Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Đầu tư sản xuất kinh doanh sau lợi nhuận là cách sử dụng vốn hiệu quả pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.18 KB, 64 trang )

Lời mở đầu
Vốn là một yếu tố quan trọng và cần thiết phải quan tâm đối với bất kì doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh nào. Bởi lẻ, muốn đứng vững trên thị trường có sự
cạnh tranh gay gắt giữa nhiều thành phần kinh tế thì đòi hỏi doanh nghiệp cần
phải có một số vốn đủ mạnh để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
và đồng thời cũng nhằm mục đích mở rộng quy mô sản xuất. Việc quản lý và sử
dụng vốn kinh doanh có hiệu quả hay không ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh, đặc biệt là vốn lưu động. Do đó vấn đề về vốn là vấn đề không thể
không đề cập đến.
Mặt khác, Công ty Dệt may 29/3 là một doanh nghiệp Nhà nước ra đời cách đây
hàng chục năm. Trong những năm trở lại đây khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế
thị trường, quá trình kinh doanh ngày càng mở rộng và sự cạnh tranh ngày càng
gay gắt đòi hỏi công ty cần phải năng động, sáng tạo trong quá trình kinh doanh
cũng như việc sử dụng và khai thác tối ưu các nguồn vốn lưu động phục vụ cho
quá trình kinh doanh của mình. Trong khi đó, việc quản lý và sử dụng vốn lưu
động ở công ty trong những năm trước là chưa tốt, đó là tình trạng thiếu vốn, khả
năng thanh toán kém, vay vốn ngân hàng lớn, chịu lãi vay cao. Do vậy, mỗi
quyết định liên quan đến việc đầu tư vốn phải được cân nhắc thận trọng. Câu hỏi
đặt ra với công ty là làm thế nào để quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách có
hiệu quả.
Để tìm hiểu những vấn đề nêu trên, nên em chọn đề tài: “PHÂN TÍCH TÌNH
HÌNH QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY DỆT
MAY 29/3”.
PHẦN I LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
I- KHÁI NIỆM KẾT CẤU VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN LƯU ĐỘNG TRONG
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH :
1. Khái niệm về vốn lưu động :
Mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tư liệu
lao động ra còn phải có đối tượng lao động, đối tượng lao động khi tham gia vào
quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu và chỉ có thể


tham gia một chu kỳ sản xuất nấy. Vì vậy toàn bộ giá trị của đối tượng lao động
được dịch chuyển toàn bộ một lần vào sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản
phẩm được thực hiện.
ĐTLĐ trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận : Một bộ
phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục
(nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ), một bộ phận là những vật tư đang
trong quá trình chế biến (sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, CCDC ). Hai bộ
phận này biểu hiện dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động sản xuất.
Ngoài ra, quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với quá
trình lưu thông như chọn lọc, đóng gói, xuất giao sản phẩm, thanh toán và
những tài sản nằm trong quá trình lưu thông như hàng hoá chưa tiêu thụ, các
khoản tiền phát sinh trong lưu thông gọi là tài sản lưu thông. TSLĐ trong quá
trình sản xuất và TSLĐ trong quá trình lưu thông thay chỗ nhau vận động không
ngừng nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất được liên tục. Do đó, doanh nghiệp
nào cũng cần một số vốn thích ứng để đầu tư vào các tài sản này, số tiền ứng
trước về những tài sản đó gọi là vốn lưu động.
Vậy vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về TSLĐ sản
xuất và TSLĐ lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh
nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục.
Có thể định nghĩa vốn lưu động theo cách khác : VLĐ của doanh nghiệp
là các khoản đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản ngắn hạn như tiền mặt, các
khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các tài sản
lưu động khác có khả năng chuyển đổi thành tiền trong vòng 01 năm.
2. Đặc điểm của vốn lưu động :
Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau, bắt
đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ, sản xuất, vật tư hàng hoá và cuối
cùng trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp diễn ra liên tục. Vì vậy vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng có tính
chất chu kỳ thành chu chuyển của tiền vốn.
3. Vai trò của vốn lưu động :

- Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu của quá trình sản xuất
kinh doanh, do đặc điểm tuần hoàn của vốn lưu động trong cùng một lúc phân bổ
trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Để có tổ chức hợp lý sự tuần hoàn của các tài sản và quá trình sản xuất kinh
doanh được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn để đầu tư cũng như có được
mức tồn hợp lý và đồng bộ, nếu không quá trình sản xuất kinh doanh sẽ gặp khó
khăn.
- Vốn lưu động là công cụ phản ánh và kiểm tra quá trình vận đọng của
vật tư. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn phản ánh sự vận động của vật
tư. Vốn lưu động nhiều hay ít, tốc độ luân chuyển nhanh hay chậm sẽ phản ánh
số lượng vật tư hàng hoá dự trữ ở các khâu nhiều hay ít, số lượng vật tư sử dụng
tiết kiệm hay không. Vậy thông qua tình hình luận chuyển vốn lưu động còn có
thể kiểm tra một cách toàn diện đối với việc cung cấp sản xuất và tiêu thụ của
doanh nghiệp.
- VLĐ là yếu tố nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao uy tín của
doanh nghiệp trên thương trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp không thể không gặp những rủi ro mất mát, hư hỏng, giá cả biến động,
nếu qui mô và khả năng VLĐ lớn sẽ giúp doanh nghiệp làm chủ được quá trình
kinh oanh, đứng vững trong nền kinh tế thị trường khi có tính cạnh tranh trong
kinh doanh rất gay gắt.
II- KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN
LÝ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VLĐ :
1) Khái niệm :
Phân tích tình hình quản lý, sử dụng VLĐ là việc sử dụng những thông tin
kế toán cần thiết, áp dụng những phương pháp phân tích thích hợp nhằm tìm
hiểu đánh giá quản lý và sử dụng VLĐ ở doanh nghiệp, qua đó kiến nghị các
biện pháp để phát huy những điểm mạnh, khắc phục những mặt còn chưa tốt của
doanh nghiệp nhằm phục vụ cho quá trình phát triển.
2) Sự cần thiết của việc phân tích tình hình quản lý và hiệu quả sử dụng
VLĐ :

