Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

TOCE (Transcatheter oily chemoembolization) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.02 KB, 12 trang )

TOCE
(Transcatheter oily chemoembolization)


1. UNG THƯ TẾ BÀO GAN NGUYÊN PHÁT: ĐIỀU TRỊ BẰNG THUYÊN
TẮC ĐỘNG MẠCH GAN, PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TIÊN
LƯỢNG TRÊN 150 TRƯỜNG HỢP.
( Hepatocelluler carcinoma: treated with hepatic arterial embolization, an
analysis of prognostic features in 150 cases)
Euvilaichit C, Kanjanapitak A.
Department of Radiology, Ramathibodi Hospital, Mahidol University, Bangkok,
Thailand.
Từ tháng 7/ 1989 à 7/ 1999, 120 bệnh nhân nam và 30 bệnh nhân nữ mắc bệnh ung
thư tế bào gan nguyên phát (HCC), tuổi từ 18 à 71, được điều trị bằng nhiều
phương cách khác nhau. Các bệnh nhân được chia ra 3 nhóm tuỳ theo phương
cách điều trị :
Nhóm I: có 35 trường hợp được điều trị bằng thuyên tắc mạch qua động mạch
(TAE: transarterial embolization) sử dụng chất gen xốp có tẩm mitomycin-C
20mg.
Nhóm II:100 trường hợp được điều trị với thuyên tắc mạch hoá học bằng dầu qua
ống dẫn (TOCE: transcatheter oily chemoembolization) sử dụng lipiodol 10cc với
mitomycin- C 20mg đồng thời với chất gen xốp cho sự thuyên tắc mạch gan.
Nhóm III: 15 trường hợp điều trị bằng TOCE, sau đó cắt bỏ gan theo hình
nêm.Những đặc điểm tiên lượng sau điều trị được phân tích hồi cứu trong mối
quan hệ với các phương thức điều trị. Kết quả cho thấy TOCE tốt hơn TAE và
TOCE cộng thêm sự cắt bỏ gan hình nêm là phương thức tốt nhất với tỉ lệ phẫu
thuật tích lũy tốt nhất ( tỉ lệ sống còn trung bình là 46,69 tháng ).
Sự phân tích theo phương pháp thống kê tuổi thọ trung bình của nhóm II cho thấy
giai đoạn của u và sinh hoá huyết thanh có liên quan, cả hai rất tương xứng với
chức năng dự trữ của gan, là những yếu tố tiên lượng có ý nghĩa thống kê cho hiệu
quả điều trị và hậu quả lâu dài.


Những phân tích sâu hơn trên tất cả bệnh nhân cũng cho thấy rằng kích thước và
giai đoạn của khối u là những yếu tố tiên lượng có ý nghĩa cho sự điều trị HCC.
2. THUYÊN TẮC HOÁ HỌC BẰNG DẦU QUA ĐỘNG MẠCH TRÊN 100
TRƯỜNG HỢP HCC.
( Transarterial oil chemoembolization for hepatocellular carcinoma, in 100
cases)
Levy I, Verstandig A. Division of Medicine, Hadassah University Hospital, Ein
Kerem, Jerusalem.
Ung thư tế bào gan (HCC) là bệnh lý ác tính với tiên lượng nặng. Hầu hết bệnh
nhân vừa có u ác tính vừa có xơ gan. Ghép gan và cắt bỏ gan được xem là phương
pháp trị bệnh duy nhất , nhưng chỉ có thể áp dụng cho dưới 10% bệnh nhân.Trong
những thập niên gần đây, điều trị HCC phổ biến nhất là thuyên tắc mạch hoá học
bằng chất dầu (TOCE) và tiêm ethanol xuyên qua da(PEI). Chúng tôi tổng kết
nghiên cứu hồi cứu trên một trăm bệnh nhân ( tuổi trung bình 63 ± 3) được điều trị
bằng TOCE. Trong 271 đợt điều trị từ 1989 à 1998, 16 bệnh nhân được cắt gan kết
hợp với TOCE, 8 bệnh nhân điều trị bằng PEI kết hợp với TOCE, số còn lại điều
trị với TOCE đơn thuần. Khối lượng u giảm đi trong 36% trường hơp điều trị bằng
TOCE ( thể tích khối u giảm 24 à 75%). Alpha-feto protein (AFP) giảm 25 à 90%
trong 20/ 32 trường hợp có mức AFP tăng cao. Thời gian sống trung bình cho cả
nhóm là 19 tháng ( đối với bệnh nhân điều trị bảo tồn là 10,9 tháng ) Thời gian
sống trung bình của 57 bệnh nhân Okuda stage 1 là 31,1 tháng, 43 bệnh nhân
Okuda stage 2 và 3 là 10,9 tháng, tương ứng với p < 0,0001. Trong 57 bệnh nhân
stage 1, 16 bệnh nhân trãi qua cắt gan cộng thêm TOCE, và 41 bệnh nhân chỉ điều
trị với TOCE ( thời gian sống trung bình là 15 và 26 tháng tưong ứng với p không
có ý nghĩa. So sánh những bệnh nhân Okuda1 điều trị bằng TOCE với những bệnh
nhân Okuda 1 được điều trị bảo tồn năm 1984, thời gian sống trung bình là 26 và
10 tháng (p < 0,001). Tác dụng phụ của TOCE tương đối nhẹ. Có một sự rủi ro ( 3
ngày sau điều trị) và chất lượng cuộc sống được duy trì. Mặc dù có sự tiến triển
trong việc điều trị HCC bằng TOCE, PEI và ghép gan, việc kéo dài sự sống vẫn
còn chưa thoã đáng.

