Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Quản lý tổng hợp dịch hại lúa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long hiệu quả và bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.49 KB, 9 trang )

Quản lý tổng hợp dịch hại lúa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
hiệu quả và bền vững
Nguyễn Hữu Huân1, Hồ Văn Chiến2, Lê Hữu Hải3, Nguyễn Hữu An4, Nguyễn
Văn Huỳnh5 và K.L.Heong6.
1
2
3
4
5
6
Phó Cục Trưởng, Cục Bảo vệ Thực vật (Địa chỉ liên hệ chính: );
Giám đốc, Trung tâm Bảo vệ Thực vật phía Nam;
Trưởng phòng Nông nghiệp huyện Cai Lậy, Tiền Giang;
Chi Cục Trưởng, Chi cục Bảo vệ Thực vật An Giang;
Phó Giáo sư, Trường Đại học Cần Thơ,
Giáo sư, Nhà Côn trùng học, Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế-IRRI.
1. Mở đầu
Sản lượng lúa gạo ở Việt Nam nói chung, ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) nói riêng đã gia tăng đều, bình quân ở mức 1 triệu tấn của lúa mỗi năm trong
vòng 20 năm qua (1990 là 19,225 triệu tấn, 2010 là 39,90 triệu tấn) (Bùi Bá Bổng,
2010). Năm 2010 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt đỉnh cao nhất từ trước tới nay
khoảng 7 triệu tấn. Với mức độ tăng trưởng sản lượng lúa như hiện nay, một số chuyên
gia Thái Lan dự đoán rằng trong vòng 10 năm tới Việt Nam sẽ vượt qua Thái Lan và trở
thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới (The Nation, 04/6/2011) 7. Để duy trì sự tăng
trưởng ổn định trong sản xuất lúa gạo ở nước ta, cần có những giải pháp sản xuất lúa
gạo bền vững. Một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với sản xuất lúa bền vững là
rầy nâu và các bệnh vi rút do rầy nâu là môi giới truyền bệnh (Heong và Hardy, 2009).
Sự gia tăng mật số và khả năng gây hại của loài côn trùng thứ cấp này là hậu quả của
việc lạm dụng thuốc trừ sâu quá mức, làm suy giảm dịch vụ sinh thái trong sản xuất lúa
bền vững.
Trong bài này chúng tôi giới thiệu quan điểm mới về quản lý tổng hợp dịch hại


lúa bền vững và kết quả ứng dụng trong thực tiễn sản xuất lúa ở ĐBSCL trong vài năm
gần đây.
1. Quan điểm mới về quản lý tổng hợp dịch hại lúa
bền vững
Quan điểm mới về quản lý tổng hợp dịch hại
lúa bền vững là một tứ diện bao gồm: Con người,
dịch hại, cây trồng và môi trường; được xây dựng
dựa trên năm yếu tố cơ bản là tính bền vững, đa dạng
7
/>1
Giải phápCon ngườiDịch hạiCây trồngMôi trườngXem xét tình
trạng hiện tại: kết
quả nghiên cứu
trong, ngoài nước,
kinh nghiệm
phòng trừ, cần
nghiên cứu tiếp.- Phun nhiều lần
thuốc trừ sâu gây
bộc phát rầy nâu.- Rầy nâu là môi
giới truyền bệnh
vi rút VL, LXL;
- Rầy nâu truyền
vi rút theo cơ chế
bền vững;
- Rầy nâu mang
mầm bệnh truyền
vi rút gây bệnh
cho cây lúa khỏe
ngay khi chích
hút thân lúa;

