với doanh nghiệp
Hoạt động nhập khẩu là một trong những khâu quan trọng trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu đã góp phần cung cấp hoàn
thiện yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất .Vì vậy, đối với một doanh nghiệp khi sản
xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó cần phải xem xét và nắm bắt tình hình nhập
khẩu một cách kỹ càng về mặt hàng cần nhập thì có sản phẩm chất lượng tốt đáp ứng
được nhu cầu của thị trường. Thực tế cho thấy hoạt động nhập khẩu tốt, có thể tiết
kiệm được chi phí sản xuất dẫn đến giảm được được chi phí giá thành tăng lợi nhuận.
Chẳng hạn như ,một doanh nghiệp khi sản xuất một loại sản phẩm nào đó mà sản
phẩm này đã có nhản hiệu uy tín trên thị trường. Để sản phẩm đạt được đáp ứng nhu
cầu khách hàng ,doanh nghiệp cần phải nhập khẩu những linh kiện máy móc, dây
chuyền công nghệ hiện đại phục vụ cho quá trình sản xuất ,đều này đã tạo cho doanh
nghiệp một sản phẩm với giá thành rẻ dĩ nhiên sản phẩm sẽ có ưu thế trên thị ,nên
doanh thu lớn và lợi nhụân cao .
Hoạt động nhập khẩu không những giảm được chi phí giá thành mà còn tăng
được năng suất lao động.Thực vậy, một doanh nghiệp tự tạo ra sản phẩm mà không
cần nhập khẩu các thiết bị vật tư , dây chuyền công nghệ …thì rất vất vả cho quá trình
sản xuất ,tình trạng này có thể nói là quá bảo thủ của doanh nghiệp ,làm cho doanh
nghiệp dể đi đến phá sản. Nhưng khi doanh nghiệp tìm ra lối thoát đó nhập khẩu các
thiết bị hiện đại và dây chuyền công nghệ …thì doanh nghiệp không những sản xuất
được sản phẩm có chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của thị trương mà còn sản xuất ra
hàng loạt sản phẩm lại rất ích thời gian.Điều trên có thể khẳng định hoạt động nhập
khẩu đã tăng được năng suất lao động.
Hoạt động nhập khẩu khiến cho các doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt để chiếm
được thị trường tức tăng sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp để
đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ,dĩ nhiên phải quan tâm đến các đối thủ cạnh

tranh để làm sao chiếm được thị phần hay thị trường trong nước và nước ngoài. Để đạt
được điều này ,các doanh nghiệp cần phải cải tiến mẫu mã của mình thông qua việc
thúc đâỷ hoạt động nhập khẩu. Chẳng hạn như :nhập khẩu các máy móc thiết bị ,dây
chuyền công nghệ hiện đại…. có thế mới có thể hạ đượcđối thủ cạnh tranh và chiếm
lĩnh được thị trường.
Hoạt động nhập khẩu còn có vai trò khác đối với doanh nghiệp đó là mở rộng
quy mô sản xuất ,phân công lao động xã hội….
Nhập khẩu là một yếu mang tín quyết định cho việc mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp .Bỡi vì, khi doanh nghiệp đã có thị trường nhập khẩu thuận
lợi ,dĩ nhiên việc nhập khẩu có hiệu quả làm cho sản phẩm sản xuất có chất lượng cao
đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Do vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải mở rộng quy mô
để có sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng .khi đã có được một khoản lợi nhuận
doanh nghiệp phải chi cho một phần để duy trì cho tái sản xuất .qua trên cho thấy hoạt
động nhập khẩu có vai trò to lớn đối với doanh nghiệp đó là mở rộng quy mô sản xuất
và giúp cho quá trình tái sản xuất tốt.
Phân công lao động rỏ rệt khi hoạt động nhập có hiệu quả, điều này thể hiện ở
chổ khi hoạt động nhập khẩu trở nên thiết yếu của doanh nghiệp thì thì mỗi cá nhân
hay tập thể của doanh nghiệp điều có một trình độ chuyên môn ứng với công việc cụ
thể. Đây là, làm cho phân công lao động rỏ rệt vì khi nhập thiết bị hiện đại đòi hỏi phải
có cán bộ chuyên môn về lĩnh vực này, nếu không có thì không thể sử dụng được.
Nói tóm lại :hoạt động nhập khẩu đóng vai trò then chốt của doanh, nên các doanh
nghiệp cần quan tâm đến lĩnh vực này một cách triệt để, khai thác hết tiềm lực của
hoạt động này. Tuy nhiên, hoạt động nhập khẩu còn có vai trò to lớn đối với nền kinh
tế.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế
Hoạt động sản xuất kinh doanh rất quan trọng đối với nền kinh tế.Thực tế cho
thấy nền kinh tế muốn phát triển được là nhờ hoạt động thương mại. Hoạt động nhập
khẩu chỉ là một vế chưa đầy đủ của hoạt động thương mại nhưng nó củng đã chiếm ưu
thế quan trọng của sự phát triển đến nền kinh tế thể hiện ở một số điểm sau:
Hoạt động nhập khẩu có vai trò tăng năng xuất lao động xã hội và giảm thất