3. THUYÊN TẮC HÓA HỌC BẰNG DẦU QUA ỐNG DẪN TRÊN CÁC
NHÁNH MẠCH NGOÀI GAN TRONG ĐIỀU TRỊ HCC
Transcatheter oily chemoembolization of the extrahepatic collaterals in
hepatocellular carcinoma
Eurvilaichit C.
Department of Radiology, Faculty of Medicine, Ramathibodi Hospital, Mahidol
University, Bangkok, Thailand Department of Radiology, Faculty of Medicine,
Ramathibodi Hospital, Mahidol University, Bangkok, Thailand.
Hai mươi bệnh nhân HCC có thuyên tắc động mạch gan do làm nhiều lần thuyên
tắc hoá học bằng dầu qua ống dẫn (TOCE) , được điều trị thêm với TOCE qua
những nhánh phụ ngoài gan. Phương pháp TOCE được thực hiện nhiều lần qua
động mạch vành dưới (10 bệnh nhân ), các nhánh của động mạch vị tá tràng (1
bệnh nhân ), động mạch gan phụ ( 1 bệnh nhân ), nhánh vỏ của động mạch thận
phải (1 bệnh nhân ), nhánh liên sườn 12 (1 bệnh nhân ). Phương pháp TOCE
không thành công trong 4 bệnh nhân dùng động mạch gan phụ, 1 bệnh nhân với
động mạch túi mật xuất phát từ động mạch mạc treo tràng trên, 1 bệnh nhân với
động mạch mạc nối, 1 bệnh nhân với thông nối động mạch vị trái- động mạch vị
phải. Tỉ lệ thành công của TOCE ở những động mạch ngoài gan là 76,67% trong
khi có 23,33% thất bại. Những tỉ lệ sống còn tích lũy nói chung là 80% (6 tháng ),
50% (12 tháng ) và 18,8% (12 tháng). Một bệnh nhân bị hoại tử da thành ngực
phải sau làm TOCE động mạch vú trong phải trị HCC. Một bệnh nhân liệt nửa
người sau làm TOCE động mạch liền sườn 12. Những nhánh phụ ngoài gan là
những con đường quan trọng xen kẻ nhau để kiểm soát liên tục bằng ống thông
khối HCC sau khi làm tắc động mạch gan .
4. NHỮNG NHÁNH PHỤ CỦA ĐỘNG MẠCH GAN SAU LÀM TOCE
TRÊN BỆNH NHÂN HCC
Hepatic arterial collaterals after transcatheter oily chemoembolization of
hepatocellular carcinoma
Eurvilaichit C, Chuapetcharasopon C.
Department of Radiology, Faculty of Medicine, Ramathibodi Hospital, Mahidol