VLĐ là yếu tố quan trọng và rất cần thiết đối với bất kì một doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh nào hay bất kì một nhà đầu tư nào khi muốn bỏ
vốn ra để đầu tư vào doanh nghiệp vì thông qua VLĐ, có thể đánh giá được tình
hình quản lý và sử dụng VLĐ tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có được thông tin
chính xác đó thì không chỉ đơn thuần căn cứ vào các bảng báo cáo tài chính mà
phải tiến hành quá trình phân tích những thông tin có liên quan đến VLĐ. Vì vậy
việc tiến hành phân tích tình hình quản lí và sử dụng VLĐ là đòi hỏi khách quan.
Mỗi đối tượng quan tâm ở những góc độ khác nhau và có xu hướng tập trung vào
những khía cạnh riêng phục vụ cho mục đích của họ. Chính vì thế tạo ra sự phức
tạp của việc phân tích nhưng đồng thời việc phân tích này đem lại nhiều ý nghĩa
khác nhau đối với mỗi đối tượng :
+ Đối với nhà quản lý doanh nghiệp : Một trong những mối quan tâm
hàng đầu của họ là làm thế nào để quản lý VLĐ đạt được hiệu quả tốt nhất trong
việc sử dụng VLĐ. Thông qua việc phân tích tình hình quản lý, sử dụng VLĐ, họ
có thể trả lời được những câu hỏi sau.
Doanh nghiệp nên dự trữ một lượng tiền mặt là bao nhiêu ? Có nên bán
chịu hay không ? Nếu có thì chính sách tín dụng bán hàng như thế nào và bán
chịu cho những khách hàng nào ? Từ đó có quyết định đúng đắn cho việc lựa
chọn các phương án kinh doanh, huy động vốn.
+ Đối với nhà cho vay (Ngân hàng, tổ chức tín dụng) hay nhà cung cấp
thì những đối tượng này đặc biệt chú ý đến khả năng thanh toán của doanh
nghiệp, tình hình công nợ, hiệu quả sử dụng vốn để có quyết định nên cho
doanh nghiệp vay hay bán hàng chịu không ?
Do những lợi ích trên nên trong quá trình kinh doanh phải xác định đúng
đắn qui mô, cơ cấu của lượng vốn này, tránh tình trạng thiếu hụt hay lãng phí.
Mỗi doanh nghiệp phải có kế hoạch cụ thể về sử dụng VLĐ trong những thời
gian khác nhau, có như vậy quá trình SXKD mới đem lại hiệu quả cao.
III- TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH :
1) Tài liệu sử dụng để phân tích ;
Tài liệu sử dụng để phân tích là những số liệu, dữ liệu, chứng từ, sổ sách

có liên quan mà nhà phân tích cần phải dựa vào đó làm cơ sở để phân tích.
Ý nghĩa của những tài liệu này là nhằm cung cấp những thông tin chính
xác về tình hình của doanh nghiệp cho nhà phân tích nhằm phục vụ cho việc
phân tích được thuận lợi.
1.1. Bảng cân đối kế toán :
a. Nội dung của bảng cân đối kế toán ;
BCĐKT là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình
tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp dưới hình thái tiền tệ tại
một thời điểm nhất định. Thời điểm đó thường là cuối tháng, cuối quí, cuối năm.
Gồm hai phần :
- Phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại
thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình kinh
doanh doanh nghiệp. Các tài sản được sắp xếp theo khả năng hoán chuyển thành
tiền theo thứ tự giảm dần hoặc theo độ dài thời gian để chuyển hoá tài sản thành
tiền.
- Phần nguồn vốn phản ánh toàn bộ nguồn hình thành tài sản hiện có ở
doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các loại nguồn vốn được sắp xếp theo
trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn vốn đối với các chủ nợ
và chủ sở hữu.
b. Ý nghĩa của BCĐKT :
BCĐKT có ý nghĩa về mặt kinh tế và pháp lý. Về mặt kinh tế : số liệu
phần tài sản cho phép nhà phân tích đánh giá một cách tổng quát qui mô và kết
cấu tài sản của doanh nghiệp. Số liệu phần nguồn vốn phản ánh các nguồn tài trợ
cho tài sản của doanh nghiệp, qua đó đánh giá thực trạng tài chính của doanh
nghiệp. Về mặt pháp lý : số liệu phần tài sản thể hiện giá trị các loại tài sản hiện
có mà doanh nghiệp có quyền quản lý và sử dụng lâu dài để sinh lợi. Phần nguồn
vốn thể hiện phạm vi trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp về tổng số vốn
kinh doanh với chủ nợ và chủ sở hữu. Như vậy, tài liệu từ BCĐKT cung cấp
những thông tin tổng hợp về tình hình huy động và sử dụng vốn của doanh
nghiệp.

