Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Các doanh nghiệp không qua trung gian ngân hàng trong công tác tìm kiếm vốn doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.47 KB, 28 trang )



Lời nói đầu
Sau 10 năm thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta đã
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước
theo định hướng XHCN; các thành phần kinh tế được bình đẳng và tự do cạnh
tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật.
Cơ chế kinh tế mới đã có những tác động tích cực. Các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế đã tăng nhanh cả số lượng lẫn chất lượng. Song do nền kinh tế
nước ta còn khó khăn, khả năng tích luỹ từ nội bộ còn thấp, trừ một số doanh
nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là có qui mô lớn,
còn lại các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ chiếm tỉ lệ trên 95% trong hệ
thống các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt nam. Do qui mô nhỏ và các khó khăn
của nền kinh tế cho nên các doanh nghiệp ở nước ta thường xuyên bị thiếu vốn
để hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là năm 1996, hầu hết các doanh
nghiệp nước ta đều bị thiếu vốn trầm trọng trong khi đó đã xảy ra một nghịch lí
là vốn ứ đọng ở các Ngân hàng thương mại tới hàng ngàn tỉ đồng. Rõ ràng doanh
nghiệp thiếu vốn không phải do Ngân hàng thiếu vốn mà là do doanh nghiệp
chưa có các giải pháp khai thác các nguồn và huy động vốn một cách hợp lí.
Thiếu vốn sản xuất kinh doanh đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, sự thiệt
hại và kìm hãm càng trở nên sâu sắc hơn khi toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước
bị thiếu vốn vì rằng doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế, nó nắm giữ các ngành then chốt và phần lớn các nguồn lực của xã hội. Do đó,


việc tìm ra các giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đã trở nên cấp thiết !
Với mục đích vận dụng các kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề vốn cho
doanh nghiệp Nhà nước, em chọn đề tài
"Những hoạt động huy động vốn và các giải pháp huy động vốn cho các doanh


nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay".
Đề án được chia thành ba phần:
Phần I: Những vấn đề lí luận cơ sở về hoạt động huy động vốn cho sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng việc huy động vốn ở các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta
hiện nay.
Phần III: Những giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
hiện nay.
Việc tìm ra giải pháp về vốn cho doanh nghiệp nhà nước là một vấn đề hết sức
khó khăn, phức tạp và phải tiến hành thường xuyên trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Do thời gian và trình độ hạn chế nên em không thể
tránh khỏi những vướng mắc và khiếm khuyết. Em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn đã giúp đỡ
em hoàn thành đề án này
Hà nội tháng 9 năm 2001
Phần I: Những vấn đề lý luận cơ sở về hoạt động huy động vốn cho sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.


Để kinh doanh, trước hết cần có vốn, vốn đầu tư ban đầu và vốn bổ sung để mở
rộng sản xuất, kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn vốn
khác nhau. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn, người ta cũng phân chia xí nghiệp
theo nhiều loại khác nhau. Các nguồn hình thành vốn bao gồm: Vốn do nhà nước
cấp (vốn NSNN) vốn do chủ kinh doanh bỏ ra, vốn liên doanh và vốn huy động.
Việc bảo toàn và phát triển vốn được thực hiện bằng các nguồn doanh thu bán
hàng hoặc cung cấp dịch vụ (khấu hao và hoàn vốn lưu động) và từ các nguồn
huy động bổ sung khác. Nói chung, ở mỗi xí nghiệp, các nguồn vốn không đồng
nhất, mà rất đa dạng và phong phú. Do đó khái niệm các loại xí nghiệp được hình
thành căn cứ vào nguồn vốn chỉ có ý nghĩa tương đối.
Vốn NSNN được cấp phát cho các xí nghiệp của nhà nước. Trước đây nguồn vốn

này rất lớn và chiếm phần quan trọng trong tổng số chi ngân sách của chính phủ.
Với chính sách mở rộng hoạt động của các thành phần kinh tế và đổi mới cơ chế
quản lý tài chính đối với khu vực kinh tế quốc dân, nguồn vốn cấp phát của
NSNN cho đầu tư XDCB sẽ được thu hẹp về tỷ trọng và khối lượng. Nguồn vốn
bổ sung hoặc hoàn bù của các xí nghiệp quốc doanh cũng được huy động từ nền
kinh tế mà cấp phát từ NSNN như trước đây.
Thực tiễn hơn 11 năm đổi mới vừa qua cho thấy, vấn đề bức xúc của doanh
nghiệp nước ta thiếu vốn để trang bị và đổi mới những công nghệ hiện đại. Mặt
khác, hiệu quả sử dụng đồng vốn cũng chưa cao, đặc biệt là các doanh nghiệp
trong lĩnh vực công nghiệp. Trong nhiều năm trước đây do cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp chi phối, nên quá trình tích tụ và tập trung vốn trong công nghiệp
không được quan tâm đẩy mạnh.