- Rầy nâu di trú
xa, theo gió.- Gieo trồng
nhiều trà lúa
khác nhau là
cầu nối truyền
bệnh từ ruộng
này sang ruộng
khác, vụ này
sang vụ khác.
-Tuổi cây lúa
non (dưới 20
ngày) dễ nhiễm
bệnh, gây thiệt
hại năng suất
lớn.-Thời tiết thích
Theo quan điểm này thì để có giải pháp quản lý một loại dịch hại lúa cụ thể nào
đó cần phải xem xét kỹ từng mặt của tứ diện trong mối quan hệ, tác động qua lại giữa
các mặt. Trong thực tế sản xuất lúa chắc chắn sẽ phát sinh nhiều tình huống gắn liền với
tình trạng sức khỏe của cây trồng, do vậy cần phải xem xét, cân nhắc kỹ từng yếu tố của
từng mặt tứ diện mà đưa ra các giải pháp phù hợp.
Dựa theo mô hình này, qua kinh nghiệm thực tiễn phòng chống dịch bệnh vàng
lùn, lùn xoắn lá hại lúa ở Nam bộ trong 5 năm qua, chúng ta có thể xem xét giải pháp
quản lý dịch bệnh vi rút vàng lùn, lùn xoắn lá (VL,LXL) hại lúa như sau:
Như vậy, giải pháp quản lý dịch rầy nâu truyền bệnh vi rút vàng lùn, lùn xoắn lá
hại lúa sẽ bao gồm: các giải pháp phòng là chủ yếu; cụ thể như tiêu hủy cây lúa bệnh; vệ
sinh đồng ruộng; đảm bảo thời gian cách ly giữa hai vụ lúa; gieo sạ tập trung đồng loạt
2
và né rầy trên cùng cánh đồng; sử dụng giống xác nhận; áp dụng “ba giảm, ba tăng”;
hạn chế phun thuốc trừ sâu phổ rộng (lân hữu cơ, cúc tổng hợp) trong giai đoạn lúa non
dưới 40 ngày tuổi để tránh gây bộc phát rầy, còn giải pháp trừ thì chỉ phun thuốc trừ rầy

nâu khi mật số rầy non tuổi 2-3 quá 3 con/ tép lúa (Sổ tay hướng dẫn phòng, trừ rầy nâu
truyền bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2006).
Sự thành công của giải pháp quản lý dịch bệnh VL, LXL hại lúa được đánh giá theo
5 yếu tố cơ bản, đó là:
1. Tính bền vững: Giải pháp quản lý dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá hại lúa ở Nam
bộ nêu trên đã được hàng triệu lượt nông dân áp dụng thành công, đã kịp thời ngăn chặn
và đẩy lùi dịch bệnh liên tục qua gần 14 vụ lúa chính, kể từ vụ Đông Xuân 2006-2007;
góp phần tăng năng suất, sản lượng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long liên tục trong 5
năm qua.
2. Tính đa dạng sinh học: giải pháp gieo sạ tập trung đồng loạt, né rầy kết hợp kỹ
thuật “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm”, biện pháp sinh học (phun nấm xanh, nấm trắng
trừ rầy nâu) … đã góp phần làm giảm đáng kể một khối lượng lớn thuốc trừ rầy. Nếu
chỉ tính tổng lượng thuốc trừ rầy đã cấp từ nguồn dự trữ quốc gia để phun tổng diện tích
được phòng trừ trong 5 năm qua, chỉ mới đạt 0,28 kg/lít/ha (530,195 tấn/ 1.906.043 ha
phun trừ rầy 8). Con số này cũng nói lên tính đa dạng sinh học trong đồng lúa ở ĐBSCL
đã được tăng cường, ổn định khá.
3. Sinh cảnh: giải pháp gieo sạ tập trung đồng loạt, né rầy đã góp phần tái cơ cấu lại
mùa vụ gieo trồng ở ĐBSCL theo hướng gom vụ, có thời gian cách ly tối thiểu giữa hai
vụ lúa, đồng thời góp phần thúc đẩy cơ giới hóa khâu cắt lúa tập trung trên một vùng
rộng lớn.
4. Tính kháng, nhiễm của giống: được thể hiện rõ qua chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp
và PTNT về cơ cấu giống kháng, nhiễm rầy nâu, chất lượng giống theo tỉ lệ 60 (giống
chất lượng cao) - 30 (giống đặc sản, chất lượng trung bình) - 10 (giống chất lượng thấp).
Tỉ lệ gieo trồng của 1 giống, nhất là giống chất lượng gạo thấp không vượt quá 10%
diện tích gieo trồng trong một vùng.
5. Các yếu tố kinh tế - xã hội: dịch bệnh đã được ngăn chặn và đẩy lùi, giúp nông
dân an tâm sản xuất lúa theo hướng tăng năng suất, hạ giá thành; góp phần nâng cao đời
sống của nông dân trồng lúa, đảm bảo an sinh xã hội ở ĐBSCL trong 5 năm qua.
2. Quản lý tổng hợp dịch hại lúa bền vững ở ĐBSCL trong bối cảnh biến đổi khí
hậu và an ninh lương thực quốc gia

