Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

MỘT vài nét ĐÁNH GIÁ về cây NGHỆ và tác DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.68 KB, 13 trang )

MỘT VÀI NÉT ĐÁNH GIÁ VỀ CÂY NGHỆ VÀ TÁC DỤNG
Cây nghệ vàng (Curcuma longa Linn.), một loại cây lâu năm thuộc họ
Gừng (Zingiberaceae) và được trồng trọt ở một số nước Châu Á. Thân rễ của cây,
được xem như là rễ của loài cây này, là phần hữu dụng nhất và được dùng như
chất gia vị hàng ngày trong vài thế kỉ qua. Nó cũng được dùng bằng cả đường
uống và dạng thuốc mỡ bôi da để trị nhiều dạng rối loạn khác nhau. Nó được sử
dụng rộng rãi trong nền y học cổ truyền Ấn Độ Ayurvedic để trị các rối loạn về
gan, chứng biếng ăn, ho, các vết thương do tiểu đường, viêm khớp dạng thấp và
viêm xoang. Các bản thảo cổ của y học Ấn Độ đã miêu tả các ứng dụng của nghệ
trong các bệnh về viêm, trị lành vết thương.
Sangli, một thị trấn ở phía nam của bang Maharashtra, Ấn Độ, là trung tâm
thương mại lớn nhất và quan trọng nhất đối với nghệ ở châu Á và trên Thế giới.
Trong 2-3 năm gần đây, nhu cầu sử dụng curcumin trên thế giới ngày càng tăng
cao một phần do đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu tác dụng từ
curcumin có hiệu quả cao trong phòng và ức chế sự phát triển của một số bệnh về
ung thư dạ dày, ung thư da, ung thư máu và đặc biệt là curcumin có tính oxy hoá
mạnh và có khả năng làm giảm thiểu tác động của bệnh Alzeimer. Trong y học
hiện đại ngày nay curcumin đang được coi là thuốc chống ung thư thế hệ thứ 3.
Một phần lớn do hạn hán, lũ lụt xảy ra liên miên tại một số vùng trồng nghệ lớn
như Ấn độ, Trung Quốc, Myanma và Thái lan nên sản lượng nghệ trên thế giới bị
suy giảm dẫn tới giá nghệ và curcumin 95% trên thế giới nhảy vọt. Giá nghệ thô ở
Trung quốc năm 2008 có giá từ 60-80NDT/kg nhưng đến cuối năm 2010 giá nghệ
thô là 120.000NDT/kg.
Nghệ vàng có tên khoa học: Curcuma longa Linn. - phân lớp một lá mầm
(Monocotyledoneae) - thuộc họ Gừng (Zingiberaceae) - Chi nghệ (Curcuma)
Nghệ là một cây có nguồn gốc nhiệt đới xuất xứ từ Ấn độ sau này được
phát tán ra một số nước châu Á và Đông Nam Á. Rễ củ nghệ, nhiều thế kỷ trước
đã đựơc sử dụng làm thuốc chống viêm và được sử dụng như một gia vị, hương
thơm, chất bảo quản và chất màu. Các thành phần hoạt chất chính trong củ nghệ là
1
chất Curcumin; curcumin methoxy (Demethoxy curcumin); curcumin dimethoxy


