Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

thử nghiệm ương nuôi cá xiêm và cá bống tượng bằng trùn giấm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA THỦY SẢN
LUẬN VĂN TỐT
NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
THỬ NGHIỆM ƯƠNG NUÔI CÁ XIÊM (BETTA
SPLENDES) và CÁ BỐNGTƯNG
(OXYELEOTRIS MARMORATA)
BẰNG TRÙN GIẤM
(TUBATRIX ACETI)
NGÀNH: THUỶ SẢN
KHOÁ: 2001 – 2005
SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐÀO NGỌC QUYÊN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
9/2005
THỬ NGHIỆM ƯƠNG NUÔI CÁ XIÊM ( BETTA SPLENDES)
và CÁ BỐNG TƯNG (OXUELEOTRIS MARMORATA)
BẰNG TRÙN GIẤM (TUBATRIX ACETI)
Thực hiện bởi:
Đào Ngọc Quyên
Luận văn được đệ trình để hoàn tất yêu cầu cấp bằng Kỹ Sư Thủy Sản.
Giáo viên hướng dẫn: Phạm Văn Nhỏ
Thành phố Hồ Chí Minh
2
9/2005
3
CẢM TẠ
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn:
Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Nông Lâm – Tp.HCM
Ban Chủ Nhiệm Khoa Thủy Sản Trường Đại Học Nông Lâm – Tp.HCM.


Cùng toàn thể quý thầy cô trong trường đã truyền đạt kiến thức cho chúng tôi
trong suốt những năm học tại trường.
Đặc biệt gởi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Phạm Văn Nhỏ đã tận tình hướng
dẫn và giúp đỡ chúng tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Đồng thời chúng tôi gởi lời cảm ơn đến tất cả các anh chò, các bạn trong và
ngoài lớp đã động viên, giúp đỡ chúng tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Do thời gian thực hiện đề tài còn có hạn, trang thiết bò còn thiếu thốn và lần
đầu tiên làm quen với công việc nghiên cứu nên luận văn của chúng tôi không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý của thầy cô và các bạn.
4
TÓM TẮT
Đề tài được thực hiện tại Trại Thực Nghiệm Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Họcï
Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh từ ngày 29/3/2005 đến ngày 31/7/2005, nhằm
đánh giá ảnh hưởng của các khẩu phần thức ăn khác nhau lên tỷ lệ sống của cá xiêm,
cá bống tượng. Nghiên cứu bao gồm 2 phần.
• Phần A: Kết quả trên cá xiêm
• Phần B: Kết quả trên trùn giấm
Các thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lập lại
cho mỗi nghiệm thức. Các nghiệm thức ứng với các khẩu phần thức ăn A, B, C, D.
• Nghiệm thức 1 (A): 1òng đỏ trứng gà
• Nghiệm thức 2 (B): tảo khô Spirulina
• Nghiệm thức 3 (C): thức ăn tổng hợp
• Nghiệm thức 4 (D): trùn giấm
Ở cả 2 phần A và B, kết quả tỷ lệ sống của cá bột ở 4 khẩu phần thức ăn
khác nhau thì giống nhau và không sai khác về mặt thống kê (P>0,05).
5
ABSTRACT
The study was conducted at Fisheries Experimental Farm Of Fisheries
Faculty Nong Lam University in HCM city to assess impacts of various diets on
survival rate of fry. From 29

th
March to 31
st
July in 2005. The study comprised two part
with 4 diets:
• Part A: Result of experiments on Fightting Fish
Treatment 1 (A): egg yolk
Treatment 2 (B): dried algae Spirulina
Treatment 3 (C): synthesis food
Treatment 4 (D): Vinegar eel
• Part B: Result of experiments on Marble Gobby
Treatment 1 (A): egg yolk
Treatment 2 (B): algae Spirulina
Treatment 3 (C): synthesis food
Treatment 4 (D): Vinegar eel
In part A and B, survival rate of fry fishes in A, B, C, D are similar and not
significantly different (P>0,05).
6
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC TRANG
TRANG TỰA i
CẢM TẠ ii
TÓM TẮT iii
ABSTRACT iv
MỤC LỤC v
DANH SÁCH ĐỒ THỊ viii
DANH SÁCH CÁC BẢNG ix
DANH SÁCH HÌNH ẢNH x
I GIỚI THIỆU
1.1 Đặt Vấn Đề

1.2 Mục Tiêu Đề Tài
II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2
2.1 Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Xiêm 2
2.1.1 Đặc điểm phân loại 2
2.1.2 Đặc điểm hình thái và phân bố 3
2.1.3 Đặc điểm sinh thái 3
2.1.4 Tập tính sống 4
2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng 4
2.1.6 Đặc điểm sinh sản 5
2.1.7 Mùa vụ sinh sản 7
2.2 Đặc Điểm Sinh Học Của Bống Tượng 7
2.2.1 Đặc điểm phân loại 7
2.2.2 Đặc điểm hình thái 7
2.2.3 Phân bố 8
2.2.4 Đặc điểm sinh thái 8
2.2.5 Đặc điểm dinh dưỡng 9
2.2.6 Tăng trưởng và kích thước tối đa 9
2.2.7 Đặc điểm sinh sản 10
2.3 Tình Hình Sản Xuất Giống Cá Bống Tượng 11
2.3.1 Trong nước 11
2.3.2 Trên thế giới 12
2.4 Thức n Sử Dụng Trong Quá Trình Ương Cá Bột Lân Cá Hương 13
2.4.1 Thức ăn chế biến 13
7
2.4.2 Thức ăn sống 16
III VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
19
3.1 Thời Gian Và Đòa Điểm Thực Hiện Đề Tài 19
3.1.1 Vật Liệu 19
3.1.2 Nguồn cá bột 19