2.1. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
a. Nội dung báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản
ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời
kỳ (quý, năm) chi tiết theo các loại hoạt động, tình hình thực hiện nghĩa vụ của
doanh nghiệp với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm ba phần chính :
Phần I : Lãi, lỗ : Thể hiện kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
theo 3 hoạt động :
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Hoạt động tài chính
+ Hoạt động bất thường
Phần II : Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Phần này phản ánh
tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác
(phí, lệ phí).
Phần III : Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm,
thuế GTGT hàng bán nội địa. Phần này phản ánh số thuế GTGT dược khấu trừ,
đã khấu trừ và còn được khấu trừ cuối kỳ; số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn
lại và còn được hoàn lại; số thuế GTGT được miễn giảm, đã miễn giảm và còn
được miễn giảm cuối kỳ.
b. Ý nghĩa của Bảng kết quả hoạt động kinh doanh :
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh
giá hiệu quả kinh doanh và công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm tra tình
hình thực hiện kế hoạch thu nhập, chi phí và kết quả từng loại hoạt động cũng
như kết quả chung toàn doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo này còn là cơ sở để
đánh giá khuynh hướng hoạt động của doanh nghiệp trong nhiều năm liền, dự
báo hoạt động trong tương lai. Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
có thể đánh giá được hiệu quả và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp : Đây là
một trong các nguồn thông tin rất bổ ích cho người ngoài doanh nghiệp trước khi

ra quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh
còn cho phép đánh giá tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước về thuế và
các khoản phải nộp khác, đặc biệt là thanh quyết toán thuế GTGT, qua đó đánh
giá phần nào tình hình thanh toán của doanh nghiệp.
1.3. Các thông tin khác :
Bên cạnh việc sử dụng các BCTC cần được sử dụng thêm các sổ chi tiết,
các hợp đồng kinh tế .v.v để phân tích tình hình quản lý sử dụng VLĐ được cụ
thể hơn, hoàn thiện hơn.
Chẳng hạn, dựa vào sổ chi tiết công nợ ta biết được các khoản phải thu
của doanh nghiệp đối với từng khách hàng, từ đó có biện pháp thích hợp đối với
mỗi khách hàng, hoặc khi hàng tồn kho tăng thì dựa vào sổ chi tiết thành phẩm
tồn kho, ta biết được loại hàng nào còn tồn đọng, loại nào thích ứng trên thị
trường, từ đó ta quyết định đúng đắn, phù hợp .
- Tuy nhiên, khi phân tích không chỉ giới hạn trong phạm vi các BCTC
hay sổ chi tiết mà mục tiêu của phân tích là đưa ra những dự báo giúp việc ra
quyết định về vốn trong tương lai của doanh nghiệp. Vì vậy, cần quan tâm đến
các thông tin chung như :
- Những thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp:
Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng trong tổ chức sản xuất
kinh doanh và trong phương hướng hoạt động nên để đánh giá tình hình tài
chính, nhà phân tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm hoạt động của doanh
nghiệp, bao gồm :
+ Mục tiêu và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp, gồm cả chiến lược
tài chính và chiến lược kinh doanh.
+ Tính thời vụ, tính chu kỳ trong hoạt động kinh doanh.
+ Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, khách hàng, và các đối
tượng khác.
+ Các chính sách hoạt động khác
+ v.v
- Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế :

+ Thông tin về tăng trưởng kinh tế, suy thoái kinh tế.
+ Thông tin về lãi suất ngân hàng, trái phiếu kho bạc, tỷ giá ngoại tệ.
+ Thông tin về lạm phát.
+ Các chính sách kinh tế lớn của Chính phủ, chính sách chính trị, ngoại giao của
Nhà nước
- Những thông tin theo ngành, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp như
:
+ Mức độ và yêu cầu công nghệ của ngành.
+ Mức độ cạnh tranh và qui mô của thị trường.
+ Tính chất cạnh tranh của thị trường hay mối quan hệ giữa doanh nghiệp với
nhà cung cấp và khách hàng.
+ Nguy cơ xuất hiện những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng.
+ v.v
2) Các phương pháp sử dụng để phân tích :
2.1. Phương pháp so sánh :
Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến nhất trong phân
tích tài chính. Để vận dụng phép so sánh trong phân tích tài chính cần quan tâm
đến tiêu chuẩn so sánh, điều kiện so sánh của chỉ tiêu phân tích cũng như kĩ thuật
so sánh.
- Tiêu chuẩn so sánh : là chỉ tiêu gốc được chọn làm căn cứ so sánh. Khi
phân tích tài chính, nhà phân tích thường sử dụng các gốc sau :
+ Sử dụng số liệu tài chính ở nhiều kỳ trước để đánh giá và dự báo xu
hướng của các chỉ tiêu tài chính. Thông thường, số liệu phân tích được tổ chức từ
3 đến 5 năm liền kề.
+ Sử dụng số liệu trung bình ngành để đánh giá sự tiến bộ về hoạt dodongj
tài chính của doanh nghiệp so với mức trung bình tiên tiến của ngành. Số liệu
trung bình ngành thường được các tổ chức dịch vụ tài chính, các ngân hàng cơ
quan thống kê cung cấp theo nhóm doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong trường hợp không có số liệu trung bình ngành, nhà phân tích có thể sử
dụng số liệu của một doanh nghiệp điển hình trong cùng ngành để căn cứ phân