nghiệp.Hoạt động này , có hiệu quả và được các doanh nghiệp trong quốc gia đánh giá
cao về sản phẩm nhập khẩu . Vì khi hàng hoá nhập khẩu tốt sẽ giúp cho các doanh
nghịêp có nhiều phương thức sản xúât ra sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị
trường . Loại sản phẩm này chỉ sản xuất trong thời gian ngắn , ít lao động ,do đó năng
suất lao động cá nhân tăng làm cho năng suất lao động xã hội tăng . Khi sản phẩm có
sức cạnh tranh trên thị trường thì doanh doanh nghiệp sẳn sàng mở rộng quy mô sản
xuất . Do đó cần nhiều lao động với ngành nghề khác nhau ( cán bộ quản lý , kỹ sư ,
công nhân …) . qua trên hoạt động nhập khẩu không những tăng năng suất lao động xã
hội mà còn giảm đựơc thất nghiệp ,tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Hoạt động nhập khẩu có vai trò giúp cho nền kinh tế lạc hậu trở nên phát triển
và có thể đuổi kịp nền văn minh nhân loại. Thực tế cho thấy với sự phân bố không
đồng điều về con người và nguồn tài nguyên.Mõi cộng đồng loài người trên thế giới có
cách sống và làm việc khác nhau,nên sự học hỏi kinh nghiệm và chuyễn giao phát
minh trí tuệ là không ngừng .Hoạt động nhập khẩu là tiền đề cho quá trình trên ,vì nó
có vai trò cung cấp những lợi thế so sánh của một nước cho nước khác về những bí
quyết công nghệ hay sáng chế … Và đòi hỏi quốc gia kém lợi thế hơn phải có nhu cầu
để phục vụ cho sự phát triển của quốc gia mình . Các quốc gia hầu hết muốn đuổi kịp
sự phát triển của quốc gia khác .
Hoạt động nhập khẩu là vấn đề cần quan tâm nhất mà mỗi quốc gia hay tổ chức
quốc tế đề cập đến .Vì hoạt động nhập khẩu rất phức tạp ,nếu như hoạt động nhập
khẩu không thuận lợi cho các quốc gia thì lại có tranh chấp xẩy ra,thậm chí xẩy ra
chiến tranh.Vì vậy ,thế giới lại dẫn đến thảm hoạ về môi trường .Bên cạnh đó nếu như
một quốc gia mà nhập khẩu công nghệ lạc hậu thì có thể ảnh hưởng đến môi trường .
Hoạt động nhập khẩu có hiệu quả ,dẩn đến xuất hiện nhiều doanh nghiệp .Do
đó mọc lên nhiều nhà máy dẫn đến lượng khí co2nhiều thải ra ngoài ảnh hưởng đến
môi trường .Về dân số việc di cư và di dân giữa các quốc gia tăng do quá trình nhập
khẩu làm cho con người cần phải có nơi làm ăn thuận lợi , buộc họ phải xa tổ quốc .
Từ trên ,hoạt động nhập khâu cần phải có được nhiều quốc gia củng như các tổ
chức quốc tế quan tâm để cùng nhau giải quyết những tranh chấp ,hiểm hoạ môi
trường … thì hoạt động này mới là có hiệu quả tốt cho toàn quốc gia trên toàn thế giới.

Nói tóm lại : Hoạt động nhập khẩu có vai trò quan trọng,then chốt cho nền kinh
tế .Vì hoạt động này, giúp xã hội phát triển về nhiều mặt.
II. Các hình thức của hoạt động nhập khẩu
1. Nhập khẩu trực tiếp
Hoạt động nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh
nghiệp kinh doanh nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong nước và quốc
tế , tính toán chính xác các chi phí ,đảm bảo hiệu quả kinh doanh nhập khẩu , tuân thủ
đúng chính sách , luật pháp quốc gia và lụât pháp quốc tế . Trong hình thức này ,
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải trực tiếp làm các hoạt động tìm kiếm đối tác
, đàm phán ,ký kết hợp đồng …. và phải bỏ vốn để tổ chức kinh doanh hàng nhập
khẩu.
2. Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước
có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu muốn nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng lại
không có quyền tham gia các hoạt động nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh
nghiệp khác làm nhiệm vụ giao dịch trực tiếp và tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo
yêu cầu của mình . Bên uỷ thác phải tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài và làm
thủ tục nhập hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác .Bên nhận uỷ thác sẽ được hưởng
một phần thù lao được gọi là phí uỷ thác .
3. Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động kinh doanh nhập hàng hoá trên cơ sở liên
kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó ít nhất một bên là
doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao
dịch và đề ra các chủ trương , hướng hoạt động này sao cho có lợi nhất cho tất cả các
bên , cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lổ.
4. Nhập khẩu hàng đổi hàng
Nhập khẩu đổi hàng cùng trao trôi đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của
buôn bán đối lưu, đó là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu. Thanh toán cho hoạt
động này không dùng tiền mà hàng hoá. Mục đích của nhập khẩu hàng đổi hàng là vừa
thu lãi từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu và vừa xuất khẩu được hàng hoá trong nước

ra nước ngoài.
5. Nhập khẩu tái xuất
Họat động nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập hàng hoá vào trong nước
nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba để thu lợi
nhuận , những mặt hàng này không được qua chế biến ở nơi tái xuất. Như vậy, trong
hình thức này có sự tham gia của ít nhất ba quốc gia : nước xuất khẩu hàng hoá , nước
nhập khẩu hàng hoá để tái xuất, nước nhập khẩu hàng đã được tái.
III. Nội dung của hoạt động nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu có những nhiệm vụ phức tạp hơn nhiều hơn so với hoạt
động kinh doanh nội địa do có sự khác biệt về chủ thể và khoảng cách địa lý . Vì vậy,
để thực hiện hoạt động nhập khẩu có hiệu quả thì doanh nghiệp xuất khẩu cần xác định
rỏ trách nhiệm, nội dung và trình tự công việc phải làm . Mỗi bước , mỗi nghiệp vụ
phải được nghiên cứu , thực hiện đầy đủ , kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau
,tranh thủ nắm bắt lợi thế nhằm đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao nhất , phục vụ
đầy đủ , kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước .
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sửphát triển của nền sản xuất
hàng hoá, ở đây có sản xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó sẽ xuất hiện khái niệm về
thị trường. Nghiên cứu thị trường là công việc đầu tiên , rất cần thiết đối với bất kỳ
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào , không loại trừ doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu. Nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gồm các
công đoạn sau:
Bước 1. Nhận biết sản phẩm nhập khẩu
Mục đích của việc nhận biết sản phẩm nhập khẩu là lựa chọn được mặt hàng
kinh doanh có lợi . Muốn vậy, doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi sau:
Thị trưởng trong nước đang cần những mặt hàng gì ? Các doanh nghiệp cần xác định
được mặt hàng cùng với nhản hiệu , phẩm chất , giá cả và số lượng hàng hoá đó.
Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó trong nước ra sao ? Mỗi loại mặt hàng đều có thói
quen tiêu dùng riêng , điều đó thể hiện ở thời gian tiêu dùng ,thị hiếu và quy luật biến
đổi của quan hệ cung cầu về mặt hàng đó trên thị trường.