3.1.3 Thức ăn và dụng cụ cho ăn 19
3.1.4 Hệ thống ương nuôi cá bột 20
3.2 Phương Pháp Nghiên Cứu 20
3.2.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm 20
3.2.2 Quản lý và chăm sóc 22
3.2.3 Các chỉ tiêu theo dõi 22
3.3 Phương Pháp Thu Thập Số Liệu 23
3.4 Phương Pháp Phân Tích Số Liệu 23
IV KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 24
Phần A: Kết Quả Thử Nghiệm Trên Cá Xiêm 24
4.1 Đánh
Giá Tỷ Lệ Sống Của Cá Xiêm Các Lần Thử Nghiệm 24
4.1.1 Lần thử nghiệm thứ I (từ 24/4/2005 đến 4/5/2005) 24
4.1.2
Lần thử nghiệm thứ II (từ 11/5/2005 đến 27/5/2005) 25
4.1.3
Lần thử nghiệm thứ III (từ 14/6/2005 đến 20/6/2005) 26
4.1.4
Lần thử nghiệm thứ IV (từ 1/7/2005 đến10/7/2005) 28
Phần B: Kết Quả Thử Nghiệm Trên Cá Bống Tượng 31
4.1
Đánh Giá Tỷ Lệ Sống Của Cá Bống Tượng Các Lần Thử Nghiệm 31
4.1.1 Lần
thử nghiệm thứ I (từ 14/4/2005 đến 20/4/2005) 31
4.1.2
Lần thử nghiệm thứ II (từ 8/6/2005 đến 12/6/2005) 32
4.1.3
Lần thử nghiệm thứ III (từ 22/7/2005 đến 31/7/2005) 33
4.2
So Sánh Tỷ Lệ Sống Trung Bình Giữa Các Nghiệm Thức 34

8
4.3
Các Yếu Tố Chất Lượng Nước Trong Quá Trình Nuôi 35
4.3.1
Chỉ tiêu pH trong suốt quá trình thí nghiệm 35
4.3.2
Chỉ tiêu nhiệt độ trong quá trình thí nghiệm 36
V KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 38
5.1 Kết Luận 38
5.2 Đề Nghò 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
PHỤ LỤC 40
Phụ Lục 1: Một Số Hình nh Minh Họa 40
Phụ Lục 2: Cách Bố Trí Thí Nghiệm 43
Phụ Lục 3: Kết Quả Phân Tích Thống Kê 46
Phụ Lục 4: Kết Quả Tỷ Lệ Sống 49
Phụ Lục 5: Các Chỉ Tiêu Môi Trường Nước 51


9
DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ
ĐỒ THỊ NỘI DUNG TRANG
4.1 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Giai Đoạn I 24
4.2 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Giai Đoạn II 26
4.3 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Giai Đoạn III 27
4.4 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Giai Đoạn IV 28
4.5 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Bống Tượng Giai Đoạn III 33
4.6 Chỉ Tiêu pH Các Buổi Sáng Trong Quá Trình Thí Nghiệm 35
4.7 Chỉ Tiêu pH Các Buổi Chiều Trong Quá Trình Thí Nghiệm 36
4.8 Nhiệt Độ Trong Quá Trình Thí Nghiệm 36

10
DANH SÁCH CÁC BẢNG
BẢNG NỘI DUNG TRANG
4.1 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Có Mật Độ 20con/Lít (Lần IV) 29
4.2 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Xiêm Có Mật Độ 50con/Lít (Lần IV) 30
4.3 Kết Quả Ương Nuôi Cá Bống Tượng Trong Bình Nhựa (Lần Thứ I) 31
4.4 Kết Quả Ương Nuôi Cá Bống Tượng Trong Bình Nhựa (Lần Thứ I) 32
4.5 Tỷ Lệ Sống Trung Bình Của Cá Bống Tượng (Lần III) 34
4.6 Yếu Tố Nhiệt Độ Trong Quá Trình Thí Nghiệm 37
11
DANH SÁCH CÁC HÌNH ẢNH
HÌNH ẢNH NỘI DUNG TRANG
Hình 1 Hình Dạng Ngoài Của Trùn Giấm 40
Hình 2 Cá Bống Tượng 1 Ngày Sau Khi Nở 40
Hình 3 Cá Xiêm 2 Ngày Sau Khi Nở 41
Hình 4 Cá Xiêm 10 Ngày Tuổi (Lần III) 41
Hình 5 Cá Xiêm Trưởng Thành 42
Hình 6 Thức n Cho Cá Bột 42
12
I. GIỚI THIỆU
I.1 Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, ngành thủy sản nước ta đã không ngừng phát
triển. Nhiều mặt hàng thủy hải sản đã có mặt trên thò trường thế giới như: cá basa,
tôm sú và một số mặt hàng thủy hải sản khác. Để ngành thủy sản có thể ngày càng ổn
đònh và phát triển hơn nữa thì cần phải chú ý đến ba vấn đề sau: con giống, kỹ thuật
nuôi và thức ăn. Trong đó, thức ăn có thể coi là nhân tố quan trọng nhất.
Các loại thức ăn có thể là nguồn gốc động vật hay thực vật, thức ăn tự nhiên
hay thức ăn chế biến. Để duy trì sự sống và hoạt động của cơ thể, ngoài oxygen mọi
sinh vật đều cần có thức ăn. Thức ăn là nguồn cung cấp nguyên liệu giúp cho cơ thể
sinh trưởng và phát triển, là nguồn vật liệu tái tạo bổ sung những bộ phận hao mòn