(Bidemethoxycnrcumin) Ba thành phần này gọi chung là curcumin
(curcuminoids). Curcumin là các hợp chất polyphenolic, tên hóa học bis (4-
hydrioxy-3-methoxy-phenyl) -1,6-diene-3 ,5-Dione, tinh thể có màu da cam.
1. Nghiên cứu về tác dụng làm thuốc từ nghệ:
1.1. Nghiên cứu ngoài nước
Sau một thời gian dài được sử dụng trong nền y học cổ Ayurvedic, khoa học hiện
đại đã khám phá ra những ích lợi của Curcumin lên một số bệnh khác nhau.
Curcumin được chứng minh có tác dụng kháng ung thư nhờ khả năng ức chế sự
biến đổi, hình thành khối u, phát triển khối u, xâm nhập, hình thành mạch máu, và
sự di căn. Nó cũng được chứng minh có tác dụng và phụ thuộc vào liều lượng giúp
ngăn cản về mặt hóa học đối với các chất tạo ung thư ruột kết, tá tràng, dạ dày,
thực quản và miệng. Người Ấn Độ hay dùng Nghệ để chế biến thức ăn nên ít bị
ung thư ruột kết. Ngoài ra, Curcumin còn có tác dụng chống lại chứng xơ vữa
động mạch và nhồi máu cơ tim. Curcumin cũng có thể làm giảm đường huyết và
mức HbA1c trên những mẫu chuột bị gây tiểu đường type 2. Curcumin làm giảm
các phá hủy oxy hóa, viêm, thiếu hụt chức năng nhận thức, và sự tích lũy amyloid
ở những bệnh nhân Alzheimer. Ngoài ra, Curcumin còn có tác động bảo vệ trong
bệnh xơ hoá nang, chống lại các virus gây suy giảm chức năng miễn dịch và bệnh
gan do uống nhiều rượu.
Việc điều trị với curcumin ở nhóm động vật đang điều trị vết thương giúp
sản xuất một lượng lớn macrophages, neutrophils và các nguyên bào sợi so với
nhóm không được điều trị. Việc điều trị dẫn đến việc tăng cường sản xuất
fibronectin và collagen bởi fibroblast và tăng tỉ lệ hình thành các mô, cho thấy
hiệu quả tăng cường điều trị vết thương. Curcumin còn được nhận thấy có tác
dụng điều chỉnh sự hình thành các mạch máu và việc hình thành các mạch máu
không kiểm soát được có liên quan đến một số trạng thái bệnh như sự phát triển
của khối u và sự di căn, viêm khớp dạng thấp, bệnh thận do tiểu đường và các u
2
mỡ. Curcumin cũng có tác dụng chống oxy hóa mạnh so với vitamin C và E.
Stress oxy hóa đóng vai trò chủ chốt trong nguyên nhân gây ra một số bệnh như

chứng thiếu máu cục bộ cơ tim, thiếu máu não, xuất huyết, shock, thiếu oxy máu
và ung thư. Trên các nhóm có vết thương xuất huyết, điều trị trước với curcumin
cho thấy giảm rõ rệt các enzyme gan, aspartate transaminase, và cytokines gan, IL-
1α, IL-1β, IL-2, IL-6, và IL-10. Có lẽ tác động quan trọng nhất của Curcumin là
khả năng chống viêm. Chỉ một vài nghiên cứu lâm sàng báo cáo tác dụng của việc
sử dụng Curcumin trong các bệnh viện. Tuy nhiên, Curcumin được biết có khả
năng chống viêm trên các động vật thí nghiệm. Và gần đây cũng chứng minh được
Curcumin có hiệu quả trong điều trị nhiễm trùng. Các chuột đực Sprague Dawley
được tiêm tĩnh mạch 0.2 µmol curcumin, tiếp theo là tiêm truyền liên tục 0.24
μmol/ngày trong 3 ngày thông qua một bơm alzet 2 mL. Sau đó, chuột được chủ
động gây nhiễm trùng bằng việc buộc thắt manh tràng và đâm chích (CLP). Hai
mươi giờ sau CLP, chuột bị giết , mẫu máu và mô được thu thập lại. Các mẫu máu
được phân tích về các tác nhân gây tổn thương mô, alanine aminotransferase,
aspartate aminotransferase, lactate, và TNF-α. Đúng như dự kiến, nhiễm trùng làm
tăng 2 đến 3 lần hàm lượng của những chất đánh dấu tổn thương này trong máu
tuần hoàn. Điều trị trước với Curcumin giúp làm giảm đáng kể hàm lượng của
những chất này. Kết quả tương tự được thấy ở nhóm được sử dụng Curcumin 5
giờ sau khi bắt đầu gây nhiễm trùng.
Trong một nghiên cứu khác trên động vật, một nghiên cứu kéo dài 10 ngày
được thực hiện sau khi gây CLP trên động vật được điều trị trước với curcumin
trong 3 ngày. Nhiễm trùng gây chết 56-69% chuột, trong khi điều trị trước với
chuột giúp 100% chuột sống sót sau thời gian 10 ngày quan sát. Do đó, chúng ta
đã chứng minh được tác động chống viêm của Curcumin trong các mẫu động vật
thí nghiệm gây viêm.
* Các nghiên cứu tương lai và triển vọng:
Nhấn mạnh tầm quan trọng của curcumin như một hợp chất kháng viêm.
Chứng minh được hiệu quả tích cực của curcumin trong nhiễm trùng do tác động
3
tăng điều hòa PPAR-γ, dẫn đến giảm các cytokine gây viêm, sự phóng thích và thể
hiện của TNF-α. Các nghiên cứu trên cả các ligands tự nhiên và tổng hợp của