tích.
+ Sử dụng các số kế hoạch, số dự đoán để đánh giá doanh nghiệp có đạt
được các mục tiêu tài chính trong năm. Thông thường các nhà quản trị doanh
nghiệp chọn gốc so sánh này để xây dựng chiến lược hoạt động cho tổ chức
mình.
- Điều kiện so sánh : Yêu cầu các chỉ tiêu phân tích phải phản ánh cùng
nội dụng kinh tế, có cùng phương pháp tính toán và có đơn vị đo lường như
nhau.
- Kĩ thuật so sánh : trong phân tích tài chính thường thể hiện qua các
trường hợp sau :
+ Trình bày báo cáo tài chính dạng so sánh nhằm xác định mức biến động
tuyệt đối và tương đối của từng chỉ tiêu trong báo cáo tài chính qua 2 hay nhiều
kỳ, qua đó phát hiện xu hướng của các chỉ tiêu (tăng, giảm) khi phân tích báo cáo
tài chính dạng so sánh cần chú ý mối liên hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế để phần
thuyết minh số liệu chặt chẽ hơn.
+ Trình bày báo cáo tài chính theo quy mô chung : Với việc so sánh này
một chỉ tiêu báo cáo tài chính được chọn làm quy mô chung và các chỉ tiêu liên
quan sẽ được tính theo tỷ lệ phần trăm tiêu chỉ tiêu quy mô chung đó.
+ Thiết kế chỉ tiêu có dạng tỷ số. Một tỉ số được xây dựng khi các yếu tố
cấu thành nên tỉ số phải có mối liên hệ và mang ý nghĩa kinh tế. Với nguyên tắc
thiết kế các tỉ số như thế nhà phân tích có thể xây dựng chỉ tiêu phân tích phù
hợp với đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Các tỉ số còn lại là công cụ hỗ trợ
công tác dự toán tài chính.
2.2. Phương pháp loại trừ :
Trong một số trường hợp, phương pháp này được sử dụng trong phân tích
tài chính nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu tài
chính xác định các nhân tố còn lại không thay đổi. Phương pháp này còn là công
cụ hỗ trợ quá trình ra quyết định.
2.3. Phương pháp cân đối liên hệ :
Các báo cáo tài chính đều có đặc trưng chung là thể hiện tính cân đối giữa

tài sản và nguồn vốn ; cân đối giữa doanh thu, chi phí và kết quả, cân đối, cân đối
giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra, cân đối giữa tăng và giảm. Dựa vào những
cân đối cơ bản đó người ta vận dụng phương pháp cân đối liên hệ để xem xét
những tác động ảnh hưởng của nhân tố này đến nhân tố kia như thế nào và ảnh
hưởng đến biến động của chỉ tiêu phân tích.
2.4. Phương pháp phân tích tương quan :
Giữa các số liệu tài chính trên báo cáo tài chính thường có mối tương quan
với nhau. Chẳng hạn mối tương quan giữa doanh thu của đơn vị càng tăng thì số
dư của các khoản nợ phải thu cũng tăng, hoặc doanh thu dẫn đến yêu cầu về dự
trữ hàng cho kinh doanh tăng. Một trường hợp khác là tương quan giữa chỉ tiêu
"chi phí đầu tư xây dựng cơ bản" với chỉ tiêu "nguyên giá tài sản cố định" ở
doanh nghiệp. Cả hai số liệu này đều trình lên Bảng cân đối kế toán. Một khi trị
giá các khoản xây dụng cơ bản gia tăng thường phản ánh doanh nghiệp có tiềm
lực về cơ sở hạ tầng trong thời gian đến. Phân tích tương quan sẽ đánh giá tính
hợp lý về biến động giữa các chỉ tiêu tài chính, xây dựng các tỷ số tài chính được
phù hợp hơn và phục vụ công tác dự báo tài chính ở doanh nghiệp.

IV- NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN
LƯU ĐỘNG :
1) Phân tích tình hình phân bổ vốn lưu động :
Để khái quát về tình hình quản lý vốn lưu động, ta tiến hành phân tích
việc thực hiện phân bổ vốn lưu động, muốn phân tích như vậy thì ta cần phải lập
bảng phân tích như sau :
Chỉ tiêu Năm N Năm N + 1 Chênh lệch (+ -)
Số tiền TT(%) Số tiền TT(%) Số tiền TT(%)
* TSCĐ & ĐTNH
1. Tiền
2. Đầu tư ngắn hạn
3. Các khoản phải thu
4. Hàng tồn kho