Điều đó do một số nguyên nhân:
- Tỷ lệ giữa tiêu dùng và đầu tư ở các xí nghiệp quốc doanh trong lĩnh vực công
nghiệp đã không dưạ vào yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, cũng không
dựa vào hiệu quả kinh tế mà chỉ dựa vào các chỉ thị kế hoạch khô cứng, vì thế
quá trình tích tụ, tập trung vốn đã không được đẩy mạnh.
- Việc tái đầu tư đôi khi chưa được tính toán kỹ về hiệu quả kinh tế, quá trình tập
trung vốn nhiều khi mang nặng tính chất hình thức. Tuy nhiên phải thừa nhận
rằng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp cho phép chúng ta tập trung vốn một
cách nhanh chóng và có hiệu quả để xây dựng các công trình trọng điểm quy mô
lớn. Thực ra, ngay từ xa xưa các nhà kinh tế đã đánh giá cao vai trò của vốn đối
với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Chẳng hạn, luận điểm: "Lao động là
cha, đất đai là mẹ" của mọi của cải vật chất đã được nhà kinh tế học người Anh
Uyliam Petty đưa ra từ thế kỷ XVI. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi đó người
ta đã nhận thức rõ những yếu tố cơ bản để tạo ra mọi của cải cho xã hội, đó là
nguồn lực con người và đất đai, tài nguyên thiên nhiên. Kế thừa những tư tưởng
của các nhà kinh tế cổ điển, Mác đã trình bày quan điểm của mình về vai trò của

vốn qua các học thuyết: Tích lũy, tuần hoàn và chu chuyển, tái sản xuất tư bản xã
hội, học thuyết địa tô Đặc biệt là Mác đã chỉ ra nguồn gốc chủ yếu của vốn tích
lũy là lao động thặng dư do những người lao động đặt ra, và nguồn vốn đó khi
đem vào việc mở rộng và phát triển sản xuất thì nó vận động như thế nào. Khi
nghiên cứu nền sản xuất TBCN, Mác đã tìm thấy qui luật vận động của tư bản
(vốn) mà qui luật này nếu ta trừu tượng những biểu hiện cụ thể về mặt xã hội thì
sẽ thấy một điều bổ ích bằng công thức


SLĐ
TLSX
Công thức đó đã chỉ ra rằng, bất kỳ một nhà doanh nghiệp nào muốn thực hiện
quá trình sản xuất kinh doanh cũng đều phải trải qua 3 giai đoạn: Mua - Sản xuất
- Bán hàng. Và điều quan trọng đối với mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp
chính là phải biết phân bổ một cách hợp lý các yếu tố của tiền vốn, đầu tư nhằm
tạo ra nhiều của cải cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và cả xã hội. Công thức
đó cũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên tục của dòng vốn đầu tư nếu như hình
thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trình vận động liên tục của các
hoạt động sản xuất kinh doanh, trong trường hợp như vậy thì đồng vốn đó vẫn ở
dạng tiềm năng chính nó chưa đem lại những lợi ích thiết thực cho mỗi cá nhân,
mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Tích lũy vốn (tư bản) theo Mác là: "Sử dụng
giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư
bản ". Từ những phân tích khoa học chặt chẽ với những luận cứ xác đáng Mác
đã chỉ ra bản chất của quá trình tích lũy vốn trong các doanh nghiệp TBCN: "Một
khi kết hợp được với sức lao động và đất đai tức là hai nguồn gốc đầu tiên của
của cải, thì tư bản có một sức bành trướng cho phép nó tăng những yếu tố tích
lũy của nó lên quá những giới hạn mà bề ngoài hình như là do lượng của bản
thân tư bản quyết định, nghĩa là do giá trị và khối lượng của những tư liệu sản
xuất đã được sản xuất ra quyết định".
Yêu cầu khách quan của tích lũy vốn đã được Mác khẳng định do những nguyên

nhân sau "Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất TBCN thì qui mô tối
thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh doanh, trong điều kiện bình