PPAR-γ trên sự nhiễm trùng của các vi sinh vật đa bào cũng được xem xét. Tác
động gây chết tự động (apoptosis) và các cơ chế tiềm năng cũng được thảo luận.
Trong tương lai, chúng ta sẽ xem xét kĩ hơn cơ chế tăng điều hòa PPAR-γ
gây ra bởi curcumin, dẫn đến sự giảm phóng thích TNF-α. Câu hỏi chính cần trả
lời là tác động kháng viêm của curcumin là trực tiếp hay gián tiếp. Câu hỏi tiếp
theo là liệu chính curcumin hay các chất chuyển hóa của nó là thành phần hoạt
tính có tác dụng chống viêm.
*Tác dụng dược lý khác của curcumin
1. Thuốc Rheumatism thành phần chủ yếu là curcumin có tác dụng giảm đau
khớp, bao gồm cả cổ và đau cánh tay, vai viêm khớp, vết bầm tím, đau, kinh
nguyệt đau bụng v.v…
2. Curcumin có khả năng nắm bắt các gốc tự do và giảm nguy cơ của bệnh: (ROS,
đặc biệt là các gốc OH), (2) trực tiếp ức chế các enzym, các gốc tự do, chẳng hạn
như arachidonate- enzyme (cyclo-oxygenase, lipoxygenase) và XO (xanthine
oxidase) và gián tiếp làm giảm việc sản xuất các gốc tự do. Giảm nguy cơ gây
bệnh cho sức khỏe con người.
3. Một chức năng chống oxy hóa: Theo Tạp chí của Mỹ curcumin 4 ức chế Fe2 +,
Cu2+ Gây ra peoroxy hóa lipid, ức chế sự biến đổi oxy hóa của các tế bào
lipoprotein mật độ thấp và bảo vệ DNA. Vai trò của thương tích peoroxy hóa lipid.
Curcumin có thể có tác dụng chúng chống oxy hóa cao hơn vitamin C và vitamin
E, curcumin chất chống oxy hóa cao 1,60 lần, với vitamin E là 2,33 lần và vitamin
C là 2,57lần
4. Curcumin có khả năng làm giảm cholesterol.: Soni và Kuttan theo một báo cáo
vào năm 1992 mô tả curcumin có thể làm giảm Cholesterol 11,6%, và tăng HDL
(cholesterol tốt) 29%, và ức chế tiểu cầu. Tập hợp và hiệu lực chống atherogenic
khác, cũng có thể làm tăng huyết động mạch vành (để điều trị đau thắt ngực), góp
phần phòng chống các bệnh tim mạch.
4
5. Có ảnh hưởng của sức khỏe đường tiêu hóa, làm giảm bệnh loét dạ dày mãn
tính liên quan: Loét dạ dày thường xảy ra ở phần bờ cong nhỏ ở dạ dày, loét các

bộ phận khác đường tiêu hóa làm niêm mạc dạ dày bị ăn mòn và sưng niêm mạc.
Theo nghiên cứu Song et al curcumin cảm ứng phụ dạ dày- Mucin (Mucin), bảo
vệ niêm mạc dạ dày khỏi bị tổn thương, đặc biệt là loét dạ dày mãn tính.
6. Curcumin ức chế các độc tố môi trường như bức xạ tia cực tím có thể gây ra đột
biến trong gen của con người, chủ yếu là do ánh sáng cực tím làm cho quá trình
sản xuất SOS (umu C) gây ra một lỗi thông tin di truyền, curcumin có thể ức chế
umu.
7. chức năng chống ung thư.: Curcumin có thể chống ung thư, đã có hơn một chục
báo cáo nghiên cứu rằng curcumin có thể ức chế ung thư, đặc biệt là ung thư da.
Làm giảm tỷ lệ động vật bị mắc ung thư da sau khi sử dụng curcumin thường
xuyên. Năm 1988, Huang và Conney, người đầu tiên phát hiện ra curcumin có thể
ức chế ung thư da của động vật, tiếp theo là gần 1.300 báo cáo tiếp tục chỉ ra rằng
curcumin có tác dụng tới sức khỏe con người. với cơ chế chống ung thư.
*Sử dụng truyền thống và hiện đại của Curcuma longa
Tại Ấn Độ, Curcuma longa đã được sử dụng như là một thành phần ẩm
thực từ 3000 TCN. Nó được sử dụng như một chất màu thực phẩm cho cà ri và
như một chất bảo quản cho thực phẩm. Như một loại thuốc được sử dụng để điều
trị nhiều loại bệnh như đau dạ dày, vấn đề về da, các vấn đề cơ bắp và viêm khớp.
Curcuma longa cũng đã được sử dụng như một thuốc nhuộm quần áo và như là
một mỹ phẩm. Người Ấn Độ trung bình tiêu thụ từ 80 đến 200 mg nghệ bột mỗi
ngày, hàng năm có khoảng 480.000 tấn bột nghệ được tiêu thụ ở nước này.
Tại Trung Quốc nó đã được sử dụng như một loại thuốc để giảm đau, đau
bụng, viêm gan và đau ngực.
Ở châu Âu nghệ được sử dụng trong nhiều loại thực phẩm như màu trong
mù tạt, phô mai, bơ thực vật, đồ uống và bánh ngọt.
Trước đây nghệ đã được sử dụng cho bệnh khó tiêu, viêm màng bồ đào
trước mãn tính và vi khuẩn Helicobacter pylori. Curcumin được công nhận là an
5
toàn bởi FDA của Hoa Kỳ ở dạng viên nang là một thực phẩm bổ sung sức khỏe
và là gia vị ẩm thực.