Mặt hàng đó ở giai đoạn nào của chu kỳ sống ? Bất cứ một sản phẩm nào củng đều
có chu kỳ sống riêng. Nắm được mặt hàng mà doanh dự tính kinh doanh đang ở giai
đoạn nào của chu kỳ sống sẽ xác định được các biện pháp cần thiết để nâng cao doanh
số bán hàng và thu được nhiều lợi nhuận.
Tình hình sản xuất của mặt hàng đó trong nước như thế nào ? Muốn kinh doanh có
hiệu quả thì bất kể doanh nghiệp nào củng phải quan tâm đến quan hệ cung cầu về mặt
hàng kinh doanh.Vấn đề mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần xem xét
ở đây là : khả năng sản xuất , thời vụ sản xuất , tốc độ phát triển của mặt hàng đó trong
nước . Việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu không chỉ dựa vào những tính toán , ước
tính và những biểu hiện cụ thể của hàng hoá mà còn dựa vào kinh nghiệm của người
nghiên cứu thị trường để dự đoán các xu hướng biến động của giá cả thị trường trong
nước và nước ngoài, khả năng thương lượng để đạt tới điều kiện mua bán ưu thế hơn.
Bứơc2 - Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
Đối với nhập khẩu , việc tìm hiểu dung lượng thị trường hàng hoá cần nhập là
rất quan trọng. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một hàng hoá là một khối hàng
hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định (thế giới , khu vực, quốc gia
) trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Nghiên cứu dung lượng thị trường
cần xác định nhu cầu thật của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của
nhu cầu trong từng thời điểm, các khu vực trên từng lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng.
Cùng vớiviệc xác định nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị
trường, bao gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng thay thế,
khả năng lựa chọn mua bán.
Dung lượng thị trường là không cố định, nó thay đổi tuỳ theo diễn biến của tình hình
tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Có thể chia làm
3 loại nhân tố ảnh hưởng dung lượng thị trường căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của
chúng :
- Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ. Đó là sự
vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ trong sản xuất lưu
thông và phân phối hàng hoá. Sự vận động của tình hình kinh tế các nước phát triển có
tính chất quan trọng ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hoá trên thế giới. Có thể nói

như vậy vì hầu hết hàng hoá trên thế giới đều được sản xuất ở các nước phát triển.
Nắm vững tình hình kinh tế phát triển đối với thị trường hàng hoá có ý nghĩa quan
trọng trong việc vận dụng kết quả nghiên cứu về thị trường và giá cả để lựa chọn thời
gian giao dịch nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
- Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài sự biến động của thị trường : bao gồm những
tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư
bản lũng đoạn, thị hiếu tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng của khả năng sản
xuất hàng hoá thay thế hoặc bổ sung.
- Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường như hiện tượng gây
đầu cơ đột biến cung cầu,các yếu tố tự nhiên như thiên tai, hạn hán, động đất và các
yếu tố chính trị xã hội.
Nắm được dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó giúp các nhà kinh
doanh cân nhấc để đề ra quyết định kịp thời, chính xác,nhanh chóng chớp thời cơ giao
dịch. Cùng với việc nghiện cứu dung lượng thị trường các nhà kinh doanh phải được
tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh và dấu hiệu
về chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế hoà hợp nhanh chóng
với thị trường.
Bước 3 -Nghiên cứu già cả trên thị trường quốc tế
Trên thị trường thế giới,giá cả chẳng những phản ánh mà còn điều tiết mối quan hệ
cung cầu hàng hoá. Việc xác định đúng đắn giá hàng hoá trong xuất nhập khẩu có một
ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả thương mại quốc tế.
Giá cả trong hoạt động xuất nhập khẩu là giá cả quốc tế. Giá quốc tế có tính chất đại
diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới. Giá cả đó phải là giá
cả giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và
thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyễn đổi được. Dự đoán xu hướng biến động của giá
cả hàng hoá trên thế giới rất phức tạp, có lúc theo chiếu hướng tăng, có lúc theo chiều
hướng giảm, đặc bịêt có những lúc giá cả hàng hoá có xu hướng ổn định nhưng xu
hướng này là tạm thời. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động trên thị trường thế
giới trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dư đoán tình hình thị trường loại
hàng hoá đó, đánh giá đúng ảnh hưởng của nhân tố tác động xu hướng vận động của