thường cũng tăng lên. Vì vậy, những tư bản nhỏ hơn cứ đổ xô vào những lĩnh
vực sản xuất mà nền công nghiệp lớn chỉ mới nắm một cách lẻ tẻ hay chưa nắm
hoàn toàn. Cạnh tranh ở đây sôi sục theo tỷ lệ thuận với số lượng những tư bản
kình địch với nhau và theo tỷ lệ nghịch với đại lượng của các tư bản đó Ngoài
điều đó ra, một lực lượng hoàn toàn mới đã phát triển lên cùng với nền sản xuất
TBCN, đó là tín dụng.
Từ đó, Mác khẳng định: "Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản, nếu muốn duy trì tư
bản của mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng thêm và hắn không thể naò
tiếp tục làm cho tư bản đó ngày một tăng lên được, nếu không có một sự tích lũy
ngày càng nhiều thêm".
Một số nhà kinh tế học khác cũng bàn về vốn và tích lũy vốn trong nền kinh tế,
mà tiêu biểu là cuốn "Kinh tế học" của Paul A. Samuelson. Ông viết: "Hàng tư
bản do bản thân hệ thống kinh tế sản xuất để được sử dụng làm đầu vào của sản
xuất để làm ra hàng hoá dịch vụ. Các hàng tư bản lâu bền này, vừa là đầu ra, vừa
là đầu vào, có thể tồn tại một thời gian dài hoặc một thời gian ngắn. Chúng có thể
được cho thuê trên thị trường có tính cạnh tranh như cho thuê những mẩu đất
hoặc những giờ lao động. Tiền trả cho việc sử dụng tạm thời những hàng tư bản
gọi là tiền cho thuê". Ông còn cho rằng thực chất của tích lũy chính là chúng ta
thường chịu bỏ tiêu dùng hiện nay để tăng tiêu dùng cho tương lai. Như vậy xã
hội đầu tư, hay nhịn tiêu dùng hiện tại, mà chờ để thu được lợi tức do đầu tư đó
tạo ra.
Một nhà nghiên cứu kinh tế người Hàn Quốc tên là Sang Sung Part từ thực tế
kinh tế của Hàn Quốc cùng một số tài liệu nghiên cứu của các nước đang chậm


phát triển, ông đã so sánh với nhiều nước phát triển và đi đến kết luận được nhiều

người chấp nhận là "Các nước đang phát triển có rất ít khả năng sản xuất tư liệu
sản xuất, đặc biệt là máy móc thiết bị, nhất là trong giai đoạn đầu của thời kỳ
phát triển một nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tiết kiệm bằng tiền của người tiêu dùng
sẽ là quá ít ỏi để có thể đầu tư ở những nơi còn chưa có khả năng sản xuất ra tư
liệu sản xuất".
Từ nhận định trên Sang Sung Part đã định nghĩa về vốn và tổng số vốn như sau:
"Dưới dạng tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tích lũy, là phần thu nhập
thường có chưa được tiêu dùng. Về mặt hiện vật, vốn được chia thành hai phần:
vốn cố định và vốn tồn kho, là các tư liệu sản xuất được sản xuất bằng hiện vật
được sản xuất trong khu vực sản xuất hay được nhập khẩu".
Và "Tổng số vốn tích lũy còn được gọi là tài sản quốc gia, được tích lũy từ lượng
sản phẩm vật chất hiện có và được trực tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất hiện
tại, không kể tài nguyên thiên nhiên như đất đai và hầm mỏ vì nó không được tạo
ra các hoạt động đầu tư. Cơ sở hạ tầng được gọi là vốn sản xuất không thể thiếu
đối với việc nâng cao tổng lượng sản phẩm vật chất". Qua đó chúng ta rút ra một
số nhận xét theo quan niệm về vốn của Sang Sung Part:
Một là: Vốn không chỉ biểu hiện bằng hiện vật hoặc dưới dạng tiền tệ.
Hai là: Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ là những lượng tiền mặt nhất
định trực tiếp đầu tư sinh lợi nhuận mà còn là giá trị của những tài sản hữu hình
và vô hình tham gia vào các quá trình sản xuất.
Ba là: Tiền chỉ là vốn nếu nó được tích lũy có mục đích đầu tư sinh lợi và cũng
chỉ trở thành vốn đầu tư để phát triển kinh tế nếu như trong nền kinh tế đó có đủ


khả năng để sản xuất ra tư liệu sản xuất, có đủ khả năng chuyển đổi các khoản
tiền tiết kiệm thành những tư liệu sản xuất trên thị trường trong nước và quốc tế.
Vốn biểu hiện bằng tiền là nguồn vốn linh hoạt nhất, nhưng phải là tiền vận động
đi vào sản xuất công nghiệp một cách có hiệu quả.
Mặc dù mỗi trường phái, mỗi nhà kinh tế học, ở mỗi thời kỳ lịch sử có những
quan niệm, phân tích, kết luận về vốn riêng, song chúng ta có thể rút ra khái niệm