5. TSLĐ khác
Với tỷ trọng TSLĐi = x 100%
Với việc lập bảng phân tích như trên giúp ta biết được tình hình phân bổ vốn lưu
động ở doanh nghiệp như thế nào, tỉ trọng từng loại TSLĐ trong tổng tài sản lưu
động và việc phân bổ như thế đã hợp lý hay chưa. Xem xét xu hướng biến động
của các loại tài sản này qua các năm để thấy dược sự biến động đó có tốt không.
Từ đó có cơ sở để đi sâu phân tích sự biến động của từng bộ phận VLĐ. Tuy
nhiên để có những đánh giá nhận xét chính xác thì cũng cần xét đến yếu tố loại
hình doanh nghiệp . Vì có thể việc phân bổ này phù hợp với những doanh nghiệp
này nhưng lại không phù hợp với những doanh nghiệp khác.Thông thường ở
doanh ngiệp thương mại thì VLĐ lớn hơn ở doanh nghiệp sản xuất. Hay tùy
thuộc vào quan điểm của từng doanh nghiệp. Chẳng hạn, doanh nghiệp có chủ
trương nới lỏng chính sách tín dụng thương mại nên làm cho khoản phải thu tăng
lên Với việc phân tích như thế, ta có được cái nhìn khái quát được phần nào về
tình hình quản lý vốn lưu động.
2. Phân tích VLĐ ròng, nhu cầu vốn lưu động ròng và ngân quỹ ròng.
2.1. Phân tích VLĐ ròng :
Vốn lưu động ròng là phần chênh lệch giữa nguồn vốn thường xuyên và
giá trị tài sản cố định (TSCĐ) và đầu tư dài hạn.
Chỉ tiêu thể hiện nguồn gốc của vốn lưu động hay phân tích bên ngoài về vốn lưu
động :
- Nếu vốn lưu động ròng < 0 (tức NVTX - TSCĐ & ĐTDH <0) nghĩa là NVTX
không đủ để tài trợ cho TSCĐ & ĐTDH, sự thiếu hụt này được bù đắp bằng một
phần nguồn vốn tạm thời hay nợ ngắn hạn. Cân bằng tài chính trong trường hợp
này không tốt vì Doanh nghiệp luôn chịu áp lực về các khoản nợ ngắn hạn.
Doanh nghiệp cần phải có những điều chỉnh dài hạn để tạo ra một cân bằng mới
theo hướng bền vững.
- Nếu Vốn lưu động ròng bằng 0 (tức NVTX - TSCĐ & ĐTDH = 0) nghĩa là
NVTX vừa đủ để tài trợ cho toàn bộ các khoảng TSCĐ & ĐTDH. Cân bằng tài
chính trong trường hợp này tuy có tiến triển và bền vững hơn so với trường hợp 1

nhưng cũng chưa an toàn, có nguy cơ mất tính bền vững.
- Nếu vốn lưu động ròng > 0 (tức NVTX - TSCĐ & ĐTDH > 0) trong trường
hợp này, NVTX không chỉ sử dụng để tài trợ cho TSCĐ & ĐTDH mà còn sử
dụng để tài trợ một phần cho TSLĐ của Doanh nghiệp, cân bằng tài chính lúc
này rất tốt và an toàn.
- Tuy nhiên để đánh giá cân bằng tài chính trong dài hạn, ta cần phải xem xét vốn
lưu động ròng trong chuỗi thời gian thì mới dự toán những khả năng triển vọng
về cân bằng tài chính trong tương lai. Phân tích vốn lưu động ròng quá nhiều kỳ
có những trường hợp sau :
+ Nếu VLĐ ròng giảm và âm : đánh giá mức đó an toàn và bền vững tài chính
của doanh nghiệp càng giảm, vì doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn tạm thời
để tài trợ TSCĐ. Doanh nghiệp sẽ gặp áp lực về thanh toán ngắn hạn và có nguy
cơ phá sản nếu không thanh toán đúng hạn và có hiệu quả kinh doanh thấp.
+ Nếu VLĐ ròng dương và tăng qua nhiều năm : đánh giá mức an toàn của doanh
nghiệp là tốt vì không chỉ TSCĐ mà cả TSLĐ được tài trợ bằng nguồn vốn
thường xuyên. Tuy nhiên để phân tích kỹ lưỡng cần phải xem xét các bộ phận
cấu thành nguồn vốn thường xuyên. Để đạt được mức an toàn như thế thì doanh
nghệp phải tăng nguồn vốn chủ sở hữu hay tăng nợ dài hạn. Nếu tăng chủ sở hữu
thì sẽ tăng tính độc lập về tài chính của Doanh nghiệp nhưng lại giảm đi hiệu ứng
đòn bảy nợ. Ngược lại, tăng nợ dài hạn thì hiệu ứng đòn bảy tài chính sẽ phát huy
tác dụng nhưng bên cạnh đó lại chịu rũi ro về sử dụng nợ. Còn nếu Vốn lưu động
dương và tăng do thanh lý liên tục TSCĐ làm giảm quy mô tài sản cố định thì
chưa thể kết luận tính an toàn về tài chính có thể doanh nghiệp đang trong thời kỳ
suy thoái, phải thanh lý TSCĐ.
+ Nếu VLĐ ròng có tính ổn định : Nghĩa là VLĐ ròng không tăng, không giảm
hoặc có tăng, có giảm nhưng không đúng kế qua nhiều năm, điều đó thể hiện các
hoạt động của doanh nghiệp đang trong thái ổn định. Tuy nhiên trong trường hợp
này cũng cần xem xét đến nguồn tài trợ để có được sự ổn định đó.
Ngoài ra, VLĐ ròng còn được tính là phần chênh lệch giữa tài sản lưu động và
đầu tư ngắn hạn với nợ ngắn hạn.