University, Bangkok, Thailand Department of Radiology, Faculty of Medicine,
Ramathibodi Hospital, Mahidol University, Bangkok, Thailand.
Từ tháng 7/ 1989 đến tháng 6/1999, có 100 bệnh nhân, 76 nam và 24 nữ được
nhập viện điều trị HCC bằng TOCE sử dụng lipiodol 10ml trộn với chất chống
ung thư (mitomycin C 20ml) và những hạt bọt gel đã được Nakamura và cộng sự
mô tả. Mạch đồ theo dõi định kỳ đã cho thấy những nhánh phụ của gan dã phát
triển sau phương pháp thuyên tắc. Việc làm thuyên tắc động mạch ngoại vi của
gan như động mạch phân thùy thường làm xuất hiện những nhánh phụ trong gan.
Tuy nhiên, từ sự thuyên tắc của những động mạch gan gần trung tâm của những
động mạch nuôi dưỡng u hơn như động mạch gan riêng và động mạch gan chung,
những nhánh phụ ngoài gan thường được chứng minh với hệ mạch nhỏ, ngoằn
ngoèo làm cho phương pháp TOCE lập lại khó khăn hơn. Những nhánh phụ của
gan được nảy sinh.
5. PHƯƠNG PHÁP TOCE VỚI ĐỘNG MẠCH DƯỚI HOÀNH TRONG
ĐIỀU TRỊ HCC: SỰ AN TOÀN VÀ VAI TRÒ ĐIỀU TRỊ CÓ TIỀM NĂNG.
Transcatheter oily chemoembolization of the inferior phrenic artery in
hepatocellular carcinoma: the safety and potential therapeutic role
Chung JW, Park JH, Han JK, Choi BI, Kim TK, Han MC.
Department of Radiology, Seoul National University College of Medicine ,
Korea.
Mục đích : đánh giá hiệu quả và sự an toàn của liệu pháp TOCE qua động mạch
dưới hoành (IPA) trong HCC. Đối tượng và phương pháp: 50 bệnh nhân bị HCC
trãi qua tổng cộng 82 đợt điều trị bằng TOCE qua IPA và động mạch gan. Trong
16 bệnh nhân, những nhánh phụ ngoài gan được mộ tả và cũng được làm thuyên
tắc trên 10 bệnh nhân. TOCE được thực hiện với một thể sữa gồm iodized và
doxorubicin hydrochloride và sự thuyên tắc với một ít chất gel được làm thêm trên
32 bệnh nhân. Kết quả: đáp ứng tức thời cho thấy sự thuyên giảm hoàn toàn hay
một phần của khối u trong 31 bệnh nhân. Tỉ lệ sống còn tích lũy sau khi kết hợp
TOCE động mạch gan, IPA và những động mạch ngoài gan khác là 89% (6 tháng),
78% (1 năm), 46% (2 năm) và 30% (3 năm) tính từ thời điểm thuyên tắc hoá học

