PHẦN 1: GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Đồng Bằng Sông Cửu Long là khu vực phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản mạnh
mẽ của cả nước. Trong đó, tôm càng xanh là đối tượng được nuôi rộng rãi ở nhiều
tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh…. với các mô
hình nuôi tôm đa dạng như nuôi tôm trong mương vườn, nuôi tôm trong ruộng lúa,
nuôi tôm đăng quầng.
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản (1999) thì Đồng Bằng Sông Cửu Long có hơn
500.000 ha diện tích mặt nước nuôi tôm, trong đó có gần 6.000 ha nuôi tôm càng
xanh. Sản lượng tôm càng xanh đạt 28.000 tấn đứng thứ hai sau Trung Quốc
(128.338 tấn) năm 2003 (tổng hợp bởi New, 2005).
Trong vài năm trở lại nay, diện tích nuôi tôm càng xanh không ngừng được mở
rộng do cơ cấu chuyển dịch sản xuất cùng với nhiều đối tượng nuôi khác. Trong
khi đó, sản lượng con giống khai thác từ tự nhiên gần như cạn kiệt, việc sản xuất
chủ yếu là con giống nhân tạo.
Theo Phuong và ctv (2006) Đồng Bằng Sông Cửu Long hiện có 91 trại sản xuất
giống tôm càng xanh (chiếm 88,5% số trại giống của cả nước), cung cấp khoảng 90
triệu postlarvae (năm 2004) cao hơn nhiều so với năm 1998 (1 triệu postlarvae).
Tuy nhiên do đặc thù việc nuôi tôm tập trung theo mùa vụ rất cao (tháng 4 -11) nên
nhu cầu con giống trong một thời điểm vẫn chưa đáp ứng đủ cho người dân.
Nghiên cứu và ổn định qui trình sản xuất giống đã được tiến hành nhiều trong gần
2 thập kỷ qua, nghiên cứu nguồn gốc và chất lượng đàn ấu trùng nhằm sản xuất
con giống đạt chất lượng cao, là một việc làm cần thiết đối với khâu tạo ra con
giống nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Dựa vào đề tài gốc “Di truyền chọn giống tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii)”, và trong khuôn khổ hạn chế về thời gian và khối lượng công việc,
chúng tôi tiến hành thí nghiệm “Ảnh hưởng của các dòng tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii) đến sức sinh sản thực tế và tỷ lệ sống của ấu
trùng” nhằm tìm ra dòng tôm có chất lượng đàn ấu trùng khỏe mạnh, cho tỷ lệ
sống cao.
1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá các dòng tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) bố mẹ Việt Nam
và Malaysia nhằm tìm ra dòng tôm có chất lượng đàn ấu trùng khỏe mạnh, cho tỷ
lệ sống cao phục vụ cho công tác sản xuất giống ở Việt Nam.
1.3 Nội dung nghiên cứu
(1) Nuôi vỗ thành thục tôm bố mẹ
(2) Ghép cặp cho sinh sản nhân tạo
(3) Ương ấu trùng tôm càng xanh có nguồn gốc khác nhau.
(4) Ương nuôi postlarvae các gia đình tôm trong bể composite
2
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Lịch sử phát triển của tôm càng xanh
Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XVIII đã có nhiều tác giả nghiên cứu về hình
thái của tôm càng xanh. G.E Rumphyus đã mô tả và đặt tên cho loài tôm này với
hàng loạt tên gọi khác nhau. Và một số tác giả khác như Herbest (1792), Fabricius
(1798), Bose (1801), Oliver (1811), Desmarest (1823) đã mô tả đặc điểm hình thái
bên ngoài của tôm càng xanh với tên phân loại đầu tiên là Locusta marine về sau
đổi là Palaemon carcinus (Trích dẫn bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993).