VLĐ ròng = TS LĐ & ĐTNH - Nợ ngắn hạn.
Chỉ số cân bằng này thể hiện rõ cách thực sử dụng vốn lưu động ròng: VLĐ được
phân bố vào các khoản phải thu hàng tồn kho hay các khoản cao như tiền. Nó
nhấn mạnh đến tính linh hoạt trong việc sử dụng vốn lưu động ở doanh nghiệp.
Do đó mà phân tích theo chỉ tiêu này là nhấn mạnh đến phân tích bên trong của
Doanh nghiệp. Ngoài ra mối quan hệ giữa các yếu tố TSLĐ & ĐTNH với nợ
ngắn hạn còn thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
2.2. Phân tích nhu cầu VLĐ ròng và ngân quỹ ròng :
- Chỉ tiêu nhu cầu VLĐ ròng hoạt động kinh doanh một cách tổng quát được tính
như sau :
-Dựa vào chỉ tiêu nhu cầu VLĐ ròng và NQR, ta phân tích về cân bằng tài chính
như sau
+ Nếu VLĐ ròng lớn hơn nhu cầu VLĐ ròng thì phần chênh lệch là các khoản
vốn bằng tiền còn lại sau khi đã bù đắp các khoản vay ngắn hạn khoản này gọi là
ngân quỹ ròng. Ngân quỹ ròng dương thể hiện một cân bằng tài chính an toàn vì
doanh nghiệp không phải vay để bù đắp, sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐ ròng, nên
không gặp khó khăn về thanh toán trong ngắn hạn.
+ Nếu VLĐ ròng bằng nhu cầu VLĐ ròng, hay ngân quỹ ròng bằng 0, toàn bộ
các khoản vốn bằng tiền là đầu tư ngắn hạn được hình thành từ các khoản vay
ngắn hạn. Đây là dấu hiệu về tình trạng mất cân bằng tài chính.
+ Nếu VLĐ ròng nhỏ hơn nhu cầu VLĐ ròng, hay ngân quỹ ròng là số âm điều
này nghĩa là VLĐ ròng không đủ để tài trợ nhu cầu VLĐ ròng và doanh nghiệp
phải huy động các khoản vay ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt đó và tài trợ một
phần TSCĐ khi VLĐ ròng âm. Cân bằng tài chính được xem là kém an toàn và
bất lợi đối với doanh nghiệp.
3. Phân tích tình hình quản lý các khoản mục cụ thể của vốn lưu động:
Từ việc phân tích cơ cấu vốn lưu động, ta có thể thấy được khái quát tình hình
phân bổ VLĐ và sự biến động của VLĐ, cụ thể là tăng lên hay giảm đi qua các
năm và việc tăng lên hay giảm đi này của VLĐ chủ yếu là do sự tăng lên hay
giảm đi của các bộ phận cấu thành nên VLĐ như tiền, hàng tồn kho, khoản phải

thu hay tài sản lưu động khác. Từ đó, ta đi sâu phân tích từng bộ phận của VLĐ
để thấy được những nguyên nhân dẫn đến sự biến động này.
3.1. Phân tích việc quản lý vốn bằng tiền :
Để phân tích sự biến động của vốn bằng tiền, trước tiên ta phải phân tích số liệu
theo bảng phân tích sau :
BẢNG PHÂN TÍCH VỐN BẰNG TIỀN
Chỉ tiêu Năm N Năm N + 1 Chênh lệch ()
Số tiền TT (%) Số tiền TT (%) Số tiền TT
(%)
Tiền
+ Tiền mặt
+ Tiền gửi NH
Vốn bằng tiền là một yếu tố cấu thành của vốn lưu động, nên sự biến động của
vốn bằng tiền ảnh huởng đến sự biến động của vốn lưu động. Trong phần phân
tích vốn bằng tiền này ta đi sâu tìm hiểu những nguyên nhân nào dẫn đến sự biến
động của vốn bằng tiền từ đó ảnh hưởng đến biến động của vốn lưu động. Cụ thể
do sự tăng, giảm như vậy tốt hay xấu đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đánh
giá chính xác vấn đề này cũng cần xét đến mục đích của doanh nghiệp vì các nhà
quản lý tài chính nào cũng dự trữ vốn bằng tiền của doanh nghiệp cho 3 mục đích
chính đó là mục đích hoạt động, mục đích dự phòng và mục đích đầu tư.
Việc dự trữ tiền cho mục đích hoạt động nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp có thể
mua sắm hàng hoá, vật liệu và thanh toán cho các chi phí cần thiết cho hoạt động
liên tục của Doanh nghiệp. Đối với mục đích này thì tuỳ theo đối tượng doanh
nghiệp mà nhu cầu cần thiết về tiền cho từng doanh nghiệp là khác nhau, chẳng
hạn như Doanh nghiệp bị ảnh hưởng lớn với sự thay đổi theo mùa vụ thì cần tiền
để mua hàng tồn kho nên lượng tiền dự trữ số lớn, các doanh nghiệp thương mại
thì hướng tiền thu vào được, phối hợp chặt chẽ với nhu cầu tiền. Do đó, trong số
tiền trên tổng số tài sản lưu động tương đối thấp.
Đốivới mục đích dự phòng liên quan đến khả năng dự đoán nhu cầu chi tiền. Nếu
khả năng dự đoán cao thì dự phòng sẽ thấp, hay khả năng vay mượn tiền nhanh