Y học cổ truyền Trung Quốc cho rằng nghệ là loại dược liệu ăn được và
không độc với cơ thể con người ngoài ra còn có tác dụng giảm đau. Thành phần
chính là curcumin. Phần lớn các loại thuốc từ nghệ được sản xuất tại Nhật bản, Mỹ
và châu Phi. Ở Trung Quốc chủ yếu ở tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông Và Quảng Tây
.
Theo y học truyền thống Trung Quốc, thành phần chính chiết xuất từ củ
nghệ là curcumin, đây là một chất chống oxy hóa mạnh, có tác dụng chống viêm,
chống oxy hóa, chống ung thư, cholesterol máu cao và chống xơ vữa động mạch,
chống virus, và các hiệu ứng khác. Một số nghiên cứu khẳng định rằng curcumin
có hoạt động chống oxy hóa rất quan trọng.trên não, tim, gan, thận, lá lách và các
cơ quan quan trọng khác Các tác dụng kháng viêm có thể bị chặn, trì hoãn quá
trình bệnh lý của tổn thương gan.
Nghiên cứu của Mỹ cho thấy curcumin thử nghiệm trên động vật có tác dụng
ngăn ngừa và giảm thiểu đáng kể tác động của bệnh Alzheimer. Viện Ung thư
Quốc gia Hoa Kỳ đã liệt kê curcumin như là một loại thuốc thế hệ thứ ba
chemopreventive ung thư. Curcumin ức chế sự tạo mạch tế bào khối u chính và
phân chia tế bào khối u nội mô giá trị gia tăng, chống ung thư hiệu quả. Ngoài ra
bên ngoài nghệ, cà ri, mù tạt là cũng giàu chất curcumin.
2. Nghiên cứu trong nước:
GS - TSKH Lê Thế Trung là người để tâm nhiều đến việc nghiên cứu cây
nghệ vàng và cũng chính ông đã gợi ý cho TS Phạm Đình Tỵ và nhóm nghiên cứu
tập trung khai thác cây nghệ vàng. Bắt đầu từ nǎm 1990 nhưng đến nǎm 1998,
công trình nghiên cứu "Chiết xuất hoạt chất Curcumin từ nghệ vàng" của TS Phạm
Đình Tỵ và nhóm nghiên cứu mới được nghiệm thu với đánh giá cao của các nhà
chuyên môn. Tuy vậy, các nhà khoa học cũng gặp nhiều khó khǎn trong việc thực
hiện tách curcumin trong điều kiện không phải xí nghiệp dược liệu nào trong nước
6
cũng đủ hiểu biết và dám làm. Hơn thế, phải nghiên cứu để có một dây chuyền lắp
ráp phù hợp với điều kiện hiện nay cho ra một chế phẩm có giá thành vừa phải
Theo số liệu nghiên cứu củ nghệ vàng là 1 trong 14 loại nghệ được tìm thấy