Tôm càng xanh phát triển qua hai thế kỷ tiếp theo được ghi nhận bởi nhiều công
trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau. Họ nghiên cứu các thủy vực khác
nhau cũng như xác định các khu hệ giáp xác để xác minh rõ hơn về hình thái, vị trí
phân loại và vùng phân bố của loài tôm này. Mặc dù có nhiều tác giả đưa ra rất
nhiều tên phân loại nhưng chỉ có I.B. Holthius (1950) mới xác định chính thức tên
khoa học cho tôm càng xanh là Macrobrachium rosenbergii khẳng định lại tên gọi
ban đầu của De Man (1879) (Trích dẫn bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Công trình
nghiên cứu về đặc điểm sinh học của tôm càng xanh của nhiều tác giả truớc đó mới
chỉ là những bước nghiên cứu sơ khai. Cho đến năm 1962 thì S.W Ling và A.B
Merican là những người đầu tiên có những công trình nghiên cứu hoàn thiện về
mặt sinh học của tôm càng xanh tại Malaisia. Đây cũng chính là cái nôi tạo giống
nhân tạo và ương ấu trùng tôm càng xanh, mở ra các nghiên cứu tiếp tục về loài
tôm này cho nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam hội nghị về tôm càng xanh đầu
tiên được tổ chức ở vũng tàu vào tháng 3 năm 1975.
Tại Việt Nam, nghiên cứu tôm càng xanh thực sự được chú trọng chỉ sau 1975.
Trước đó ngoài những nghiên cứu của một số chuyên gia nước ngoài thì hầu như
không có tác giả nào nghiên cứu về tôm càng xanh. Năm 1977 - 1979 trường đại
học Cần Thơ đã tiến hành sinh sản nhân tạo tôm càng xanh. Tiếp theo sau là Viện
Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II, Viện Nghiên Cứu Hải Sản ở Hải Phòng,
Công Ty Dịch vụ Nuôi Trồng Thủy Sản cũng bắt tay vào nghiên cứu về đối tượng
này. Năm 1982, trung tâm nghiên cứu sản xuất giống tôm ở Vũng Tàu cho tôm
càng xanh sinh sản. Việc nghiên cứu chuyên sâu về tôm càng xanh tại Việt Nam đã
có một số tác giả thực hiện như: Trần Đức Can (1987), Phan Hữu Đức (1988),
Nguyễn Việt Thắng (1985), Phạm văn Tình (1999) đã mang lại những giá trị khoa
học quý giá về đặc điểm sinh học cũng như kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh
ở Việt Nam ( Nguyễn Việt Thắng, 1993).
3
2.2 Đặc điểm sinh học của tôm càng xanh
2.2.1 Phân loại và hình thái
Vị trí phân loại tôm càng xanh theo Holthuis (1950) trích bởi Nguyễn Việt Thắng
(1993) như sau:
Ngành tiết túc: Arthropoda
Lớp giáp giác: Crustacea
Lớp phụ giáp xác bậc cao: Malacostraca
Bộ mười chân: Decapoda
Bộ phụ chân bơi: Nantantia
Phân bộ: Caridae
Họ: Palaemonidae
Họ phụ: Palaemoninae
Giống: Macrobrachium
Loài: Macrobrachium rosenbergii (de Man 1879)
Hình thái của tôm càng xanh được nhiều tác giả mô tả như Holthius, Phan Hữu
Đức và ctv (1988, 1989), Foster và Wickin (1972) (trích dẫn bởi Nguyễn Việt
Thắng, 1993). Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003) ở nước ta tôm càng xanh
trong tự nhiên hay trong ao nuôi thì xuất hiện hai dạng là tôm càng xanh và Tôm
Càng Lửa. Tôm càng xanh là loài có kích cỡ lớn nhất trong nhóm tôm nước ngọt.
Tôm càng xanh có cơ thể thon dài, đối xứng hai bên. Cơ thể gồm hai phần: phần
đầu ngực có dạng hơi giống hình trụ gồm 13 đốt và 13 đôi phụ bộ được bao bọc
bởi một tấm vỏ dày gọi là giáp đầu ngực. Phần bụng gồm có 7 đốt và 6 đôi phụ bộ,
mỗi đốt được bao bọc bởi một lớp vỏ, tấm vỏ phía trước chồng lên tấm vỏ phía
sau.
Tuy nhiên tấm vỏ của đốt bụng thứ hai phủ lên tấm vỏ phía trước và phía sau nó.
Chính nhờ đặc điểm này mà ta có thể phân biệt được tôm càng xanh với các loài
tôm sống ở vùng nước mặn. Các đốt bụng của tôm càng xanh hơi tròn trên mặt
lưng và dẹp hai bên, cơ thể có dạng hơi cong, to ở phần đầu, thon nhỏ về phía sau.