của cơ thể trong quá trình sống. Hơn nữa, thức ăn còn cung cấp nguồn năng lượng cần
thiết cho cơ thể hoạt động. Cho nên, trong quá trình sống, động vật không ngừng lấy
thức ăn từ môi trường bên ngoài. Thức ăn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sự phát
triển bình thường của động vật thủy sản. Nếu dinh dưỡng không hợp lý có thể gián
tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của các bệnh khác nhau mà ngày nay người ta chưa
kòp xác đònh hết. Vì vậy thức ăn đóng một vai trò nhất đònh trong nuôi trồng thủy sản
đặt biệt là trong giai đoạn ấu trùng.
Hiện nay, ở Việt Nam, có rất nhiều loại thức ăn sống được sử dụng để ương
nuôi cá bột như : Rotifera, Moina, trùng chỉ, lăn quăn, Atermia…nhưng không phải thức
ăn nào cũng phù hợp cho tất cả mọi loài cá, đặc biệt là những loài cá có kích thước
nhỏ như cá xiêm, cá bống tượng… Tuy nhiên, trên thế giới, từ lâu, có một loại thức ăn
sống rất phổ biến cho các loài cá đặc biệt là cá có kích cỡ nhỏ, đó là trùn giấm.
Được sự phân công của Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học Nông Lâm Thành
phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài “Thử Nghiệm Ương Nuôi
Cá Xiêm (Betta splendes) và Cá Bống Tượng (Oxyeleotris marmorata) Bằng Trùn
Giấm (Tubatrix aceti).
1.1 Mục tiêu đề tài
Mục tiêu đề tài nhằm:
• Nhằm đánh giá tỷ lệ sống của cá bột cá xiêm và cá bột bống tượng khi cho
ăn trùn giấm.
• So sánh kết quả tỷ lệ sống của cá khi cho ăn trùn giấm và khi cho ăn các loại
thức ăn khác.
13
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học của cá xiêm
2.1.1 Đặc điểm phân loại
Bộ: Perciformes
Bộ phụ: Anabantoidei
Họ: Anabantidae
Giống: Betta

Loài: Betta splendes
Tên tiếng Anh: Fighting fish.
Tên tiếng Việt: Cá lia thia, cá đá, cá xiêm, cá chọi.
Phân loại theo màu sắc và hình dáng
- Cá lia thia đồng
Gồm 2 loài: cá mang đỏ và cá mang xanh, thường thấy ở các đồng ruộng
miền đông và miền tây Nam Bộ.
Cá mang đỏ: toàn thân màu xanh da trời, đuôi màu tím nhạt, mang cá màu
đỏ.
Cá mang xanh: cũng có hình dáng giống cá mang đỏ nhưng màu sắc ở thân
xanh đậm và nhanh nhẹn hơn.
Cá xiêm (đuôi rẽ quạt)
Hiện nay, loài này được coi là điển hình của loài cá đá. Màu sắc của cá đậm,
sặc sỡ và lớn hơn cá lia thia đồng. Đặc biệt là vây đuôi của cá tròn xoe giống như hình
rẽ quạt. Toàn thân đậm, ánh lên các màu xanh, đỏ pha vàng nhạt và có viền đỏ. Từ
loài này có thể chia ra làm 4 loài như sau:
• Cá xiêm đỏ
• Cá xiêm xanh
14
• Cá xiêm đen
• Cá xiêm xám
Cá phướn
Cá có hình dáng khá hấp dẫn, vi dài với dáng vẻ tha thướt. Cá có vây lưng,
vây hậu môn và vây đuôi kéo dài rũ xuống như là lá cờ phướn nên mới gọi là cá
phướn. Loài cá này đá không hay, không chòu được đòn nên ít dùng làm cá đá. Chủ
yếu chúng được dùng làm cá cảnh nhờ dáng vẻ thướt tha khi bơi lượn.
Ngoài ra, người ta còn lai tạo giữa cá xiêm với cá phướn hoặc cá xiêm thuần
với cá xiêm lai, từ đó tạo ra nhiều giống cá và đặt tên khác nhau.
2.1.2 Đặc điểm hình thái và phân bố
Cá có thân hình thoi. Cá thuần chủng có màu xanh biếc, lá mạ, màu đỏ của

rượu chát, có hoặc không có hai sọc dọc đậm từ vây lưng tới cuốn đuôi.
Cá có tia vi lưng màu đen, các vây xanh nhạt, các vân sẫm gợn sóng.
Vi bụng, vi hậu môn của cá có màu đỏ.
Những con cá được nuôi làm cảnh có các vây phát triển hơn cá ngoài tự
nhiên.
Do tập tính hung hăng hay đá nhau của nó nên người ta còn gọi nó là cá đá
hay cá chọi.
2.1.3 Đặc điểm sinh thái
Cá xiêm là loài cá sống trong môi trường nước ngọt. Do có cơ quan hô hấp
phụ là mê lộ cho phép chúng sử dụng oxy từ không khí nên cá có thể sống được trong
môi trường có ngưỡng oxy thấp hoặc trong những môi trường ô nhiễm…
Cá xiêm có sức sống mạnh. Vì vậy, đây là đối tượng dễ chăm sóc và có thể
nuôi ở những nới chật hẹp. Điều này rất có ý nghóa khi nuôi riêng cá đực trong những
chai lọ để kích thích tính hung hăng, hiếu chiến của chúng.
Dù ở ngoài tự nhiên hay trong những bể nuôi nhân tạo, cá xiêm luôn thích ẩn
nấp trong hốc.
Cá xiêm sống được trong mọi tầng nước.
15
Các yếu tố môi trường sống thích hợp cho cá là:
 Nhiệt độ: 24
0
C (ngoài tự nhiên)
26 - 27
0
C (môi trường nhân tạo)
 pH: 6,5 -7,5 nhưng tốt nhất là từ 6,8 - 7,2.
2.1.4 Tập tính sống
Ở loài cá này, dường như những ưu điểm về màu sắc và hình dáng cũng như
tập tính sống đặc biệt đều tập trung ở con đực.
Khi tiếp xúc với cá đực khác hoặc thấy ảnh của nó phản chiếu qua gương, cá