giá cả hàng hoá.
Các nhân tố tác động đến giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới có rất nhiều và có thể
phân loại theo nhiều cách khác nhau. Khi dự đoán xu hướng biến động lâu dài như:
chu kỳ , giá trị … khi dự đoán xu hướng biến động của giá cả trong thời gian ngắn cần
phân tích đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của những biến đổi về cung cầu và các nhân tố
mang tính chất tạm thời như: thời vụ , nhân tố tự nhiên.
2. Lựa chọn phương thức giao dịch nhập khẩu
Sau khi tiến hành công việc nghiên cứu thị trường quốc tế , cần lựa chọn hình
thức giao dịch thích hợp trước khi tiến hành kí kết hợp đồng. Trong hoạt động mua
bán quốc tế có một số phương thức giao dích chủ yếu sau:
Giao dịch thông thường là giao dịch có thể thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc, trong đó
người bán và người mua tiếp quan hệ với nhau cách gặp mặt hoặc qua thư từ, điện tín
để bàn bạc với nhau về các điều kịên giao dịch . Những nội dung này được thoả thuận
một cách tự nhiên, không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không
nhất thiết phải gắn với việc bán. Phương thức giao dịch này có ưu điểm là hai bên có
thể thảo luận trực tiếp dễ dàng, giảm chi phí trung gian và dễ thâm nhập thị trường.
Tuy nhiên, nó củng có phần hạn chế với thị trường trong nước.
Giao dịch qua trung gian
Trong hình thức giao dịch này có người thứ ba làm trung gian giữa người bán và người
mua. Người trung gian phổ biến trên thị trường là các đại lý và môi giới.
Đại lý : Là các tư nhân hay pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác
của người uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác với các đại lý .Căn cứ vào quyền hạn
uỷ thác người ta người ta chia ra làm loại đại lý , đó là : đại lý toàn quyền, tổng đại lý,
đại lý đặc biệt .
Sử dụng đại lý và môi giới có nhiều thuận lợi như : doanh nghiệp sẽ có những thông
tin chính xác thị trường, giảm bớt chi phí nghiên cứu thị trường. Song hình thức này có
nhược điểm là gây ra sự mất liên lạc trực tiếp với khách hàng và lợi nhuận bị chia sẻ.
Giao dịch tại hội chợ triển lãm
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào thời gian nhất định, tại đó bán
trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng.

Trên đây là một số phương thức giao dịch, buôn bán chủ yếu trên thị trường quốc tế,
căn cứ vào mặt hàng nhập khẩu , đối tượng giao dịch , thời gian giao dịch và khả năng
của nhà kinh doanh để lựa chọn phương thức giao dịch cho phù hợp.
3. Đàm phán, ký kết hợp đồng
a. Đàm phán
Trong kinh doanh quốc tế, có ba hình thức cơ bản đó là : đàm phán qua thư tín,
qua điện tín và gặp gỡ trực tiếp. Mỗi một hình thức đều có những ưu điểm, nhược
điểm riêng. Vì vậy, phải tuỳ theo vào từng điều kiện cụ thể của các doanh nghiệp, tuỳ
vào bạn hàng để lựa chọn hình thức đàm phán cho thích hợp.
Quá trình đàm phán bao gồm những bước sau:
-Hỏi giá:là việc bên mua đề nghị bên bán cho biết những điều kiện của mặt hàng, chất
lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, phương thức thanh toán,thời hạn và đồng tiền thanh
toán .
-Báo giá : là việc người bán thông báo trở lại mua và người mua đã nhận được có
nghĩa là có sự cam kết của người bán về việc sẽ bán hàng.
-Hoàn giá : bên mua không chấp nhận báo giá trên và đã đưa ra đề nghị mới .
- Chấp nhận giá : là đồng ý mọi điều kiện về chào hàng mà bên kia đưa ra,khi đó
hợp đồng được thực hiện.
- Xác nhận giá :bên mua và bên bán sau khi đã thống nhất thoã mãn lợi ích sẽ
lập hai biên bản xác nhận, bên lập ký trước và gửi cho bên kia ký xong giữ một bản và
gửi trả lại một bản.
Ký kết hợp đồng nhập khẩu
Sau khi các bên đã tiến hành đàm phán có kết quả thì việc tiếp theo là ký kết hợp đồng
ngoại thương.
Hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận của những bên đương sự có quốc tịch
khác nhau, trong đó bên bán có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên mua
một khối lượng hàng hoá nhất định , bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng .
Phương pháp ký kết hợp đồng :
Tuỳ từng điều kiện của hợp đồng kinh tế ngoại thương có thể ký kết bằng các hình
thức sau:

Hai bên ký vào một hợp đồng mua bán ngoại thương (bằng văn bản)
Người bán xác định bằng văn bản là người mua đã đồng ý với các điều khoản của thư
chào hàng tự do , nếu người mua víêt đúng thủ tục cần thiết
Người bán xác nhận bằng văn bản đơn đặt hàng của người mua
Trao đổi bằng thư xác nhận những thoã thuận bằng đơn đặt hàng từ trước đây của hai
bên
Trước khi ký hợp đồng cần có sự thống nhất với nhau tất cả mọi điều khoản cần thiết .
Những điều khoản trong hợp đồng:
- Các điều khoản về đối tượng hợp đồng
+Tên hàng :Cần ghi tên thông dụng , tên thương mại và tên khoa học ….
+Số lượng :Phải ghi rỏ đơn vị đo lường được hai bên lựa chọn , quy định cụ thể số
lượng hàng giao dịch.
+Trọng lượng : Có thể tính trọng lượng hàng theo nhiều cách
Các điều khỏan về giá cả:
Đồng tiền tính giá: Có thể dùng đồng tiền tính giá của bên mua hoặc bên bán hoặc của
nước thứ ba nhưng phải là đồng tiền ổn định , tự do chuyễn đổi
+Mức giá: Là giá cả quốc tế
+Phương pháp định giá : Có một số cách như : giá cố định , giá quy định sau, giá linh
hoạt, giá di động .
+Giảm giá : Bên bán có thể giảm giá cho bên mua nếu bên mua là khách quen , mua số
lượng lớn , thanh toán ngay.
-Điều khoản giao hàng :
+ Thời hạn giao hàng : Cần ghi rỏ trong hợp đồng vì nếu không đúng thời hạn có thể
gây thiệt hại lớn cho người mua .
+Địa điểm giao hàng
Phương thức giao hàng
+Thông báo giao hàng
-Điều khoản thanh toán :
+Đồng tiền thanh toán :Phải là đồng tiền ổn định , có khả năng chuyển đổi .
+Phương thức thanh toán : Có thể trả ngay , trả trước hoặc trả sau và có thể kết hợp