chóng thì nhu cầu dự phòng sẽ thấp xuống, điều này phụ thuộc vào uy tín của
doanh nghiệp.
Đối với việc dự trữ cho mục đích đầu tư và chuẩn bị sẵn sàng để lợi dụng cơ hội
sinh lợi. Thông thường thì việc dự trữ tiền cho mục đích này là rất hiếm hoi vì nó
tuỳ thuộc vào cá tính của nhà đầu tư.
3.2. Phân tích tình hình quản lý của khoản phải thu :
Tương tự như vốn bằng tiền, khoản phải thu khách hàng cũng là một yếu tố cấu
thành nên vốn lưu động và cũng là một yếu tố rất quan trọng trong cơ cấu vốn
lưu động. Đây là một bộ phận tác động mạnh đến sự biến động của vốn lưu động.
Để xem xét sự biến động của khoản phải thu ta lập bảng phân tích sau :
BẢNG PHÂN TÍCH KHOẢN PHẢI THU
Chỉ tiêu Năm N Năm N + 1 Chênh lệch ()
Số tiền TT (%) Số tiền TT (%) Số tiền TT
(%)
Khoản phải thu
+ Khoản phải thu khách hàng
+ Trả trước cho người bán
Việc phân tích như trên giúp ta thấy được những nguyên nhân dẫn đến biến động
của khoản phải thu từ đó ảnh hưởng đến sự biến động của vốn lưu động, mà cụ
thể là từng bộ phận trong khoản phải thu tăng, giảm như thế nào, và sự tăng,
giảm này là tốt hay xấu, từ đó ảnh hưởng đến vốn lưu động nói riêng và tình hình
của doanh nghiệp nói chung. Chẳng hạn, những sự biến động của từng bộ phận
trong khoản phải thu làm cho khoản này giảm đi so với năm trước, điều này
chứng tỏ trong năm này doanh nghiệp có thể thực hiện thành công những biện
pháp thu hồi nợ các khoản phải thu nên làm cho khoản phải thu giảm đi nhưng sự
giảm đi này chỉ tương đối, nếu giảm mạnh thì điều đó là không tốt vì có thể làm
cho một số khách hàng ít có khả năng thanh toán chuyển sang mua hàng của
doanh nghiệp khác, từ đó làm ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ, nên ảnh hưởng
đến tình hình kinh doanh nói chung.
Nếu những tác động của các bộ phận trong khoản phải thu làm cho khoản phải

thu tăng lên só với năm trước, chứng tỏ khả năng thu hồi các khoản nợ phải thu
của doanh nghiệp là kém hiệu quả, đây là biểu hiện xấu vì khả năng hoán chuyển
thành tiền của các khoản nợ phải thu kém nên làm giảm hiệu quả của vốn lưu
động của doanh nghiệp. Lúc này, đối với bộ phận nào mà tác động mạnh nhất
đến sự tăng lên của khoản phải thu thì cần có biện pháp khống chế sự gia tăng
này.
Tuy nhiên để phân tích một cách chính xác hơn cũng cần phải xem xét đến các
yếu tố như chính sách tín dụng của doanh nghiệp hay đối tượng doanh nghiệp
kịnh doanh. Chẳng hạn về chính sách tín dụng, thì việc tăng lên hay giảm đi của
khoản phải thu có thể là do doanh nghiệp áp dụng chính sách nới lỏng hay thắt
chặt tín dụng đối với khách hàng nên sự tăng, giảm này là chủ động từ phía
doanh nghiệp, do đó mà không thể kết luận là quản lý kém hiệu quả các khoản
phải thu. Hay về đối tượng doanh nghiệp, có thể những doanh nghiệp như doanh
nghiệp thương mại thường bộ phận khoản phải thu chiếm tỷ trọng cao trong vốn
lưu động nên sự tăng lên của chỉ tiêu là một biểu hiện tốt vì nó chứng tỏ trong
năm nay, doanh nghiệp đạt được mức tiêu thụ rất cao.
3.3. Phân tích tình hình quản lý hàng tồn kho :
Phân tích hàng tồn kho là việc rất quan trọng bởi lẽ giá trị hàng tồn kho thường
chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản lưu động nên sự biến động của chỉ
tiêu này ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của vốn lưu động. Mặt khác, bất kì
một doanh nghiệp nào đi nữa cũng muốn có một khoản tồn kho thích hợp, các
khoản dự trữ này sẽ đủ đảm bảo cho tính liên tục của quá trình sản xuất kinh
doanh, đảm bảo cho sự an toàn khi có biến cố bất thường xảy rá, hay dự trữ tăng
thêm để đáp ứng nhu cầu thị trường khi cần thiết. Nên một lần nữa ta thấy được
tầm quan trọng của hàng tồn kho là như thế nào. Để phân tích biến động của chỉ
tiêu tồn kho ta lập bảng sau :
BẢNG PHÂN TÍCH HÀNG TỒN KHO
Chỉ tiêu Năm n Năm n+1 Chênh lệch ()
Số tiền TT (%) Số tiền TT (%) Số tiền TT
(%)