đực thường phô trương những màu sắc tiềm ẩn và kỳ ảo.
Điều thú vò nhất khi đề cập đến tập tính “đấu tranh sinh tồn” của loài cá này
là khả năng chọi nhau của con đực. Trận đấu diễn ra khi hai con đực gặp nhau. Chúng
sẽ giương vi, phùng mang và màu sắc sẽ chuyển đổi rực rỡ hơn. Cá quẩy mình qua lại,
đầu hướng thẳng về phía đối thủ. Chúng giữ tư thế này ở vài giây đến vài phút và bất
chợt lao vào nhau và dùng miệng để tấn công. Một trong những pha quyết đònh sự
thắng bại thú vò làm bất ngờ người xem là hai đối thủ chận đầu nhau và bất ngờ tấn
công với hai miệng cắn dính vào nhau. Thân cá bò căng ra. Cá chiến đấu bằng cách
xoay tròn quanh trục thân và thường kéo dài từ 10 đến 20 giây, thường kết thúc khi cá
chìm xuống đáy. Sau đó, chúng rời nhau ra và nhanh chóng trồi lên mặt nước để thở
nhờ cơ quan hô hấp phụ. Sau đó, lại tiếp tục chiến đấu. Trận đấu kết thúc khi con yếu
sức bỏ chạy, thậm chí có khi chết trận. Cả hai chiến só cá sau trận đấu đều không
tránh khỏi những tổn thương và các vi rách nát.
2.1.5 Đặc điểm dinh dưỡng
2.1.5.1 Tính ăn
Cá xiêm là loài ăn tạp thiên về động vật. Chúng thích những mồi sống di
động như: lăn quăn, trùng chỉ, ấu trùng muỗi lắc…
Theo kết quả khảo sát tính ăn của cá xiêm của Dương Thò Thuý Nga (1993),
thì cơ quan tiêu hoá của cá xiêm gồm: miệng, hầu, thực quản với hai manh tràng khá
dài, ruột ngắn và tận cùng là lỗ hậu môn nếu là con đực. Còn ở con cái thì tận cùng
của ruột là lỗ huyệt. Đồng thời đo được tỷ lệ chiều dài ruột /chiều dài thân (Li/Ls) là
0.67 - 0.75. Vì vậy, đây là loài cá có cấu tạo cơ quan tiêu hoá thích hợp với tập tính ăn
tạp thiên về động vật.
2.1.5.2 Thức ăn theo các giai đoạn tuổi
16
Theo nhiều tài liệu tham khảo cùng kinh nghiệm của các nghệ nhân cá cảnh
thì thức ăn và liều lượng cho ăn thay đổi theo từ giai đoạn tuổi.
Từ 1 - 3 ngày tuổi, cá dinh dưỡng chủ yếu nhờ noãn hoàng. Cá bột mới nở trú
ẩn dưới tổ cho đến khi tiêu hết noãn hoàng.
Từ 4 - 7 ngày tuổi, cá bắt đầu ăn thức ăn ngoài. Loại thức ăn thích hợp cho

cá là infusoria.
Từ 8 - 14 ngày tuổi, cá được cho ăn Moina và lòng đỏ trứng gà. Ngoài ra, với
cách nuôi dân gian, người ta còn cho cá ăn vài giọt mỡ heo. Với loại thức ăn này,
tránh cho cá ăn quá nhiều vì sẽ tạo lớp ván mỡ bên trên mặt nước cản sự khuếch tán
của oxy từ không khí vào nước.
Từ 15 - 21 ngày tuổi, cá có thể ăn được Moina với kích cỡ lớn hơn và trùng
chỉ. Theo Dr William T.innes (1990), khi cá khoảng ba tuần tuổi thì cơ quan hô hấp
phụ chưa hình thành. Vì vậy, việc ương nuôi cá trong giai đoạn này phải chú ý đến
mật độ cá và chất lượng nước nuôi. Mật độ cá phải vừa phải và phải đảm bảo oxy cần
thiết cho cá. Nếu mật độ quá dày hoặc chất lượng nước quá xấu sẽ làm hàm lượng
oxy hoà tan trong nước thấp. Lúc này, cá buộc phải sử dụng đến cơ quan hô hấp phụ
chưa hoàn chỉnh, dễ làm cá bò tổn thương… Lượng oxy đòi hỏi không được đáp ứng sẽ
dẫn tới tình trạng chết ngạt ở cá.
Từ 21 ngày tuổi trở đi, thức ăn là Moina trưởng thành, trùng chỉ, cung quăn…
Chúng đặc biệt ưa thích mồi sống chuyển động. Nếu cùng một lúc cho cá ăn cả thức
ăn sống và thức ăn chết thì cá sẽ ăn mồi sống, còn lỡ nếu bắt mồi chết thì cá sẽ phun
ra ngay.
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Để phân biệt giới tính, người ta thường dựa vào màu sắc của cá. Màu sắc của
cá đực không rực rỡ như cá cái nhưng khi phát dục, màu cá đực lại trở nên rất đẹp.
Tuổi thành thục của cá : 3 tháng tuổi. Lúc này, cá có kích cỡ khoảng
4cm.
Cá thường sinh sản vào buổi sáng kéo dài đến trưa. Thời gian đẻ từ 3 - 5 giờ.
Nhiệt độ nước thích hợp cho cá sinh sản là 25 – 28
0
C (Võ Văn Chi, 1993).
Vào mùa sinh sản, sự chuẩn bò tổ và các cuộc giao hoan diễn ra rất thú vò.
Khi muốn kết đôi với một con cá cái, cá đực sẽ chiếm một diện tích trong bể và nhả
bọt khí ra làm tổ. Mỗi bọt khí được bao bọc bởi một màng chất nhờn tiết ra từ miệng.
17