các loại hình đó trong một hợp đồng .
+Hình thức thanh toán : Đây là các đề nghị , yêu sách do người nhập khẩu đưa ra đối
với xuất khẩu do số lượng hay chất lượng giao hàng không đúng hoặc do một trong hai
bên thực hiện không đúng các điều khoản trong hợp đồng . Trong hợp đồng cần phải
ghi rỏ trình tự tiến hành , thời khiếu nại, quyền hạn và nghĩa vụ của các bên liên quan.
-Điều khoản bất khả kháng.
Những trường hợp thiệt hại về hàng hoá do những nguyên nhân khách quan như
thiên tai, chiến tranh , đình công ,chính sách xuất nhập khẩu được gọi là trường hợp
bất khả kháng. Để đảm bảo quyền lợi cho mỗi bên, các bên phải ghi rỏ trong hợp đồng
tình huống nào đó được coi là trường hợp bất khả kháng. Hai bên phải thông báo cho
nhau bằng văn bản về những quy định tổ chức trung gian nào chứng minh cho sự việc
đó.
-Điều khoản về trọng tài :Điều khoản này có quy định thể thức giải pháp tranh chấp có
thể phát sinh giữa các bên,chọn luật nước và trọng tài nước nào để giải quyết tranh
chấp.
Thực hiện hợp đồng nhập khẩu
Sau khi đã ký kết hợp đồng , quyền lợi và nghĩa vụ của bên đã được xác lập rỏ
ràng thì các đơn vị kinh doanh nhập khẩu với tư cách là một bên ký kết sẽ phải tổ chức
thực hiện hợp đồng đó.
Mỗi bên phải tiến hành sắp xếp những công việc phải làm , ghi thành bảng biểu để
theo dỏi tiến độ thực hiện , ghi lại những diễn biến, những văn bản phát đi và nhận
được để tiến hành giải quyết xử lý cụ thể. Quá trình tiến hành thực hiện hợp đồng
ngoại thương là rất phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và luật quốc tế, đồng
thời đảm bảo uy tín và quyền lợi của mỗi bên. Trong khi tiến hành , cần tránh xẩy ra
sai sót dẫn đến khiếu nại, như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí . ở đây , điều quan trọng
yêu cầu đối tác với tư cách là một bên tham gia hợp đồng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo đúng quy định .
4.Tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu
Đơn vị nhập khẩu hàng hoá sẽ phải làm thủ tục để tiếp nhận hàng hoá sau khi
đã hoàn thành nghĩa vụ của mình theo quy định trong hợp đồng ,bao gồm các bước sau

Bước 1-thủ tục
Người nhập khẩu ký một hợp đồng cho cơ quan vận tải về việc giao nhận hàng .
Xác nhận với cơ quan vận tải về kế hoạch tiếp nhận hàng nhập khẩu cơ cấu mặt hàng,
điều kiện kỹ thuật khi bốc xếp , bảo quản , vận chuyễn .
Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập biên bản về hàng hoá và giải
quyết trong phạm vi của mình những vấn đề xẩy ra.
Bước 2-Tổ chức tiếp nhận
Sau khi hàng hoá đã về đến nước mình, bên nhập khẩu phải đệ trình những chứng từ
và thủ tục cần thiết cho cơ quan hải quan : giấy phép nhập khẩu , những chứng từ liên
quan .Hải quan sẽ xem xét các chứng từ đó , nếu hợp lệ thì bên nhập khẩu mới được
quyền tiếp nhận hàng hoá của mình .
Người nhập khẩu cần phải kiểm tra tính phù hợp về số lượng, chất lượng hàng hoá
Bên nhập khẩu sẽ mời cơ quan giám định và cơ quan bảo hiểm đến để kiểm tra hàng
hoá . Việc giám định này do công ty kiểm tra trung gian giám định .
Trên đây là một số khâu quan trọng của công tác nhập khẩu hàng hoá . Để đạt hiệu quả
cao trong hoạt động nhập khẩu các đơn vị nhập khẩu phải thực hiện đúng , đủ và tốt
các khâu này.
IV.Các yếu tố ảnh hưởng tới nhập khẩu
1. Thuế quan và chính sách quản lý của quốc gia về nhập khẩu
Thuế quan là công cụ để nhà nước điều chỉnh nguồn hàng hóa từ bên ngoài vào
hoặc đi ra một cách thích hợp .Bằng hình thức đánh thuế cao hay thấp của từng chủng
loại hàng hoá .
Thuế quan nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu. Thuế quan nhập
khẩu đước áp dụng rất phổ biến trên thế giới .Thuế nhập khẩu tác động tiêu cực ,tích
cực đến doanh nghiệp hay nền kinh tế ,cụ thể như sau:
Về tích cực
Tạo nguồn thu quan trọng cho nhà nước
Điều chỉnh hàng hoá từ thị trường nước ngoài vào trong nước
Bảo vệ thị trường nội địa
Về tiêu cực