IPA. Ap xe gan và viêm màng phổi mủ phát triển trong một trường hợp thuyên tắc
hoá học IPA và nhiều động mạch liên sườn. Không có biến chứng trầm trọng sau
thuyên tắc hoá học IPA đơn thuần. Kết luận: TOCE của IPA đóng vai trò trị liệu
có tiềm năng như một phụ tá an toàn cho TOCE động mạch gan trong việc kiểm
soát khối HCC được nuôi bằng IPA.
6. VỠ KHỐI HCC LÀ MỘT BIẾN CHỨNG CỦA TOCE
Ruptured hepatocellular carcinoma as a complication of transarterial oily
chemoembolization
Liu CL, Ngan H, Lo CM, Fan ST.
Department of surgery, The University of Hong Kong, Queen Mary Hospital,
Hong Kong.
Quang cảnh: TOCE thường được dùng như một phương pháp điều trị HCC không
phẩu thuật. Biến chứng nặng của TOCE được biết rõ nhưng vỡ khối HCC là một
biến chứng tồi tệ chưa được báo cáo trước đây. Phương pháp : một nghiên cứu hồi
cứu được thực hiện trên tất cả bệnh nhân làm TOCE để điều trị HCC từ tháng 1/
89 đến tháng 10/96, biến chứng vỡ HCC trong vòng 2 tuần kể từ đợt điều trị được
ghi nhận. Kết quả : trong thời gian ngiên cứu, 391 bệnh nhân có tổng cộng 1443
lần làm TOCE ( trung bình 3,7 lần trên một bệnh nhân) để điều trị HCC, sự sống
còn trung bình chung cho cả nhóm là 10,4 tháng. Có 6 bệnh nhân bị vỡ khối u
trong vòng 2 tuần sau khi làm TOCE, cho kết quả tỉ lệ biến chứng là 1,5% trên số
bệnh nhân và 0,4% trên số đợt điều trị. Trừ 1 bệnh nhân, tất cả đều chết trong
vòng 1 à 25 ngày sau khi vỡ khối u. Những yếu tố phổ biến trên 6 bệnh nhân này
bao gồm (1) phái nam (2) kích thước khối u lớn (8 à 17cm đường kính ) (3) u ở
thùy phải của gan (4) u vỡ sau đợt điều trị đầu tiên (5) TOCE được thực hiện như
một điều trị đầu tiên mà không cần cắt bỏ gan trước đó. Kết luận : HCC vỡ là một
biến chứng trầm trong của TOCE mặc dù tần suất thấp. Nó xãy ra nhiều ở nam sau
lần điều trị đầu tiên của TOCE cho khôi u không thể cắt bỏ ở thùy phải.
7. HIỆU QUẢ CHỐNG LẠI KHỐI U CỦA PHƯƠNG PHÁP TOCE TRÊN
HCC ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ BẰNG CT: VAI TRÒ CỦA IODIZED OIL.
Antitumor effect of transcatheter oily chemoembolization for hepatocellular

carcinoma assessed by computed tomography: role of iodized oil
Oi H, Kishimoto H, Masushita M, Katsushima S, Tateishi H, Okamura J.
Department of Radiology, Osaka Teishin Hospital , Tennoji – ku, Japan .
Hiệu lực của TOCE được đánh giá bằng CT hơn 6 tháng sau khi làm TOCE trên
82 bệnh nhân có khối u HCC không cắt được. Doxorubicin trong thể sữa của dầu
(DOE) được dùng cho 42 trường hợp và Epirubicin trong thể sữa của dầu (EOE)
được dùng cho 40 trường hợp. Không có sự khác biệt có ý nghĩa được tìm thấy
trên những đặc điểm cơ bản của bệnh nhân giữa nhóm điều trị bằng DOE và nhóm
điều trị bằng EOE. Sự thoái triển của khối u hơn 50% trên tích số hai chiều được
nhìn thấy trong 26 trường hợp dùng DOE và 25 trường hợp dùng EOE 1 năm hay
hơn sau khi làm TOCE. Không có sự khác biệt về hiệu quả chống khối u được
quan sát thấy giữa DOE và EOE, mặc dù một liều vừ đủ tính trên thể tích khối u
đã được yêu cầu để chứng tỏ hiệu quả chống khối u HCC.
8. UNG THƯ TẾ BÀO GAN NGUYÊN PHÁT: HIỆU QUẢ CỦA TOCE
TRONG SỰ LIÊN HỆ VỚI NHŨNG HÌNH ẢNH VĨ MÔ VÀ VI MÔ CỦA
SỰ TĂNG TRƯỞNG KHỐI U TRÊN 100 BỆNH NHÂN BỊ CẮT GAN MỘT
PHẦN.
hepatocellular carcinoma : efficacy of transcatheter oily chemoembolization in
relation to macroscopic and microscopic patterns of tumor growth among 100
patients with partial hepatectomy
Hashimoto T, Nakamura H, et al.
Department of Radiology, Osaka University Medical School, Japan.
Mục đích: Đánh giá hiệu quả của TOCE đối với HCC trên cơ sở những dấu hiệu
về vi thể và đại thể sau thuyên tắc mạch . Phương pháp: Các khối HCC có kích
thước từ 0,5 à 13 cm ( trung bình là 3,6cm) được xác định từ việc mổ cắt một phần
gan của 100 bệnh nhân đã trãi qua TOCE từ 20 đến 246 ngày trước phẩu thuật (
trung bình là 59,5 ngày). Hiệu quả của TOCE được đánh giá trên cơ sở tỉ lệ tế bào
gan bị hoại tử của khối u. Hình ảnh vi thể của sự tăng trưởng khối u được phân
nhóm theo dạng phình ra ( còn nguyên vỏ bọc) và dạng chiếm chỗ ( vỏ bọc không
còn nguyên hoặc không có vỏ bọc). Có năm dạng chia theo đại thể: nốt đơn độc,