Chúng kết dính vào nhau tạo thành một khối bọt có đường kính từ 8 – 10 cm. Sau thời
gian bò cá đực rượt đuổi, khi cá cái đã sẵn sàng đẻ thì chúng quần ổ và quấn vào nhau.
Cá đực xoay quanh cá cái, ép và ôm lấy cá cái bằng các vây dài, toàn bộ cơ thể cong
vòng một cách dòu dàng. Hành động này kéo dài khoảng một phút. Theo Bùi Hồng
Phúc, 1992 thì hành động này là “sự va chạm có tác dụng kích thích”. Sau đó, cá đực
buông dần cá cái ra. Sự tiết sẹ và trứng bắt đầu.
Trứng tiết ra từng nhóm nhỏ, trung bình từ 15 – 25 trứng/lần, đôi lúc đạt
40 – 50 trứng/lần nhưng trường hợp này rất ít. Cũng ngay lúc ấy, cá đực tiết sẹ để thụ
tinh. Sự thụ tinh diễn ra trong môi trường nước.
Sau khi trứng được cá đẻ ra, nó sẽ chìm từ từ xuống đáy bể nuôi. Cá đực bơi
theo và nhẹ nhàng ngậm trứng vào miệng rồi nhanh chóng trồi lên mặt nước, phun
trứng vào tổ sao cho trứng dính vào cụm bọt nổi. Cá đực cứ tiếp tục như vậy cho đến
khi thu lượm hết số trứng rơi dưới đáy. Sau đó, nó lại tiếp tục động tác cuộn thân,
xoắn quanh con cái như mô tả trên, cứ thế khoảng vài chục lần cho đến khi con cái đẻ
xong. Sự kết hợp giữa bơi lội và đẻ trứng xảy ra rất ngoạn mục. Trong thời gian ép đẻ,
cá đực và cái ở gần mặt nước, ngay dưới đám bọt. Cá đực luôn giữ bọt, nếu bọt có tan
đi, nó lại phun thành đám khác.
Một đặc điểm khác ở loài cá này là khi sinh sản, con cái có đặc tính ăn
trứng. Do đó, trong tự nhiên, sau khi đẻ xong, cá cái sẽ bò cá đực rượt đuổi đi xa một
khoảng nào đó. Vì vậy, khi bố trí cá đẻ trong khạp, người ra bắt cá cái ra ngay sau khi
nó đẻ xong, để tránh cá cái ăn trứng và bò tổn thương do cá đực rượt đuổi.
Theo Võ Văn Chi, 1993 thì thời gian để trứng nở là 30 – 40 giờ ở nhiệt độ
28 – 29
0
C.
Cá bột mới nở vẫn ở dưới tổ cho đến khi tiêu hết noãn hoàng. Nếu con nào
tách ra trước khi có đủ khả năng bơi lội thì cá đực sẽ hớp lấy vào miệng và nhẹ nhàng
phun trở lại tổ.
Trong suốt thời kỳ cá bột còn quá nhỏ, cá đực lại đều đặn việc ngậm cá con
và phun chúng ra với những bọt mới. Như vậy, nó đảm bảo cho cá con có đủ lượng

oxy để hô hấp.
Theo Mody, 1932, lúc này, cá chưa mở miệng. Chúng hô hấp bằng oxy từ bọt
khí. Như vậy, việc nhả thêm bọt khí của cá đực là nhằm để đảm bảo lượng oxy cần
thiết cho con nó thở.
Tầm quan trọng của cá đực trong việc ấp trứng và chăm sóc con được các
nghệ nhân cá cảnh đánh giá rằng: “Nếu bắt cá đực ra khỏi tổ sau khi đẻ xong thì hầu
hết hoặc toàn bộ trứng sẽ không nở. Chúng bò rơi xuống đáy khạp và bò ung. Sự phân
18
hủy của những trứng ung này làm tiêu hao nhiều oxy hoà tan. Đồng thời, không có bọt
khí do cá đực phun ra. Điều này dẫn tới việc môi trường nước nghèo oxy, khả năng
sống sống của cá còn lại sẽ giảm xuống. Vì vậy, sự có mặt của cá đực rất quan trọng
trong sự phát triển của trứng và cá nới nở”.
Khi cá con được 5 ngày tuổi, sự có mặt của cá đực lúc này không còn cần
thiết nữa. Bây giờ, nên bắt nó ra, nếu không sau một thời gian nó có thể ăn con.
2.1.7 Mùa vụ sinh sản
Trong tự nhiên, cá xiêm có thể sinh sản quanh năm nhưng mùa sinh sản
chính chỉ tập trung vào mùa nắng và các tháng đầu mùa mưa, là từ tháng 2 đến tháng
6. Vì theo kinh nghiệm của các cơ sở nuôi cá cảnh, mùa nắng nhiệt độ nước ấm áp thì
tỉ lệ nở và tỉ lệ sống của cá bột sẽ cao. Còn vào mùa mưa và mùa lạnh, cá rất dễ bò
nhiễm bệnh, thường gặp là bệnh nấm thuỷ mi.
2.2 Đặc điểm sinh học của bống tượng
2.2.1 Đặc điểm phân loại
Bộ: Perciformes
Bộ phụ: Gobioidei
Họ: Eleotridae
Giống: Oxyeleotris
Loài: Oxyeleotris marmorata Bleeker 1952
Tên tiếng Anh: Marble goby.
Tên tiếng Việt: Cá bống tượng.
2.2.2 Đặc điểm hình thái