2.2.2 Phân bố tôm càng xanh
Có gần 200 loài thuộc họ Palamonidae đã được mô tả, hầu hết đời sống của chúng
đều có một khoảng thời gian ở nước ngọt (New, 2002). Cũng theo tác giả này, tôm
càng xanh phân bố ở các cùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới, chúng được
tìm thấy ở sông hồ, kênh, rạch, ao ở các vùng nội địa và nhiều hơn cả là các vùng
cửa sông nơi có sự pha trộn giữa nước ngọt và nước mặn. Một số loài
Macrobrachium cũng đã được chuyển đi từ vùng sinh sống tự nhiên của nó đến
nhiều nơi trên thế giới cho mục đích nuôi và nghiên cứu. Tôm càng xanh được
nhập vào Hawaii từ Malaysia vào năm 1965 nơi Fujimura & Okamoto (1972) là
4
những người tiên phong nghiên cứu sinh sản nhân tạo loài này (tổng kết bởi New,
2000).
Hiện nay, tôm càng xanh đã đang phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới không có
tôm trong tự nhiên như: Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Israel,... (Phạm Văn Tình,
2004a). Trung Quốc hiện đang dẫn đầu về sản lượng tôm càng xanh trên thế giới
với 128.338 tấn vào năm 2001 (New, 2005).
Ở nước ta, tôm càng xanh phân bố từ Nha Trang trở vào (Phạm Văn Tình 2004b)
nhưng phát triển thuận lợi nhất ở các tỉnh Nam Bộ, đặc biệt là Đồng Bằng Sông
Cửu Long (Nguyễn Việt Thắng, 1993), chỉ đứng thứ hai sau Trung Quốc với sản
lượng đạt 28.000 tấn năm 2001 (New, 2005). Mô hình nuôi tôm lúa đang được phổ
biến rộng rãi đạt 1.000 - 1.500 kg/ha/vụ. Việt Nam còn nhiều tiềm năng để phát
triển, nâng cao năng suất nuôi và khai thác đối tượng này.
2.2.3 Vòng đời của tôm càng xanh
TheoTrần Ngọc Hải và ctv (2000) thì vòng đời của tôm càng xanh gồm 4 giai
đoạn: trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành. Giai đoạn trưởng thành
tôm sống chủ yếu ở nước ngọt nhưng đến khi thành thục tôm đẻ trứng và di cư ra
vùng cửa sông (6 - 18‰) để cho trứng nở. Cũng theoTrần Ngọc Hải và ctv (2000)
thì ấu trùng tôm càng xanh sống phù du và trải qua 11 lần biến thái để trở thành
hậu ấu trùng (postlarvae). Lúc này tôm có xu hướng tiến vào vùng nước ngọt để
sinh sống và phát triển đến khi trưởng thành. Khi trưởng thành chúng bắt đầu sinh
sản và di cư ra vùng nước lợ tiếp tục vòng đời của mình.
Hình 2.1: Vòng đời của tôm càng xanh
2.2.4 Tập tính ăn của tôm càng xanh
5
Về tập tính ăn, tôm càng xanh là loài ăn tạp thiên về động vật, mức chọn lựa không
cao, thành phần thức ăn không thay đổi theo giới tính.
Tôm càng xanh có hàm răng nghiền khỏe, ruột có cấu tạo ngắn nên khả năng tiêu
hóa nhanh. Chúng ăn hầu hết các loài động vật nhỏ, các mảnh vụn hữu cơ, thích
bắt mồi vào ban đêm hơn ban ngày (Phạm Văn Tình, 2004a).
Râu là cơ quan xúc giác giúp tôm tìm thức ăn, đôi chân ngực thứ nhất như một cái
kẹp giúp tôm giữ và đưa thức ăn vào miệng (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002).
Trong quá trình lớn lên, tôm trải qua nhiều lần lột xác, chu kỳ lột xác thay đổi theo
tuổi, nhiệt độ, thức ăn, giới tính và điều kiện sinh lý của chúng (Nguyễn Thanh
Phương, 2003).
2.3 Đặc điểm sinh sản của tôm càng xanh
2.3.1 Phân biệt giới tính
Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003), ta có thể phân biệt giới tính tôm càng
xanh thông qua hình dạng bên của chúng. Tôm càng xanh đực lớn hơn tôm càng
xanh cái, đầu ngực to hơn và khoang bụng hẹp hơn tôm càng xanh cái, đôi càng
thứ hai to dài và hơi thô hơn tôm càng xanh cái.
Ở tôm càng xanh đực có nhánh phụ đực mọc kế nhánh trong của chân bụng thứ
hai. Nhánh phụ đực xuất hiện ở giai đoạn ấu niên khi tôm đạt kích cỡ 30 mm và
hoàn chỉnh khi đạt kích cỡ 70 mm. Ngoài ra ở mặt của đốt bụng thứ nhất còn có
điểm cứng.