nốt đơn độc với sự tăng trưởng ngoài nốt ( SNE: single nodule with extranodular
growth), nhiều nốt kế cận hoặc không kế cận, và dạng tăng trưởng thành khối lớn.
Kết quả trong 79 trường hợp dạng phình ra, 29 trường hợp (37%) có hoại tử khối u
100%, nhưng không có hoại tử 100% trong dạng chiếm chỗ. Đối với nhóm theo
đại thể, hiệu quả của TOCE giảm từ dạng nốt đơn độc ( 50% bệnh nhân có hoại tử
100%) đến dạng SNE (21%), và những dạng khác (9%). Kết luận: TOCE tỏ ra
hiệu quả nhất đối với khối HCC dạng tăng trưởng phình ra và nốt đơn độc. Hiệu
quả kém với dạng tăng trưởng chiếm chỗ và nhiều nốt hoặc tăng trưởng thành khối
lớn.
9. THUYÊN TẮC MẠCH HOÁ HỌC CỬA ĐỘNG MẠCH PHÂN THUỲ
TRONG UNG THƯ TẾ BÀO GAN NGUYÊN PHÁT (LIỆU PHÁP TRÁM
XI MĂNG)
Segmental arterio- portal chemo-embolization in hepatocellular carcinoma
(cement therapy)
Oi H,Yamamoto T, Sawai Y, Fujino M, Okamura J, Nakamura H.
Dept. of Radiology, Osaka Teishin Hospital.
Khi một số lớn dầu iodized ( LPD) được áp dụng chọn lọc cho phân thuỳ mục tiêu
của gan, mạch máu của khối u và những huyết quản nhỏ li ti xung quanh khối u
chứa đầy LPD, sau đó trào ngược LPD thừa qua sự thông nối cửa động mạch vào
những nhánh cửa xung quanh khối u. Sự thuyên tắc hoá học cửa động mạch phân
thuỳ trong HCC với Doxorubicin -in -oil emulsion (DOE), chúng tôi gọi là liệu
pháp trám xi măng, được thực hiện trên 18 bệnh nhân HCC. DOE được cho chọn
lọc vào một phân thùy trên mười bệnh nhân, hai phân thùy trên bảy bệnh nhân, ba
phân thuỳ trên một bệnh nhân. Chụp cắt lớp điện toán và siêu âm theo sau liệu
pháp trám xi măng cho thấy tỉ lệ đáp ứng chung là 39%. Tỉ lệ sống còn tích lũy
một năm là 80%, và ba năm là 33%. Ba trường hợp trãi qua cắt gan một phần và
những mẫu gan này cho thấy sự hoại tử toàn bộ của khối u chính và tất cả những
nốt con, theo sau là sự nhồi máu chủ mô gan với nhiều mức độ khác nhau. Liệu
pháp trám xi măng này thực hiện sự thuyên tắc hoá học đồng thời qua động mạch
và tĩnh mạch cửa, và được cho là sự điều trị hiệu quả cho sự xâm lấn ra ngoài vỏ

bao và những nốt con của HCC được nuôi dưỡng bởi máu tĩnh mạch cửa. Việc cho
giới hạn DOE đến những phân thuỳ mục tiêu làm cho sự thuyên tắc hoá học bằng
dầu qua động mạch có thể thực hiện được mà không có nhũng tác dụng phụ trầm
trọng.

×