Cá bống tượng đầu to, rộng, dẹp bằng. Mõm dài nhọn, hướng lên trên, giữa
mõm có một u nhô cao. Miệng trên rộng, hàm dưới dài hơn hàm trên và đưa ra phía
trước. Răng nhọn, gốc răng to, xếp thưa thành nhiều hàng trên mỗi hàm. Không có
râu.
19
Mắt tròn, nhỏ lệch về phía đầu. Lưỡi rất phát triển, dẹp bằng, đầu lưỡi tròn.
Lỗ mũi trước mở ra bằng một ống ngắn.
Thân cá mập, phần trước hơi dẹp bằng, phần sau hơi dẹp bên. Đuôi thon dài,
vẩy nhỏ phủ khắp thân và đầu từ mõm. Đầu và phần trước của thân phủ vẩy tròn,
phần sau phủ vẩy lươc.
Vây đuôi tròn, có màu hơi đỏ hoặc nâu vàng, có nhiều sọc đỏ và nâu hoặc
xám tạo thành vân.
Mặt lưng có ba đốm đen, một ở sau đầu, một ở gốc vi lưng thứ nhất và một ở
gốc vi lưng thứ hai. Mặt bên của thân có nhiều đốm đen to, những đốm này không có
hình dáng nhất đònh.
2.2.3 Phân bố
Trong tự nhiên, cá phân bố ở khắp loại hình thuỷ vực nước ngọt từ ao hồ,
ruộng, mương, kênh, rạch, sông… Theo Lê Như Xuân và Phạm Đinh Thành (1994), cá
bống tượng là loài cá đặc trưng cho vùng nhiệt đới.
Trên thế giới, bống tượng được bắt gặp ở Thái Lan, Mã Lai, Brunei,
Sumatra, Lào, Campuchia và Việt Nam.
Ở miền Nam Việt Nam, cá xuất hiện nhiều ở các sông rạch thuộc hệ thống
sông Cửu Long, Đồng Nai và sông Vàm Cỏ.
2.2.4 Đặc điểm sinh thái
Theo tác giả Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994), cá bống tượng sống
ở đáy thuỷ vực, hoạt động về đêm. Ban ngày, nó thường vùi mình xuống bùn đáy và
có thể sống ở đó nhiều giờ. Trong ao, cá ưa ẩn nắp ven bờ, nơi có hang hốc, cỏ rong
và thực vật thuỷ sinh thượng đẳng.
Cá bống tượng là loài có cơ quan hô hấp phụ nên có thể sống được trong môi
trường nước thiếu oxy trong một khoảng thời gian nhất đònh.

Qua kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Dũng và Đỗ Khắc Xuân Diễm
(1995), thì cá bống tượng có thể sống được trong môi trường nước có pH từ 4 - 9 nhưng
tốt nhất là 6 - 8.
Cá cần có dưỡng khí trên 3mg/l, song cá có thể chòu đựng ở môi trường
dưỡng khí thấp vì cá có cơ quan hô hấp phụ (http//: www.vietlinh.com.vn - Đi cùng
nhà nông).
20
Khả năng thích ứng với độ mặn của cá bống tượng khá cao so với nhiều loài
cá khác. Cá bống tượng có thể sống được ở độ mặn 13
0
/
00
.
Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994), cá bống tượng thích hợp
sống trong môi trường nước ấm áp với nhiệt độ khoảng 25 - 30
0
C
2.2.5 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá bống tượng trưởng thành có bộ máy tiêu hoá tiêu biểu cho loài cá dữ điển
hình. Miệng lớn, răng hàm dài sắc (Lê Như Xuân, Phạm Minh Thành, 1994).
Theo Nguyễn Văn Thạnh (1984), Nguyễn Tuần (1993), cá bống tượng là loài
cá ăn động vật. Tỷ lệ chiều dài ruột trên chiều dài chuẩn là Li/Ls < 1. Cá bống tượng
thì rình bắt mồi.
Cá bống tượng ăn mạnh về đêm hơn ban ngày, nước rong ăn mạnh hơn nước
kém, nước lớn ăn mạnh hơn nước ròng.
Thức ăn của chúng chủ yếu là: tôm, tép, cá nhỏ, cua, ốc, ấu trùng của côn
trùng thuỷ sinh… Cá bống tượng không thích ăn những động vật đã ươn thối.
Theo Lê Như Xuân và Phạm Minh Thành (1994), cũng như những loài cá
khác sau khi tiêu hết noãn hoàn, bống tượng bắt đầu ăn thức ăn ngoài (thường là từ
3 - 4 ngày sau khi nở). Kích cỡ miệng lúc này khoảng 0,08 - 0,2mm. Vì vậy, thức ăn