Làm thiệt hại lợi ích của nhà sản xuất và người tiêu dùng
Khuyến khích một số doanh nghiệp sản xuất có hiệu quả
Về lâu dài nó gây ra phản ứng sấu ; buôn lậu …
Bên cạnh đó vì mục tiêu chiến lược của quốc gia mà các quốc gia phải tăng cường
quản lý hoạt động nhập khẩu một cách nghiệm ngặt .Tức là điều chỉnh hàng hoá từ bên
ngoài vào trong nước hợp lý để tạo cho doanh nghiệp trong nước sản xuất kinh doanh
tốt .Để đạt được mục đích trên nhà nước dùng chính sách vĩ mô ,chính sách kinh tế đối
ngoại…
Về chính sách vĩ mô : nhà nước có thể điều tỷ giá hối đoái , để khuyến khích tiêu
dùng trong nước .Các doanh nghịêp trong nước phải sản xuất nhiều sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng trong nước và nước ngoài .
Về chính sách kinh tế đối ngoại
Các quốc gia thường dùng hàng loạt các chính sách kinh tế đối ngoại nhằm đạt được
lợi ích riêng cho quốc gia mình . Như chính sách thương mại quốc tế , chính sách đầu
tư quốc tế … Tuỳ theo từng thời điểm mà sử dụng để điều chỉnh chính sách nào cho
hợp lý.Hay nói khác đi điều chỉnh hoạt động nhập khẩu sao cho có hiệu quả có lợi nhất
cho đất nước.
2. Hệ thống pháp luật và các yếu tố chính trị trong nước và quốc tế
Hoạt động thương mại diễn ra trên thị trong nước và quốc tế rất phức tạp .Hoạt
động này , có thể làm ảnh hưởng xấu đến quốc giavà củng có thể làm cho quốc gia
giàu có thêm. Nhưng bất kỳ một quốc gia nào củng phải đảm bảo lợi ích cho mình.Cho
nên phải có hệ thống luật pháp để điều chỉnh hoạt động này một cách có hiệu quả .
Hoạt động nhập khẩu củng vậy ,điều bị chi phối bởi luật pháp quốc gia và quốc
tế.Luật pháp là công cụ không thể thiếu được của quốc gia .Hoạt động nhập khẩu nếu
như tác động xấu đến quốc gia ,thì điều được các quốc gia nhất quán về hoạt động
này.Luật pháp có thể nghiêm cấm các loại hàng hoá mà ảnh hưởng xấu đến quốc
gia,khi các quốc gia xuất khẩu sang quốc gia mình.Luật pháp có thể điều chỉnh chủ thể
tham gia hoạt động nhập khẩu ,nếu như các chủ thể không tuân thủ luật pháp của quốc
gia.
Bên cạnh đó luật pháp quốc tế còn tác động mạnh hơn luật pháp quốc gia.Luật

pháp quốc gia là những thông lệ tập quán chung hay những quy địnhmà các quốc gia
thống nhất trở thành những điều ước chung,buộc các quốc gia phải tuân thủ về mọi
hoạt động trong đó có hoạt động thưong mại .Hiện nay, có những điều ước có thể tạo
đà cho các quốc xúc tiến hoạt động nhập khẩu chẳng hạn như điều ước về hải phận….
Bên cạnh đó luật pháp quốc tế còn nghiêm cấm các quốc gia nhập khẩu những mặt
hàng có ảnh hưởng xấu tới cộng đông như thuốc phẹn, vủ khí hạt nhân…
Tuy nhiên , nhân tố chính trị tác động mạnh đến hoạt động nhập khẩu .Nếu như
một quốc gia tình hình chính trị không ổn định thì hoạtđộng nhập khẩu hạn chế vì các
nhà xuất khẩu sợ rủi ro.
Từ trên cho thấy luật pháp quốc gia ,và luật pháp quốc tế tác động mạnh mẽ đến
hoạt động nhập khẩu rất sâu sắc.
3. Sức Cạnh tranh và Nhu cầu của thị trường
Để thắng được đối thủ cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế .Đòi hỏi
các doanh nghiệp trong nước phải xúc tiến hoạt động nhập khẩu có hiệu quả
.Đó là nhập khẩu những máy móc ,vật tư ,dây chuyền công nghệ …Để phục vụ cho
quá trình sản xuất kinh doanhcó những sản phẩm chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu
của thị trường.Cho nên nhu cầu của thị trường củng là nhân tố tác động đến hoạt động
nhập khẩu.
4. Các yếu tố khác
Các quan hệ quốc tế
Các quốc gia muốn phát triển để đuổi kịp nền văn minh nhân loại thì cần mở
rộng giao lưu với nhịều quốc gia khác . Khi các quan hệ quốc tế đã hình thành thì rất
thuận lợi cho các hoạt động kinh tế … Trong đó có hoạt động thương mại và cụ thể
hoạt động nhập khẩu thuận lợi. Thực tế cho thấy ,từ các quan hệ tốt đã hình thành nên
các hiệp định như hiệp định song phương ,đa phương… Chẳnh hạn như việt nam và
liên minh châu đã có những cam kết về hiệp định khung về hàng dệt may.Điều này đã
tạo điều kiện cho đôi bên điều có lợi về hoạtđộng xuất nhập khẩu.
Qua trên cho thấy quan hệ quốc tế rất quan trọng đối với hoạt động nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe máy của công ty
Quan Hệ Quốc Tế Đầu Tư Sản Xuất Giai đoạn năm 2000 -2002