Tôm cái thường có kích cỡ nhỏ hơn tôm đực, phần đầu ngực nhỏ và đôi càng thon,
tôm có 3 tấm bụng đầu tiên rộng và tạo thành khoang làm buồng để ấp trứng. Quá
trình mở rộng của khoang bụng bắt khi tôm đạt chiều dài tổng 95 mm. Lổ sinh dục
của con cái nằm ở góc của chân ngực thứ 3. Trên các chân bụng của con cái có
nhiều lông tơ có tác dụng giúp trứng bám vào trong quá trình tôm đẻ và ấp trứng.
Cơ quan sinh dục trong của con đực ngoằn ngoèo nằm ở giữa của Carapace được
nối với ống dẫn tinh chạy trước tim và dọc hai bên viềng sau của Carapace, đỗ vào
mút nằm ở đốt coxa của đốt chân ngực thứ 5. Túi tinh hình thành trong quá trình
phóng tinh. Túi tinh có khối tinh trùng không di động.
Ở con cái, buồng trứng nằm ở trên mặt lưng của phần đầu ngực, ở dưới dạ dày và
gan tụy. Khi buồng trứng thành sẽ có màu vàng trải dài từ sau mắt đến đốt đầu của
phần bụng. Ống dẫn trứng nối liền với buồng trứng, buồng trứng ở trước tim chạy
dọc hai bên về phía bụng đỗ về túi chứa tinh ở đốt góc của chân ngực thứ 3.
2.3.2 Thành thục, giao vĩ, đẻ trứng và ấp trứng của tôm càng xanh
6
Trong tự nhiên tôm càng xanh thành thục, giao vĩ và đẻ trứng hầu như quanh năm.
Đồng Bằng Sông Cửu Long có hai mùa đẻ chính của tôm càng xanh đó là từ tháng
4 - 6 và tháng 8 - 10. tôm càng xanh cái thành thục và đẻ trứng khoảng 3 - 3.5
tháng nuôi. tôm càng xanh thành thục phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: môi trường,
nhiệt độ và thức ăn… (Trần Ngọc Hải và ctv, 2000).
Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003) thì quá trình thành thục buồng trứng
của tôm càng xanh trải qua 4 giai đoạn phát triển trong thời gian khoảng 14 - 20
ngày. Khi buồng trứng ở giai đoạn 4 thì tôm cái giảm ăn, hoạt động giảm và sau đó
lột xác. Lột xác là giai đoạn tiền giao vĩ của tôm, quá trình giao vĩ của tôm càng
xanh được chia ra làm 4 giai đoạn: giai đoạn tiếp xúc, giai đoạn tôm đực ôm giữ
tôm cái, giai đoạn tôm đực trèo lên lưng, giai đoạn tôm đực lật ngửa và gắn túi tinh
vào tôm cái.
Quá trình giao vĩ xảy ra khoảng 20 - 25 phút. Sau khi giao vĩ xảy ra 2 - 5 giờ có khi
6 - 20 giờ thì tôm cái bắt đầu đẻ trứng, thường vào ban đêm. Trong quá trình đẻ
trứng, trứng sẽ được thụ tinh ngay khi đi ngang qua túi chứa tinh. Trứng sẽ lần
lược dính vào các lông tơ của đôi chân bụng 4, 3, 2, 1. Thời gian đẻ trứng khoảng
15 - 20 phút. Những con cái thành thục có buồng trứng chín mùi nhưng không
được giao vĩ thì chúng vẫn đẻ trứng trong vòng 24 giờ sau khi lột xác tiền giao vĩ.
Tuy nhiên những trứng này sẽ không được thụ tinh và sẽ rơi ra ngoài sau 1 - 2 ngày
sau khi đẻ.
Tuỳ vào kích cỡ và trọng lượng của tôm càng xanh mà sức sinh sản của con cái có
thể thay đổi từ 70.000 - 50.300 trứng, trung bình sức sinh sản tương đối của tôm
càng xanh khoảng 50 - 100 trứng/gram trọng lượng con cái. Tuy nhiên trong ao hồ
sức sinh sản của chúng thấp hơn, trung bình 300 - 600 trứng/gram trọng lượng con
cái. Tôm càng xanh cái có thể tái phát dục và đẻ lại sau 16 - 45 ngày.