cung cấp phải đảm bảo phù hợp với cỡ miệng của cá bống tượng. Và những loại thức
ăn mà người ta thường sử dụng như: luân trùng (Branchionus spp), lòng đỏ trứng gà,
bột đậu nành…
Sau 30 ngày tuổi, bống tượng có thể ăn nhiều loại thức ăn như: trùng chỉ
(Tubifex), ấu trùng muỗi lắc, cá, tép, nhuyễn thể xay nhuyễn…
Theo Cheng Phen, 1994 những phân tích thành phần thức ăn trong dạ dày ác
mẫu cá thu được ngoài tự nhiên cho thấy:
Loài thức ăn Số dạ dày có chứa thức ăn Tần số xuất hiện(%)
Tôm tép nhỏ 7 58.33
Cá nhỏ 4 33.33
Cua nhỏ 1 8.33
Kết quả khảo sát cho thấy cá bống tượng là loài cá có phổ thức ăn hẹp, đặc
biệt cá chỉ ăn mồi động vật. Điều này phù hợp với kết quả của Nguyễn Văn Thạnh
21
(1985). Theo Nguyễn Văn Thạnh (1985) thì tỷ lệ Li/Ls của cá bống tượng rất thấp
(Li/Ls = 0.04 - 0.06), cho thấy đây là loài cá ăn động vật điển hình.
2.2.6 Tăng trưởng và kích thước tối đa
Cá bống tượng là loài cá có tốc độ tăng trưởng chậm ở giai đoạn cá dưới
100g. Cá từ 100g trở lên tăng trưởng khá hơn.
Trong điều kiện nhiệt độ 26-30
0
C, trứng cá bống tượng nở sau 25 - 26 giờ.
Lúc này, cá có chiều dài từ 2,5 - 3mm.
Sau khi cá nở 1 ngày, chiều dài cá đạt 3,8mm. Cá chuyển động thẳng đứng
và từ từ buông mình chìm xuống đáy.
Cá nở sau 2 ngày, chiều dài đạt 3,8 - 4mm. Mắt có sắc tố đen. Vi ngực bắt
đầu xuất hiện. Cá vẫn còn vận động thẳng đứng.
Cá 3 ngày tuổi dài 4 - 4,2mm. Túi noãn hoàng đã tiêu biến.
Cá 12 ngày tuổi đã xuất hiện đầy đủ các vây.
Cá 18 ngày tuổi bắt đầu hình thành vảy và có hình dáng của cá trưởng thành.

Cá 30 ngày tuổi dài khoảng 13mm.
Cá 45 ngày tuổi dài khoảng 21mm.
Cá 60 ngày tuổi dài khoảng 30mm.
Cá 75 ngày tuổi dài khoảng 41mm.
Cá 90 ngày tuổi dài khoảng 53mm.
Ở giai đoạn từ cá bột lên cá hương, cá phải mất thời gian 2 - 3 tháng mới đạt
chiều dài 3 - 4cm.
Từ cá hương cần phải nuôi 4 - 5 tháng cá mới đạt kích cỡ của cá giống là
100g/con. Còn để có kích cỡ 100g/con từ lúc mới đẻ phải mất từ 7 - 9 tháng.
Nếu cá giống có trọng lượng 100g/con, để có cá thương phẩm 400g trở lên,
phải mất 5 - 8 tháng nếu nuôi ao, 5 - 6 tháng nếu nuôi bè.
Kích thước tối đa của cá có thể đạt được là 500mm.
22
2.2.7 Đặc điểm sinh sản
a Phân biệt giới tính
Thông thường, sau khi nuôi vỗ được 1 - 2 tháng, cá đã phát dục và có thể
phân biệt đực cái qua quan sát hình dạng bên ngoài.
Cá đực có gai sinh dục nhỏ, đầu nhọn hình tam giác.
Cá cái có gai sinh dục lớn nhưng không nhọn đầu như gai sinh dục của cá
đực.
b Tuổi và kích thước thành thục
Theo nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước cùng Lê Như Xuân và Phạm
Minh Thành (1994), trong tự nhiên, cá bống tượng thành thục sinh dục và tham gia
sinh sản lần đầu sau 9-12 tháng tuổi.
Trong nuôi và cho sinh sản nhân tạo, cá có thể thành thục sớm hơn 1-2 tháng.
Kích cỡ cá lúc này khoảng 200g.
c Đặc tính và môi trường sinh sản
Nơi đẻ của cá bống tượng thường nằm ven bờ và chìm sâu trong nước, nơi có
các cây cỏ thuỷ sinh hay các thân cây chìm. Cá đẻ trứng dính thành ô tròn ở dưới các
gốc cây, hang hốc ven bờ.

Trứng bống tượng giống hình quả lê, có chiều dài từ 1,2 - 1,4mm.
Sau khi đẻ, cá bố mẹ bơi quanh tổ và dùng vây đuôi quạt nước để cung cấp
đủ lượng oxy cho trứng cá phát triển. Và công việc này được chúng thực hiện cho đến
khi toàn bộ trứng cá nở hết.
d Mùa vụ sinh sản
Mùa vụ đẻ ngoài tự nhiên kéo dài từ tháng 3 - 11. Cá có hệ số thành thục
thấp. Cá cái thành thục chỉ đạt 1,5 - 2%, nhưng vì trứng có kích cỡ nhỏ nên sức sinh
sản cao.
Nhiều tác giả nghiên cứu và thấy rằng khả năng sinh sản của mỗi cá thể là
khác nhau, dao động từ 2.000 – 30.000 trứng, với số lượng trứng trung bình của mỗi tổ
là 24.000 trứng/tổ. Và mỗi cá thể cái đẻ ít nhất ba lần trong một năm.
23
Thời gian tái phát dục của cá khoảng 30 ngày.
2.3 Tình hình sản xuất giống cá bống tượng
2.3.1 Trong nước
Qua nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước thì mùa vụ sinh sản của cá
bống tượng từ tháng 3 - 11. Tác giả Ngô Bá Thành và ctv (1988) đã kết luận cá đẻ tập
trung vào tháng 5 - 6.
Tan và Lam, 1973 (trích bởi Nguyễn Tuần, 1993), lần đầu tiên đã cho sinh
sản nhân tạo cá bống tượng thành công bằng cách tiêm chế phẩm HCG với phương
pháp thụ tinh ướt. Phương pháp này đã cho một kết quả hết sức khả quan. Tỷ lệ thụ
tinh và tỷ lệ nở rất cao (90%). Nhưng tất cả cá bột đã chết sau đó vài ngày.
Ở Việt Nam, từ những năm 1984-1985, các trường đại học, các trung tâm
nghiên cứu đã bắt đầu nghiên cứu đối tượng này. Khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học
Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu đặc điểm sinh học và kỹ thuật sinh
sản nhân tạo (Nguyễn Văn Thạnh, 1984, Ngô Bá Thành và ctv, 1988), ương nuôi cá
bột lên cá hương giống (Nguyễn Duy Hoà Và Huỳnh Thò Ngọc Anh, 1994), sản xuất
giống và gây nuôi thức ăn tự nhiên (Nguyễn Tuấn Dũng và Đỗ Khắc Xuân Diễm,
1995).
Nguyễn Tuần (1993), khoa Thuỷ Sản Trường Đại Học Cần Thơ cũng đã