Các giải pháp quản lý tổng hợp dịch hại cây lúa bền vững là nhằm tăng cường
các dịch vụ sinh thái trong sản xuất lúa, đồng thời giảm thiểu việc sử dụng thuốc trừ sâu
hóa học độc hại đối với sinh cảnh đồng lúa. Giải pháp mới có tên gọi “công nghệ sinh
thái” được giới thiệu đưa vào ứng dụng trên đồng lúa ở ĐBSCL năm 2009 nhằm tăng
8
Báo cáo tổng kết 5 năm (2005-2010) phòng chống dịch rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá ở Nam bộ, Cục Bảo
vệ thực vật, trình bày tại Hội nghị tổng kết sản xuất lúa năm 2010 ở Nam bộ và Kế họach sản xuất lúa vụ Đông
Xuân 2010-2011, Viện KHKTNN Miền Nam, tp. Hồ Chí Minh, ngày 13/10/2010.
3
cường tính đa dạng, phong phú của quần thể các loài thiên địch trong sinh quần ruộng
lúa.
Khái niệm “Công nghệ sinh thái” là gì? Đó là những tác động của con người
nhằm cải thiện môi trường dựa trên những nguyên tắc về sinh thái (Parrott, 2002). Ngày
nay, nếu con người có thể áp dụng thành công công nghệ di truyền (genetic
engineering) để điều khiển bộ gen của cây trồng nhằm tạo ra các giống cây mới có đặc
tính mong muốn, thì, tương tự, cũng có thể áp dụng công nghệ sinh thái (ecological
engineering) để kiến thiết đồng ruộng theo ý muốn nhằm thu hút thiên địch đến diệt trừ
sâu hại cây trồng để giảm việc sử dụng thuốc trừ sâu, bảo vệ môi trường.
2.1 Kết quả bước đầu ứng dụng công nghệ sinh thái trong mô hình “Ba giảm, Ba
tăng”, “Một phải, Năm giảm” tại Tiền Giang và An Giang 2009-2011.
Từ đầu vụ Đông Xuân (ĐX) 2009-2010, mô hình đầu tiên đã được triển khai tại hai
địa điểm có rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá gây hại trầm trọng nhất là huyện Cai
Lậy và Cái Bè của tỉnh Tiền Giang, trên diện tích của mỗi mô hình khoảng 30 -36,7 ha
lúa cho nguyên cả cánh đồng với 36- 43 nông dân tham gia trong một cộng đồng. Nông
dân được tập huấn về kỹ thuật canh tác tiên tiến, áp dụng biện pháp gieo sạ “né rầy” và
hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu bằng cách trồng các loại cỏ có hoa trên bờ ruộng để
thu hút thiên địch. Chọn những loại hoa có màu sắc và hương thơm phù hợp, nhiều mật
và phấn hoa để thu hút thiên địch như: Sài đất (Wedelia chinensis), Xuyến chi (Bidens
pilosa), cúc Gót (Colobogyne sp.) và cỏ Cứt heo (Agelatum conyzoides) (Hình 1).
Wedelia chinensis Bidens pilosa

Agelatum conizoides
Colobogyne sp.
Hình 1. Một số loại cỏ hoa có triển vọng phát triển và cho hoa quanh năm.
Nông dân chăm sóc đồng ruộng của họ như thường, còn cán bộ kỹ thuật bố trí thí
nghiệm để theo dõi và đánh giá hiệu quả của mô hình vào 4 giai đoạn sinh trưởng của
lúa là mạ, đẻ nhánh, làm đồng và trổ. Một bẫy đèn được bố trí ở một góc của mô hình,
4
các loại bẫy khác được bố trí trong ruộng lúa để theo dõi mật số rầy và thiên địch trong
ruộng mô hình và cả ruộng đối chứng của nông dân ở ngoài mô hình (Hình 2). Ngòai cỏ
có hoa, nông dân còn trồng bổ sung cây màu có hoa khác như đậu bắp, bắp để đồng thời
gia tăng lợi tức (Hình 2).
Hình 2. Mô hình công nghệ sinh thái có bố trí bẫy đèn để theo dõi rầy nâu và
trồng cỏ có hoa trên bờ ruộng để thu hút thiên địch.
Một số kết quả phân tích số liệu bước đầu được ghi nhận như sau:
- Trong ruộng có trồng hoa trên bờ ít rầy nâu hơn (Hình 3).
- Trồng cỏ trên bờ ruộng thu hút nhiều thiên địch đến cư ngụ và sinh sản trong đó
như nhện, bọ đất … thuộc nhóm bắt mồi (Hình 4).
Hình 3: Rầy nâu
5
Hình 4: Thiên địch bắt mồi

×