Trong quá trình ấp trứng tôm cái dùng các chân bụng quạt nước để tạo dòng chảy
làm thông khí cho trứng và các chân ngực để loại bỏ những trứng bị hư hay vật lạ
dính vào khối trứng. Tuỳ vào thời gian và nhiệt độ mà trứng có thể nở sau 15 - 23
ngày ấp.
2.3.3 Phát triển của phôi, ấu trùng và hậu ấu trùng của tôm càng xanh
Theo Trần Ngọc Hải và ctv (2000) thì trứng tôm càng xanh mới đẻ có kích cỡ
khoảng 0,6 - 0,7 mm. Trứng thụ tinh nhân bắt đầu phân cắt và hoàn thành sự phân
cắt sau 24 giờ. Quá trình giảm phân xảy ra khi nhân phân cắt lần thứ 3, vào ngày
thứ hai đĩa mầm xuất hiện ở mặt bụng của phôi. Ngày thứ 3 vùng phôi được hình
thành và phát triển sang giai đoạn Nauplius. Sau 80 giờ các phụ bộ của Nauplius
bắt đầu phát triển. Ngày thứ 5 hình thành phụ bộ đầu và các nhú đuôi. Ngày thứ 7
điểm mắt bắt đầu phát triển và nhú đuôi trở thành gai đuôi. Ngày thứ 8 bắt đầu
hình thành giáp đầu ngực, mắt có sắc tố, ruột hình thành và tim bắt đầu đập. Ngày
thứ 12 phôi nằm dọc theo trứng và tiếp tục phát triển cho đến khi nở.
7
Theo dõi sự phát triển của phôi trứng, trứng dần phát triển từ màu vàng nhạc sang
màu vàng cam, sau đó đến màu vàng xám và cuối cùng là màu xám đen. Sau 17
-23 ngày trứng sẽ nở và quá trình nở hoàn thành sau 4 - 6 giờ. Khi nở tôm mẹ cử
động chân bụng liên tục để thải ấu trùng ra ngoài.
Ấu trùng mới nở sống phù du có tính hướng quang mạnh và cần có độ mặn 6-14‰
để sinh sống và phát triển (Trần Ngọc Hải và ctv, 2000). Ấu trùng sẽ chết sau khi
nở 3 - 4 ngày nếu sống trong môi trường nước ngọt. Ấu trùng bơi lội chủ động,
bụng ngửa và đuôi ở phía trước. Ấu trùng ăn liên tục và thức ăn gồm các loại động
thực vật phù du, giun nhỏ, ấu trùng các sinh vật thủy sinh…
Theo S.W.Ling (1969) ấu trùng trải qua 8 giai đoạn biến thái và đối với Uno và
Soo (1969) ấu trùng tôm càng xanh trải qua 11 lần lột xác để trở thành postlarvae.
Sau này nhiều tác giả như: Aquacop (1977, 1983), Adisukressno (1977, 1980),
Trương Quang Trí (1985)… cũng thống nhất ý kiến với Uno và Soo là ấu trùng
tôm càng xanh trải qua 11 lần lột xác để trở thành postlarvae (Trích dẫn bởi
Nguyễn Việt Thắng, 1993).
Bảng 2.1: Đặc điểm các giai đoạn ấu trùng tôm càng xanh (Uno và Soo, 1969
được trích dẫn bởi Trần Ngọc Hải và ctv, 2000)
Giai đoạn Tuổi (ngày) Chiều dài tổng (mm) Đặc điểm
I 1 1,92 Mắt chưa có cuống
II 2 1,99 Mắt có cuống
III 3 - 4 2,14 Xuất hiện Uropod
IV 4 - 6 2,50 Có 2 răng trên chủy, chân
đuôi có hai nhánh, có lông tơ
V 5 - 8 2,80 Telson hẹp và kéo dài ra
VI 7 - 10 3,75 Mầm chân bụng xuất hiện
VII 11 - 17 4,06 Chân bụng có 2 nhánh chưa
có lông tơ
VIII 14 - 19 4,68 Chân bụng có lông tơ
IX 15 - 22 6,07 Nhánh trong của chân bụng
có nhánh phụ trong
X 17 - 24 7,05 Có 3 - 4 răng trên chủy
XI 19 - 26 7,73 Răng xuất hiện hết nửa trên
chủy
Postlarvae 23 - 27 7,69 Răng xuất hiện cả trên và
dưới chủy, có tập tính như
tôm lớn
8
Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III
Giai đoạn IV Giai đoạn V Giai đoạn VI
Giai đoạn VII Giai đoạn VIII Giai đoạn IX
Giai đoạn X Giai đoạn XI Postlave
Hình 2.2: Các giai đoạn phát triển của ấu trùng
2.3.4 Môi trường sống của ấu trùng tôm càng xanh
2.3.4.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ đóng một vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và sự phát triển
của ấu trùng, nó quyết định chiều dài giai đoạn phát triển ấu trùng (New và Valenti,
2000).