nghiên cứu cá bống tượng về: hình thái, giải phẫu, đặc điểm sinh thái cá con, đặc
điểm tiền phôi và phôi, bệnh cá.
Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II đã nghiên cứu: đặc điểm phân
loại, đặc điểm sinh học, kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ, sinh sản nhân tạo, ương nuôi từ cá
bột lên cá hương và cá giống…
Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Tỉnh An Giang bước đầu thành công trong nuôi
thòt, nuôi vỗ cá bố mẹ trong bè và tiến hành kích thích sinh sản nhân tạo.
Ngô Bá Thành và ctv (1988) đã thử nghiệm sản xuất giống và ương nuôi cá
bống tượng với 3 loại thức ăn khác nhau. Tỷ lệ sống trung bình của các lô ương từ
3 - 60 ngày tuổi đạt được như sau: 21,78% đối với lô cho ăn lòng đỏ trứng gà; đối với
lô cho ăn bột đậu nành thì đạt 13,43%; 12,15% đối với lô cho ăn thức ăn tự nhiên.
2.3.2 Trên thế giới
Những báo cáo ban đầu của Tan (1973) và Phinal (1980) trích bởi
Tavarutmaneegul và Lin (1988) cho thấy cá bống tượng ở giai đoạn cá bột có tỉ lệ tử
24
vong rất cao, lên tới 100%. Nhưng với giá thể thích hợp, Tavarutmaneegul và Lin
(1998) đã thành công trong việc thu trứng cá bống tượng và số lượng trứng thụ tinh
hơn 80%.
Với thức ăn là lòng đỏ trứng gà và luân trùng, cá bột vẫn chết nhiều với tỷ lệ
là 90%. Có nhiều ý kiến xoay quanh hiện tượng này. Nguyên nhân có thể là cá chết
đói do thức ăn không phù hợp (Tan và ctv, 1973), hay do mật độ các hạt thức ăn
(Tavarutmaneegul và Lin, 1988).
Tavarurmaneegul và Lin (1988) báo cáo rằng trong suốt 30 ngày kể từ sau
khi nơ,û cá bống tượng đạt chiều dài trung bình là 1 cm với tỷ lệ sống từ 7 - 55%. Vào
giai đoạn hai (từ 30 - 60 ngày sau khi nở), khi nuôi với mật độ 20 con/m
2
thì cá tăng
trưởng cao hơn và tỷ lệ sống cũng cao hơn 75 - 100%. Thức ăn của chúng ở giai đoạn
này là Moina.sp, ấu trùng của côn trùng…
Rojanapittaykul (2000) đã thực hiện những nghiên cứu về sự thích nghi của

trứng và ấu trùng của cá bống tượng ở những độ mặn khác nhau (0, 10, 20 ppt). Kết
quả cho thấy rằng tỷ lệ nở đạt cao nhất khi cá được nuôi trong môi trường nước ngọt.
Sau 23 ngày tuổi, tỷ lệ tử vong khá cao. Nhưng sau 60 ngày tuổi, ở độ mặn 10 ppt tỷ lệ
tăng trưởng và tỷ lệ sống đạt rất cao (96,88%) và cá dài 1,94 cm. Thức ăn được sử
dụng để ương cá bống tượng từ sau khi nở cho đến 30 ngày tuổi là Chlorella sp,
Rotifer, Artemia sp và cuối cùng là Moina sp.
Theo Nguyễn Tuần (1993), thì vào những năm cuối của thập niên 70, các
vùng Đông Nam đã bắt đầu nuôi và cho đẻ nhân tạo thành công như: Indonesia
(1978), Singapore (1980) và Thái Lan (1980)…

2.4 Thức ăn sử dụng trong quá trình ương cá bột lên cá hương
2.4.1 Thức ăn chế biến
Thức ăn chế biến hay còn gọi là thức ăn khô, thức ăn nhân tạo do con người
chế biến lại từ những dạng còn tươi sống rồi mới dùng làm thức ăn cho vật nuôi thuỷ
sản.
a Lòng đỏ trứng gà
Trứng là loại thực phẩm vừa có nhiều chất béo, nhiều chất đạm đồng thời
giàu vitamin và khoáng vi lượng. Trứng là món ăn tốt cho trẻ em đang tuổi mới lớn,
bệnh nhân đang phục hồi sức khoẻ. Và đã từ lâu, trứng là thức ăn phổ biến được dùng
để ương nuôi cá bột.
25

×