và rất sẵn có ở VN. Nhưng trong nghệ bao gồm các tạp chất khác nhau mà
Curcumin chỉ chiếm một phần rất nhỏ là 0,3%. Trong dân gian, người ta đã từng
nghiền bột nghệ làm thực phẩm và thuốc chữa bệnh dạ dày. Nhóm nghiên cứu của
TS Phạm Đình Tỵ đã tạo ra 2 chế phẩmTNV-999 và TNV-999-AC gọi chung là
bột đường tinh nghệ chứa Curcumin độ tinh khiết 92,5%. Phối hợp với Học viện
quân y, nhóm nghiên cứu đã thử thành công độ an toàn và hiệu lực của Curcumin.
Bột đường tinh nghệ đã được đăng ký chất lượng tại Sở y tế HN làm thực phẩm
chữa bệnh. Bước đầu đã có nhiều bệnh nhân bị ung thư, bị mắc bệnh viêm đại
tràng, dạ dày, thiểu nǎng gan, mật ǎn tinh bột nghệ này có chuyển biến tích cực rất
rõ rệt. Một số người sau khi điều trị bằng tinh nghệ, khối u ác tính đã bị thu hẹp,
thể trạng tốt hơn
Tuy nhiên, theo ý kiến của GS-TSKH Lê Thế Trung thì, chế phẩm trên mới
chỉ là thực phẩm chữa bệnh. Giai đoạn tiếp theo, các nhà khoa học cần phải nghiên
cứu để tách Curcumin nguyên chất, và bào chế thành thuốc với chỉ định liều lượng
hợp lý để trị bệnh. Muốn vậy, trước mắt phải trải qua giai đoạn thử nghiệm lâm
sàng hoạt chất này. Tuy nhiên thành công bước đầu cũng mở ra một hy vọng mới.
Theo nghiên cứu được công bố từ TS dược Trần Hữu Thị - Viện dược liệu
đã có những nghiên cứu về cây nghệ vàng và đã rút ra những kết luận:
1. Cây Nghệ vàng Curcuma longa của Việt Nam đều có Curcuminoid, hàm lượng
hoạt chất Curcuminoit trong “củ” của cây Nghệ hoang dại thấp hơn hàm lượng
Curcuminoid trong “củ” cây Nghệ trồng trọt ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam xác định định tính, định
lượng hoạt chất Curcuminoid ở cây Nghệ vàng hoang dại và cây Nghệ vàng trồng
trọt. “Củ” cây Nghệ trồng trọt rất thuận lợi dùng làm nguyên liệu cho công nghệ
sản xuất Curcuminoit. Trong Curcuminoit chiết xuất từ “củ” cây Nghệ vàng trồng
7
ở đồng bằng sông Hồng đều có mặt của 3 chất Curcumin, Demethoxycurcumin, và
Bisdemethoxycurcumin.
2. Nhiều công trình nghiên cứu tác dụng sinh học cũng như dược khả dụng đối với
Curcumin (hoặc Turmeric), thực chất là của Curcuminoit, nghĩa là của hỗn hợp 3

chất Curcumin, Demethoxycurcumin, và Bisdemethoxycurcumin.Vậy tác dụng
sinh học, dược khả dụng của riêng rẽ từng chất có tương đồng với Curcuminoit
hay không? Đã có công trình nghiên cứu về mức độ antioxydant của Curcumin >
Demethoxycurcumin > Bisdemethoxycurrcumin. Tác dụng chống Alzheimer của
Nghệ hay là của Curcuminnoit là do chỉ có Bisdemethoxycurrcumin mang lại
Do vậy nói đến các tác dụng của Nghệ nói chung và của “Curcumin” -
Curcuminnoit nói riêng, thì trong sản phẩm phải có đầy đủ 3 chất Curcumin,
Demethoxycurcumin, và Bisdemethoxycurcumin với tỷ lệ các chất đó tự nhiên đã
có. Điều đó là tiêu chí khi sản xuất Curcuminoit, làm sao chiết kiệt và không để
mất một chất nào trong 3 chất đó.
3. Ngoài nhóm hoạt chất Curcuminoit, cần nghiên cứu các nhóm hoạt chất khác
nữa, vì trong “củ” nghệ còn có một số nhóm hoạt chất có hoạt tính sinh học quý
giá, như Ukon A, B, C… đặc biệt là Turmerin – một loại peptit tan trong nước, có
tác dụng chống oxy hóa ở mức vi lượng, mạnh hơn Curcuminoit nhiều lần, người
ta cho rằng đó là chất bảo quản thực phẩm của tương lai.
Vị thuốc Nghệ vàng có trong nhiều bài thuốc Y học cổ truyền. Theo ‘’Cây
thuốc và Động vật làm thuốc ở Việt Nam’’, Nghệ vàng được sử dụng chủ yếu để
chữa các bệnh về trúng phong, bại liệt hoặc liên quan đến chống viêm nhiễm, bổ
máu. Một số bài thuốc tiêu biểu được áp dụng phổ biến trong dân gian như sau:
chữa trúng phong, bại liệt một bên, chữa chứng trong bụng tích thành cục hoặc do
đờm tích hay huyết tụ, chữa đái ra máu…
Ở nước ta đã có tới 40 sản phẩm thuốc, mỹ phẩm được sản xuất có sử
dụng tinh chất và bột từ củ nghệ như: các sản phẩm được sản xuất từ nghệ vàng do
XN Dược phẩm 26, Công ty XNK Y tế Đồng Tháp, Công ty Dịch vụ Y tế tổng
hợp Q4 chủ yếu là những bài thuốc chữa dạ dày, bao tử dạng bột nghệ và cao
8
mật ong nghệ tuy nhiên phần lớn các loại thuốc đều chưa có tính công nghiệp cao
là sử dụng triệt để tinh chất Curcumin từ củ nghệ.
Viện Dược liệu đã có những nghiên cứu chiết xuất được tinh chất Curcumin trong
Nghệ vàng và đã có những sản phẩm thực phẩm chức năng và thuốc thành phần