Theo Nguyễn Việt Thắng (1993), ngưỡng nhiệt độ dưới của ấu trùng tôm càng
xanh là 21
o
C, khi nhiệt độ tăng dần lên thì thời gian phát triển của ấu trùng càng rút
ngắn và nhiệt độ dưới 24 - 26
o
C thì ấu trùng phát triển không tốt.
Theo nhiều tác giả như: New (1982), Fujimura (1966, 1977), Adisurkressno (1977,
1980) xác định ngưỡng nhiệt độ trên của ấu trùng tôm càng xanh là 33 - 34
0
C (trích
dẫn bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Các tác giả này đều cho rằng nhiệt độ tối ưu
9
của tôm nằm trong khoảng 26 - 31
0
C và dưới 24 - 26
0
C thì ấu trùng phát triển
không tốt.
2.3.4.2 Độ pH
Độ pH nước trong bể chịu ảnh hưởng bởi một số quá trình xảy ra trong nước bao
gồm các hợp chất chứa nitơ, sự hoạt động hô hấp của ấu trùng, artemia và các vi
sinh vật hiếu khí khác (New và Valenti, 2000).
Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003) mức pH thích hợp cho tôm càng xanh
nằm trong khoảng từ 7,0 - 8,5 và pH dao động trong một ngày không quá 1 đơn vị.
Mặc khác để có nước ương ấu trùng thì người ta phải dùng nước biển được vận
chuyển đến trại giống và pha với nguồn nước hiện có ở địa điểm sản xuất. Nguồn
nước biển có pH dao động từ 7,8 - 8,3 và nước ngọt từ 7,1 - 7,5 (Nguyễn Việt
Thắng, 1993). Do vậy hai loại được pha vào nhau sẽ cho pH thích hợp.
2.3.4.3 Độ mặn
Tôm càng xanh sống chủ yếu ở nước ngọt nhưng ấu trùng bắt buộc phải sống trong
điều kiện nước lợ (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2003). Do đó, độ mặn có ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của ấu trùng.
Có nhiều ý kiến khác nhau về ngưỡng nồng độ muối trong ương nuôi ấu trùng tôm
càng xanh, nhưng thường dao động từ 12 - 15‰ (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002).
Aquacop (1984) và Griessinger (1986) đã duy trì độ mặn 12‰ trong bể ương ấu
trùng trong suốt từ giai đoạn 1 đến khi chuyển hoàn toàn thành postlarvae, chỉ giảm
xuống 6-10‰ khi ương postlarvae (Nguyễn Thị Thanh thủy, 2002).
2.3.4.4 Nồng độ oxy hòa tan
Theo nhiều tác giả: Ling (1969), Fujimura (1974), New (1982), Aquacop (1977-
1984) đều thống nhất lượng oxy hòa tan trong bể đối với ương ấu trùng là 6 - 9
mg/l (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002).
Trong điều kiện sản xuất giống và nếu đảm bảo sục khí đầy đủ thì không cần phải
kiểm tra nồng độ oxy trong bể ương (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002).
2.3.4.5 Ánh sáng
Ánh sáng mặt trời trực tiếp dường như có hại cho ấu trùng, đặc biệt là trong hệ
thống nước trong (New và Shingolka, 1985), nhưng cũng không thể thiếu ánh sáng
cho ấu trùng phát triển.
Ấu trùng tôm càng xanh cũng như ấu trùng của các loài giáp xác khác đều có tính
hướng sáng tốt, nếu trong bể cường độ ánh sáng lớn sẽ vô tình tạo điều kiện cho ấu
trùng tập trung, bám nhau, cạnh tranh về thức ăn trong một không gian hẹp
(Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2002). Điều này không tốt bởi vì tập tính của tôm càng
xanh là ăn tạp và ăn thịt lẫn nhau (New và Valenti, 2000), con vừa lột xác còn yếu
sẽ dễ làm mồi cho những con khác trong đàn.
10