I. Khái quát chung về thị trường linh kiện xe máy tại Việt Nam giai đoạn 2000-2002
1.Quy định đối với nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe máy của Việt Nam
Các doanh nghiệp Việt nam muốn sản xuất kinh doanh mà nhập khẩu những
máy móc , linh kiện xe máy ,Điều phải chịu sự quản lý của chính phủ . Vì vậy, nhà
nước có một số quy định đối với các doanh nghiệp nhập khẩu các linh kiện láp ráp xe
máy. Sau đây, là một số quy định cụ thể :
Đối với linh kiện để lắp ráp : Giao việc nhập khẩu cho các đối tượng sau đây:
-Các doanh nghịêp Việt Nam có giấy phép kinh doanh xuất nhập khâủ ngành hàng, có
cơ sở lắp ráp được cơ quan kí quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập xác nhận
quyền sở hữu cơ sở lắp ráp và được tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường –Chất lượng ( Bộ
khoa học – Công nghệ và môi trường ) cấp giấy phép chứng nhận cơ sở có đủ điều
kiện lắp ráp .
-Các doanh nghiệp có cơ sở lắp ráp đủ điều kiện trên nhưng chưa có giấy phép kinh
doanh xuất nhập khẩu nếu cần nhập linh kiện CKD để lắp ráp thì Bộ Thương mại xem
xét giải quyết từng trường hợp .
-Các doanh nghiệp được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được
nhập khẩu tối đa bằng số lượng mà doanh nghiệp được phép bán tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp ( gồm doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp thành lập
theo Luật Đầu Tư )có hợp đồng xuất khẩu xe hai bánh gắn máy và đảm bảo thực hiện
được hợp đồng ấy, được nhập số lượng linh kiện tương ứng với hợp đồng xuất khẩu
thành phâm.
Đối với doanh nghiệp việt nam , gồm :
- Giấy xác nhận quyền sở hữu cơ sở lắp ráp do cơ quan ký quyết định thành lập
hoặc cho phép thành lập cấp .
- Giây chứng nhận cơ sở có đủ điều kiện lắp ráp do Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo
lường – Chất lượng ( Bộ khoa học ,Công nghệ và Môi trường )cấp .Quyết định thành
lập cơ sở lắp ráp.
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật.
Đối với doanh nghiệp thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, gồm:
- Giấy phép đầu tư .

- Kế hoạch tiêu thụ tại Việt Nam và xuất khẩu ra nước ngoài .
b) Đối với loại nguyên chiếc mới : Giao việc nhập khẩu cho các doanh nghiệp có giây
phép kinh doanh xuất nhập khẩu ngành hàng với số lượng hợp lý.

2.Tình hình nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe máy vào việt nam, giai đoạn
2000-2002
Hiện nay có 06 liên doanh hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe máy
với:
- Tổng vốn đăng ký gần 476,546 triệu USD
- Tổng vốn pháp định 142,35 triệu USD
- Tổng công suất lắp ráp khoảng hơn 1,6 triệu xe/năm
- Đã thực hiện đầu tư 173.754 triệu USD.
Từ năm 1999-2001sản lượng xe máy do các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư
nước ngoài(FDI)sản xuất lắp ráp liên tục tăng từ 211.676 xe đến 425.704 xe.
Nhìn chung, hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp đều
có lãi, mặc dù có sự cạnh tranh tương đối gay gắt giữa các doanh nghiệp này với các
doanh nghiệp lắp ráp trong nước. Các số liệu tỷ suất lãi/vốn, lãi/doanh thu, lãi/nộp
ngân sách của các doanh nghiệp FDI đều rất cao.
Việc các hãng sản xuất xe máy nước ngoài đầu tư vào Việt Nam đã đặt nền tảng bước
đầu phát triển cho nền công nghiệp xe máy Việt Nam. Nhưng có một điều chúng ta
nhận thấy rằng với 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 54 doanh nghiệp trong
nước sản xuất xe gắn máy hiện nay cũng chưa thực sự tiến hành chương trình nội địa
hoá theo đúng nghĩa của nó mà chủ yếu vẫn là lắp ráp, mặc dù đã được nhà nước bảo
hộ bằng nhiều biện pháp .
Nhà nước chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe gắn
máy dạng IKD phát triển, gia tăng mạnh về đầu tư dây chuyền sản xuất xe máy và linh
kiện phụ tùng xe máy. Chủ trương đó dẫn đến việc số lượng xe máy sản xuất
và lắp ráp ở Việt Nam cũng tăng lên rất nhanh trong thời gian qua.
Qua trên cho thấy hoạt động Nhập khẩu linh kiện lắp ráp ngày càng có vị trí
quan trọng trong ngành xe máy việt nam. Chính vì vậy hàng năm các doanh nghiệp

phải nhập lượng mặt hàng cần thiết cho quá trình lắp ráp cho ra hàng loạt sản phẩm
mới để đáp ứng cho nhu cầu của thị trường trong nước và nước ngoài.Nên Năm 2000
nâng lên với kim ngạch 30,4triệuUSD Và cho đến năm 2001 do chính sách của nhà
nước nới lỏng cho các doanh nghiệp trong nước về hạn ngạch nhập khẩu.Cho nên đã
nâng kim ngạch lên 40,5triệu USD với tốc độ tăng so với năm 2000 là133,2%. Nhưng
vào năm 2002 thì hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước là
rất bất lợi cung nhiều hơn cầu về xe may và do chính sách quản lý của nhà nước bị hạn
chế do chính phủ muốn đảm được các doanh nghiệp trong nước làm ăn thụân lợi . Do
vậy, năm 2002 kim ngạch nhập khẩu giảm đi rất nhiều so với năm2001 với tốc độ
giảm 50,86% và tri giá của kim ngạch nhập khẩu linh kiện xe máy là20,2 triệu USD
.Trong khi đó kim ngạch nhập khẩu toàn nước là151,1 triệu USD và chiếm tỷ trọng so
với tổng kim ngach nhập khẩu toàn nước là13,6%.Sau đây, là bảng số liệu về kim
ngạch nhập khẩu linh kiện xe máy của các doanh nghiệp trong nước.
Về cơ cấu của các loại linh kiện gồm các loại linh kiện của các hảng sau
YAMAHA,SUZUKI, … và xe máy Trung Quốc bao gồm các loại sau :WANA,
WAKE UP,PRELIN, FIX PROUD. Các doanh nghiệp thường nhập khẩu từ các linh
kiện của các loại xe để lắp ráp ra sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Về thị trường nhập khẩu của các doanh nghiệp việt nam thường nhập các linhkiện từ
các nước như Nhật, Trung Quốc, Thái lan .Các thị trường này thường rất có lợi cho
các doanh nghiệp Việt Nam khi xúc tiến hoạt động nhập khẩu .
Tuy ngành công nghiệp xe máy mới chỉ thực sự phát triển mạnh trong thời gian
2 năm trở lại đây, nhưng những kết quả đạt được đã mang lại nhiều lợi ích đáng kể.
Ngân sách nhà nước được tăng thêm, tạo thêm nhiều việc làm cho hàng chục ngàn
người lao động và làm cho các doanh nghiệp sản xuất cơ khí hiện đang gặp rất nhiều
khó khăn có cơ hội tìm ra được một thị trường tiêu thụ mới trong việc sản xuất các linh
kiện chi tiết, phụ tùng của xe hai bánh gắn máy.
Người dân Việt Nam đã rất quen thuộc đối với các nhãn hiệu xe máy Nhật Bản
như Honda, Suzuki, Yamaha nhất là khi các liên doanh sản xuất xe gắn máy mang
những thương hiệu này được thành lập và đi vào hoạt động ở Việt Nam. Tuy nhiên giá
bán xe máy tại những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn cao hơn nhiều so