chính là curcumin hiện đang được thị trường rất ưa chuộng và đánh giá cao về
hiệu quả phòng trị bệnh.
2. Nghiên cứu về trồng trọt nghệ vàng:
2.1. Trên thế giới:
Cây nghệ vàng có nguồn gốc từ Ấn độ và là cây ưa khí hậu nhiệt đới nên
vùng trồng nghệ chủ yếu tập trung ở một số nước châu Á như: Ấn Độ, Trung
Quốc, Myanma, Syrilanca, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam… Ấn Độ và Trung
quốc là 2 nước có diện tích và sản lượng nghệ vàng lớn nhất thế giới. Với diện tích
trồng nghệ 1,49 triệu ha sản lượng hàng năm 5,7 triệu tấn, Ấn Độ cung ứng
600.000 tấn bột nghệ chiếm 75% sản lượng bột nghệ trên thế giới. Có 42 loài
curcuma được sử dụng trong trồng trọt ở Ấn độ nhưng loài được trồng nhiều nhất
là loài nghệ vàng Curcuma longa L Đây là loài nghệ mà trong rễ củ có hàm
lượng curcumin cao nhất. Vùng sản xuất nghệ lớn nhất ở Ấn Độ Là bang Andhara
Pradesh với diện tích trồng 56,000ha và đây cũng là khu thương mại lớn nhất ở
châu Á và Thế giới về nghệ.
Những nghiên cứu về trồng trọt ở Ấn độ cho thấy nghệ vàng có thể trồng ở
rất nhiều vùng đất khác nhau, tuy nhiên loại đất thích hợp nhất cho cây nghệ vàng
sinh trưởng và phát triển là đất sét pha cát, pH 5-7,5, tầng canh tác dầy 150cm,
nhiệt độ trung bình 20 – 30 0C, thâm canh cao, năng suất củ tươi đạt 30-33tấn/ha.
Hàm lượng curcumin cao hay thấp phụ thuộc vào giống và cách sử dụng NPK,
hàm lượng dao động 2,5%-8,1%.
Theo Viện nghiên cứu cây gia vị và hương liệu của Ấn độ công bố bằng
phương pháp chọn giống đã chọn ra 2 giống nghệ vàng “IISR Kedaram”
(Acc.126) và “IISR Alleppey Spreme” (Acc.585) có năng suất và hàm lượng
9
curcumin cao. Giống “IISR Kedaram” có thời gian sinh trưởng 215 ngày năng suất
đạt 5,28 tấn khô/ha và năng suất curcumin đạt 301.10kg/ha, còn giống “IISR
Alleppey Spreme” có thời gian sinh trưởng là 220 ngày cho năng suất 5,58 tấn củ
khô/ha và năng suất curcumin đạt 309.69kg/ha.
Ở Trung Quốc cây nghệ vàng cũng được nghiên cứu về kỹ thuật canh tác