Hàng tồn kho
1) NVL tồn kho
2) CCDC tồn kho
3) T.phẩm tồn kho
Từ bảng phân tích trên thì ta sẽ thấy được sự biến động của hàng tồn kho như thế
nào và biết được nguyên nhân dẫn đến sự biến động đó, cụ thể là do bộ phận nào
trong hàng tồn kho chủ yếu gây nên sự biến động đó và sự biến động này tốt hay
xấu. Chẳng hạn trong năm n+1, tổng giá trị của hàng tồn kho tăng so với năm n
là nao nhiêu, trong đó chủ yếu là bộ phận nào của hàng tồn kho tăng lên. Nếu là
do nguyên vật liệu thì sự gia tăng này có thể là tốt vì có thể trong năm này doanh
nghiệp cần sản xuất một lượng lớn sản phẩm theo đơn đặt hàng hay do năm trước
sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ mạnh nên năm nay cần dự trữ thêm NVL để
tăng sản lượng sản xuất, còn nếu do thành phẩm tồn kho tăng lên thì có thể đó là
một biểu hiện xấu vì chứng tỏ việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp kém hơn
nên làm cho thành phẩm tồn kho tăng lên, nên có thể dẫn đến ứ động vốn làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động, cần có biện pháp thích hợp trong khâu tiêu
thụ để giảm lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp.
Ngược lại, hàng tồn kho giảm đi so với năm trước thì chủ yếu là do bộ phận nào,
NVL tồn kho, TP tồn kho hay CP SXKD dở dang. Tương tự như vậy, sự giảm
xuống của các bộ phận này là tốt hay xấu, từ đó có biện pháp thích hợp để quản
lý.
Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp mà các nhà quản
lý cần có một lượng tồn kho thích hợp cho doanh nghiệp của mình, chẳng hạn
trong ngành sản xuất như các doanh nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị có lượng
tồn kho rất cao vì thời gian hoàn thành sản phẩm lâu nên không thể đánh giá là
không tốt. Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại
thường tỉ lệ tồn kho thấp vì không cần nguyên vật liệu tồn kho, hay sản phẩm dở
dang tồn kho, do đó cũng không thể đánh giá là tốt được.
4. Phân tích hiệu quả quản lý, sử dụng vốn lưu động
4.1. Phân tích hiệu quả quản lý, sử dụng vốn lưu động nói chung

Hiệu suất sử dụng vốn lưu động được xem xét qua các chỉ tiêu thể hiện tốc độ
luân chuyển vốn lưu động như số vòng quay bình quân của vốn lưu động, số
ngày bình quân của một vòng quay vốn lưu động. Tốc độ luân chuyển vốn lưu
động thể hiện doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả không, hợp lý không. Tốc độ
luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên hiệu suất sử dụng vốn lưu
động cao hay thấp.
a) Số vòng quay bình quân của vốn lưu động (hệ số đảm nhiệm vốn lưu động)
Chỉ tiêu này cho thấy số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ phân tích hay một
đồng vốn lưu động bỏ ra thì đảm nhận bao nhiên đồng doanh thu. Trị giá chỉ tiêu
này càng lớn chứng tỏ vốn lưu động quay càng nhanh nên hiệu suất sử dụng vốn
lưu động càng lớn. Đó là kết quả của việc quản lý vốn hợp lý trong các khâu dự
trữ, tiêu thụ, thanh toán. Ngược lại chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ vốn lưu động
quay càng chậm nên hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng thấp, cần phải có
những biện pháp thích hợp trong việc quản lý hàng tồn kho, phải thu và tiêu thụ
để làm tăng số vòng quay vốn lưu động. Hiệu suất này thay đổi không những phụ
thuộc vào doanh thu mà còn phụ thuộc nhiều vào sự tăng giảm từng loại tài sản
lưu động của doanh nghiệp.
b) Số ngày bình quân của một vòng quay vốn lưu động :
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được 1 vòng. Hệ số
này càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển hàng vốn càng lớn và chứng tỏ hiệu suất sử
dụng vốn lưu động càng cao.
Trong đó : VLĐ bình quân =
4.2. Phân tích hiệu quả sử dụng hàng tồn kho :
Chỉ tiêu phân tích :
a) Số vòng quay hàng tồn kho :
H (Số vòng quay HTK) =
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng luân chuyển hàng tồn kho của doanh nghiệp. Trị
giá chỉ tiêu này càng cao thì công việc kinh doanh được đánh giá là tốt, khả năng
hoán chuyển tài sản này thành tiền cao. Tuy nhiên chỉ tiêu này cao quá thì cũng
không phải là tốt vì có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt trong dự trữ ảnh hưởng

đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp Ngược lại chỉ tiêu này càng thấp thì
chứng tỏ hàng tồn kho bị ứ đọng nhiều, dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn trong khâu
dự trữ nên làm cho khả năng hoán chuyển thành tiền của vốn lưu động thấp, làm
giảm hiệu suất sử dụng vốn lưu động.
b) Số ngày của 1 vòng quay hàng tồn kho :
N (số ngày của 1 vòng quay HTK) = x 360
Chỉ tiêu này cũng thể hiện khả năng luân chuyển của hàng tồn kho nhanh hay
chậm. Nó cho biết là để hàng tồn kho quay được 1 vòng thì mất bao nhiêu ngày.
Khác với chỉ tiêu số vòng quay hàng tồn kho, chỉ tiêu số vòng quay của hàng tồn
kho càng nhỏ thì tốt chứng tỏ hàng tồn kho quay nhanh, ngược lại càng lớn thì
hàng tồn kho quay chậm.
4.3. Phân tích hiệu quả quản lý, sử dụng khoản phải thu :
Chỉ tiêu phân tích :
- Số vòng quay của khoản phải thu khách hàng (H phải thu)
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền, trị giá chỉ
tiêu này càng cao chứng tỏ tốc độ thu hồi khoản phải thu càng nhanh. Điều này
được đánh giá là tốt vì khả năng hoán chuyển thành tiền nhanh, do vậy đáp ứng
được nhu cầu thanh toán nợ. Tuy nhiên nếu hệ số này cao quá có thể không tốt vì
có thể doanh nghiệp thắt tín dụng bán hàng, do vậy dẫn tới có thể ánh hưởng đến
doanh nghiệp của doanh nghiệp. Vì vậy khi đánh giá khả năng chuyển đổi các
khoản phải thu thành tiền cần xem xét đến chính sách tíndụng bán hàng của
doanh nghiệp:
Số ngày của một chu kỳ nợ (Nn) :
Nn = x 360

×