với giá các loại xe cùng chủng loại được sản xuất tại các nước ASEAN và Đài Loan,
thậm chí còn cao hơn nhiều so với luận chứng kinh tế kỹ thuật. Việc làm này gây thiệt
hại đến lợi ích của người tiêu dùng nhưng mang lại siêu lợi nhuận cho các nhà sản xuất
lắp ráp và kinh doanh xe máy. Chính vì vậy, một bộ phận lớn người dân vẫn chưa thể
mua được xe máy, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và miền núi.
Nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công nghiệp - Bộ Công nghiệp
II.Thực trạng nhập khẩu linh kiện lắp ráp xe máy của công ty Quan Hệ Quốc Tế Đầu
Tư Sản Xuất ,giai đoạn 2000-2002
Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên phong phú nhưng khai thác sữ
dụng thì công nghệ đang còn kém so với thế giới và khu vực . Điều này có thể khẳng
định nếu như nhà nước không thiết lập tạo điều kịên cho các doanh nghiệp trong nước
.
Công Ty Quan Hệ Quốc Tế Đầu Tư Sản Xuất là một trong những công ty rất
nhạy bén về thị trường tiêu thụ những sản phẩm mà khách hàng trong nước cần đến.
Chính vì vậy , trong quá sản xuất kinhj doanh công ty đã phục vụ cho quá trình sản
xuất có sản phẩm đáp ứng cho người tiêu dùng.Đó là sản phẩm đáp ứng hình thành từ
lắp ráp các linh kiện nhập các nước trong khu vực và quốc tế . Hiện nay, Công ty đã
nhập các linh kiện lắp ráp xe máy chủ yếu là tư các doanh nghiệp của trung quốc .
Với mục tiêu phát triển đi lên của công ty là đầu tư chủ yếu vào hoạt động lắp
ráp . Để đạt mục tiêu trên hàng năm công ty đã nhập với lượng lớn về nhiều chủng loại
khác nhau : Tuy nhiên có nhiều tác động khách quan từ bên ngoài như các chính sách
quản lý của nhà nước về hoạt động nhập khẩu . Cho nên làm cho tổng kim ngạch nhập
khẩu tăng giảm thất thường. Theo số liệu thống kê tư phòng xe máy – Công
ty(HQTĐTSX) cho biết;
Từ bảng 1cho thấy ,để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và uy tín của
công ty , buộc đến năm2000 ,công ty phải nhập kịp thời nguyên chiếc cả xe máy từ
các doanh nghiệp Trung Quốc. Nhưng trong thời gian này lúc đầu chỉ thu được khoản
lợi nhụân lớn ,sau đó lại giảm đi . Vì vậy, đến năm 2001 công ty có thay đổi phương
thức kinh doanh ,đó là nhập khẩu các linh kiện xe máy tư các doanh nghiệp Trung
Quốc ,vừa đảm bảo được khoản chi phí cho thuê nhập khẩu và đảm bảo được doanh

thu,nên công ty đã nhập khoảng 61.800 bộ linh kiện và động cơ . Nhưng xu hướng này
chỉ là tạm thời .Đến năm 2002 ,do chính quản lý của nhà nước về hạn ngạch quá chặt
nên hạn ngạch nhập khẩu là quá ít và đã nhập 31.500 bộ linh kiện và động cơ giảm đi
so với nặm2001 là (30.300 bộ linh kiện và động cơ).
Từ bảng 2 cho thấy rằng trong năm 2001, kim ngạch nhập khẩu linh kiện xe
máy và xe máy 40,5 nghìn USD tăng gấp 13lần so với năm 2000, nâng tỷ trọng kim
ngạch nhập khẩu trong tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty là50,5%so với năm
2000 . Đến năm 2002 , tăng gấp 2 lần so với năm 2001.Đây là điều có lại cho chính
phủ nhưng lại thiện công ty .
Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu của công ty trong thời gian qua
gôm cả xe và bộ linh kiện và động cơ của các hãng sau: WANA ,WAKE UP,
PREALIN, FIX, PROUD.
Nguồn :Theo thống kê của phòng xe máy-(Công ty QHQTĐTSX)
Trong thời gian qua tổng kim ngạch đạt là:90,9nghìn USD
Từ bảng 3 cho thấy , xu thế nhập các loại linh kiện là rất rỏ rệt . vì còn phụ
thuộc vào nhu cầu của thị trường Việt Nam về sản phẩm lắp ráp . Cho nên vào năm
2000, mặt hàng FIXcó kim ngạch cao nhất và với tỷ trọng trong toàn bộ kim ngạch của
cơ cấu mặt hàng là 39,81 %. Điều này, chứng tỏ rằng ở thị trường Việt Nam tiêu thụ

×