rất chặt chẽ nhất nhất là trong việc bón phân và kỹ thuật trồng. Thường nghệ được
trồng vào cuối tháng 3 và trồng chủ yếu ở các tỉnh phía nam và đông nam của
Trung quốc như Quảng tây, Quảng đông, Chiết giang, Tứ xuyên…và trồng trên
đất sét pha cát, tầng canh tác dầy 25cm đất thoát nước tốt, khí hậu ẩm và có nhiều
nắng. Lượng nghệ giống 1.100kg -2.000kg/ha, đào lỗ sâu từ 6-8cm, khoảng cách
trồng 33x40cm và 27x 33cm trồng so le, thường trồng 2-3 củ/1lỗ. Giai đoạn 4-5
tháng sau trồng bón N và P để thúc đẩy quá trình phát triển của chồi và rễ mới
hình thành, tuy nhiên lượng N bị kiểm soát rất nghiêm ngặt. Đến khi cây được 7-8
tháng bón bổ sung P, K và tro bếp đặc biệt sử dụng phân Dyhydrogen phosphat
kali với lượng 20kg/mẫu Anh và các loại phân hỗn hợp NPK với lượng
2.000kg/ha. Sâu bệnh hại nghệ vàng chủ yếu là ấu trùng hại rễ và bệnh thối rễ, sử
lý thuốc trộn với đất để rắc trên mặt luống và phun thuốc phòng trừ bệnh. Năng
suất trung bình ở Trung Quốc đạt 27-30tấn/ha.
Ở Mỹ, nghệ vàng được trồng nhiều ở bang Florida và được trồng vào tháng 4 –
tháng 5 hàng năm, đào hố sâu 10cm và sử dụng màng phủ nilong để trồng trọt
nhằm hạn chế cỏ dại và thoát hơi nước. Phân bón chủ yếu sử dụng để trồng nghệ
là phân hỗn hợp NPK cân đối loại 15:15:15 và 16:16:16, hạn chế sử dụng N, trước
khi trồng có bổ sung than bùn. Các nhà chọn giống của Mỹ đã lai tạo và chọn ra
rất nhiều giống nghệ chịu rét, mà phần lớn là lấy các giống nghệ có những đặc
điểm nổi trội về năng suất, hàm lượng curcumin và tính chống chịu cao với điều
kiện bất thuận ở một số vùng trồng nghệ nổi tiếng trên thế giới như Ấn Độ, Thái
Lan, Myanma… làm bố mẹ và đã lai tạo thành công một số giống nghệ chịu được
lạnh từ âm 8-100C dưới băng tuyết. Thường những giống nghệ này có bộ lá rất to
và dài, lá có màu xanh thẫm và được trồng rất sâu dưới mặt đất (8-10cm).
10
Những nghiên cứu mới nhất của trường đại học nông nghiệp Nhật bản về
các loại đất và độ sâu trồng nghệ vàng thích hợp nhằm cho năng suất và hàm
lượng curcumin cao. Kết quả cho thấy trong 3 loại đất đỏ sẫm (pH 5.2), đất xám
(pH 7,4), và đất đỏ (pH 4.4) được sử dụng làmthí nghiệm thì thấy rằng loại đất đỏ
sẫm với pH 5.2 cho năng suất curcumin, protein, lipid cao nhất so với các loại đất

xám và đất đỏ. Độ sâu trồng nghệ cũng được chứng minh có ảnh hưởng khá nhiều
tới năng suất nghệ vàng. Thí nghiệm được tiến hành với 4 thí nghiệm về độ sâu
của hốc trồng nghệ: 4cm, 8cm, 12cm, 16cm. Sau trồng 50-60 ngày gần như không
có sự sai khác nào về tốc độ sinh trưởng giữa các độ sâu của hốc trồng tuy nhiên
sau trồng 90-140 ngày có sự thay đổi rõ rệt về tốc độ tăng trưởng giữa các công
thức. Công thức trồng độ sâu hốc 4cm cây sinh trưởng và phát triển kém nhất do
cây dễ bị đổ ngã khi gặp mưa và gió lớn. Các công thức còn laị có kết quả gần
giống nhau tuy nhiên ở công thức trồng với độ sâu hốc16cm khi thu hoạch gặp
nhiều khó khăn và làm tăng nhân công khi thu hoạch. Tác giả khuyến cáo độ sâu
thích hợp nhất khi trồng nghệ vàng là 8cm -12cm.
Các nhà khoa học ở Nhật cũng có đánh giá khoảng cách di truyền giữa các giống
trong chi Curcuma bằng phương pháp đánh dấu phân tử AND của các mẫu giống
nghệ và có thể khẳng định giữa 18 giống trong loài Curcuma longa L. gần như rất
ít có sự khác biệt về khoảng cách di truyền, sau khi đã xác định trình tự gen của
các giống, mặc dù đã có những giống khác nhau hoàn toàn về mặt hình thái.
2.2. Trong nước:
Ở nước ta chưa có nghiên cứu nào về chọn giống nghệ cho năng suất và hàm
lượng curcumin cao cũng như xác định vùng trồng phù hợp và xây dựng qui trình
trồng nghệ vàng. Chủ yếu công tác trồng nghệ theo tập quán lâu đời của địa
phương như ở Hưng yên, Quảng Nam, Tiền giang, Đồng nai…. Tuy nhiên mỗi
địa phương có những kinh nghiệm riêng như trồng nghệ theo liếp ở Cai lậy - Tiền
giang, trồng nghệ mượn củ như ở Khoái châu – Hưng yên, trồng nghệ ở các sườn
đồi núi ở một số tỉnh miền Trung như Nghệ an, Quảng Nam, trồng xen với cây
11
công nghiệp ở Đồng Nai…Ngay cách sử dụng giống cũng chưa có giống đặc hiệu
mà chủ yếu vẫn sử dụng những giống địa phương.
Xã Chí tân huyện Khoái châu – Hưng yên có thể được coi là vùng chuyên canh
nghệ ở Việt Nam với diện tích trồng nghệ hàng năm 100ha, sản lượng 2000
tấn/năm và năng suất trung bình đạt 27 – 30 tấn/ha,ở đây có những khóm nghệ
nặng tới 2kg. Đạt được năng suất nghệ cao và ổn định là do ở đây người dân đã áp

dụng một số công nghệ tiên tiến trong sử dụng phân bón và canh tác cho cây nghệ
như cách mượn củ ( sau trồng 3 tháng khi cây nghệ bắt đầu nảy mầm đẻ nhánh
người ta sẽ bới gốc lên sau đó tách lấy phần củ giống mới trồng lên) đây là hình
thức kích thích sự đẻ nhánh của cây đồng thời làm củ nghệ có màu sắc đậm hơn,
mật độ 15x20cm trồng kiểu nanh sấu, độ sâu 10cm, lượng củ giống từ 2,5 – 2,7
tấn/ha. Giống nghệ trồng ở đây chủ yếu vẫn là các giống nghệ địa phương được
trồng từ lâu đời.
Tỉnh Đồng nai cũng là nơi có diện tích trồng nghệ lớn khoảng 100ha tuy nhiên
người dân ở đây chủ yếu người dân vẫn trồng xen canh cây nghệ với cây điều nên
năng suất cao nhất cũng chỉ đạt 10-15tấn/ha.Tuy nhiên sau khi chuyển đổi cơ cấu
cây trồng hợp lý do trồng xen canh cây nghệ với cây điều đã giúp bà con ở đây
thoát nghèo. Diện tích trồng nghệ tập trung chủ yếu ở xã Hưng Lộc huyện Thống
nhất và đây cũng là nơi có nhiều xưởng chế biến bột nghệ lớn nhất với trên 30 hộ
chế biến nghệ bột. Trước đây chủ yếu chế biến để bán thị trường trong nước
nhưng một vài năm gần đây chế biến nghệ bột xuất khẩu đi Hàn Quốc, Ấn độ, Đài
loan nên giá cả nghệ cũng tăng cao và diện tích trồng nghệ cũng được mở rộng. Ở
đây nghệ được coi là cây xoá đói giảm nghèo cho người dân nơi đây, tuy nhiên do
trồng xen canh với cây điều và chế độ canh tác chỉ tự phát nên năng suất nghệ có
sự sai khác rất lớn, có những hộ dân chỉ thu được dưới 10 tấn/ha nhưng có những
hộ đã biết áp dụng kỹ thuật về phân bón và trồng trọt nên năng suất đạt tới 20
tấn/ha.
12
Để tránh đi vào vết xe đổ của những cây dược liệu trước đây khi phát triển trồng
đại trà thì lại không tiêu thụ được do giá cả quá thấp, không đủ nơi chế biến, khi
có thu nhập thì trồng ồ ạt, sau đó khi không tiêu thụ được lại bỏ không trồng nữa
đến khi thị trường khan hiếm gía cả tăng cao mới quay lại trồng. Dẫn tới thị
trường giá cả dược liệu bấp bênh rất khó khăn cho công tác sản xuất chế biến
thuốc từ dược liệu nói chung và củ nghệ nói riêng. Để đưa công tác phát triển
dược liệu nhất là việc trồng cây nghệ như một cây trồng nông nghiệp ổn định thì
công tác phát triển vùng và qui hoạch vùng trồng nghệ cần được quan tâm chặt

chẽ của các cơ quan chức năng cũng như các nhà khoa học và về mặt xã hội cần
nâng cao ý thức cho người nông dân về ý thức sản xuất hàng hoá của mình trong
việc tạo thương hiệu cho cây nghệ Việt nam, có thể đưa công tác trồng trọt dược
liệu ở huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên thành những mô hình điểm để người dân
trong cả nước học tập kinh nghiệm. Việc tạo ra thương hiệu cho cây nghệ Việt
Nam việc làm đầu tiên cần phải được quan tâm của Nhà nước và có sự chỉ đạo vĩ
mô từ các cơ quan chức năng. Đối với những nhà khoa học cần có sự chỉ đạo đúng
hướng về công tác chọn giống nghệ có năng suất và hàm lượng curcumin cao và
ổn định, xác định vùng trồng nghệ phù hợp và áp dụng công nghệ tiến tiến nhất là
chế độ thâm canh phù hợp giúp tăng năng suất và chất lượng nghệ, xây dựng vùng
trồng nghệ tập trung. Công tác chế biến và chiết xuất tinh chất curcumin từ củ
nghệ cũng là những việc làm vô cùng quan trọng khi xây dựng thương hiệu cho
nghệ của Việt nam.
13

×