về vốn trên cơ sở kế thừa một số các học thuyết kinh tế cuả các nhà kinh tế học
từ xưa đến nay như sau:
- Phạm trù vốn phải được hiểu theo nghĩa rộng gồm toàn bộ các nguồn lực kinh
tế khi được đưa vào chu chuyển. Nó không chỉ bao gồm tiền vốn các tài sản hiện
vật như máy móc, vật tư, lao động, tài nguyên, đất đai mà còn bao gồm giá trị
của những tài sản cấu hình như vị trí của đất đai, các thành tựu khoa học và công
nghệ
- Vốn hiểu theo nghĩa trực tiếp là phần giá trị tài sản quốc gia được tích lũy dưới
dạng tiền và giá trị của tài sản hữu hình và vô hình nhằm mục đích sinh lợi, được
chuyển đổi thông qua các hoạt động đầu tư thành những tư liệu sản xuất và các
phương tiện sản xuất cần thiết khác để sử dụng vào quá trình đầu tư cho nền kinh
tế.
- Vốn trong nước là toàn bộ những yếu tố cần thiết để cấu thành quá trình sản
xuất, được hình thành nên từ nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân
dân lao động trong một quốc gia.
Như vậy, cùng với quan niệm về vốn của kinh tế chính trị Mác xít, các nhà kinh
tế học hiện đại mà tiêu biểu là Paut A. Samuelson cũng đã nghiên cứu về vốn


dưới các góc độ khác nhau, nhưng tất cả những sự nghiên cứu đó chỉ làm rõ thêm
bức tranh toàn cảnh về vốn mà Mác đã phát triển từ lâu.
Để đạt được mục tiêu tích lũy vốn cao thì vấn đề tiếp theo là phải xác định được
mức tích lũy vốn trong GDP cần hướng tới trong từng giai đoạn phát triển của
nền công nghiệp. ứng với mỗi mục tiêu khác nhau thì mức tích lũy vốn trong
nước thường khác nhau, vấn đề là phải xác định được mức tích lũy vốn chiếm tỷ
lệ bao nhiêu trong GDP sẽ quyết định quá trình tích tụ và tập trung của các doanh
nghiệp. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy muốn đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế thì tỷ lệ tích lũy vốn trong nước thường phải chiếm 3% trong GDP.
Phần II: Thực trạng vốn của doanh nghiệp Nhà nước-Yêu cầu bức thiết của việc
huy động vốn cho doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.

Theo kết quả đợt kiểm trra đánh giá lại tài sản và vốn của doanh nghiệp Nhà
nước tiến hành ngày 1/1/1996 thì tổng số vốn kinh doanh của 5775 doanh nghiệp
Nhà nước đơn vị bàn giao là 68539 tỷ đồng (không kể giá trị diện tích đất trong
sử dụng.). Trong đó, doanh nghiệp TƯ 50761,8 tỷ, doanh nghiệp địa phương
17778 tỷ đồng. Nếu trừ đI số vốn không hoạt động, bao gồm giá trị tài sản chờ
thanh lí, không cần sử dụng, nợ khó đòi, nợ phải thu được khoanh lại thì số vốn
thực sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước là 60459 tỷ đồng,
bằng 88,2% số vốn hiện có. Nếu loại trừ giá trị tài sản bị mất mát, số tiền lỗ của
doanh nghiệp còn treo trên sổ sách thì số vốn thực sự hoạt động của doanh
nghiệp còn ít hơn nữa.
- Trong số vốn thực sự hoạt động, vốn cố định là 53186 tỷ đồng, chiếm 88%; vốn
lưu động là 7273 tỷ đồng, chiếm 12%. Ta thấy cơ cấu vốn như thế là không hợp


lí. Vốn lưu động chiếm tỉ lệ quá nhỏ so với tổng số vốn của doanh nghiệp. Vốn
lưu động do Nhà nước cấp chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu vốn cho doanh nghiệp,
trong đó, vốn lưu động thức sự hoạt động mới chỉ đáp ứng được 10%. Như vậy,
tình trạng thiếu vốn trong doanh nghiệp là phổ biến và rất nghiêm trọng.
Nếu xem xét kĩ hơn về tài sản cố định ta thấy: trang thiết bị của doanh nghiệp
Nhà nước rất lạc hậu, chắp vá từ nhiều nguồn, nhiều nước khác nhau. Theo điều
tra của Tổng cục thống kê thì tình trạng kĩ thuật của đa số máy móc thiết bị trong
khu vực doanh nghiệp Nhà nước lạc hậu khoảng 2-3 thế hệ, có lĩnh vực như
đường sắt, cơ khí, công nghiệp đóng tàu lạc hậu 4-5 thế hệ. Các doanh nghiệp
Nhà nước địa phương chiếm tỉ lệ lớn nhưng có trình độ công nghệ lạc hậu hơn so
với doanh nghiệp Nhà nước TƯ. Trong số các doanh nghiệp Nhà nước TƯ có
54,3% số doanh nghiệp ở trình độ thủ công, 41% ở trình độ cơ khí, chỉ có 3,7% ở
trình độ tự động hoá. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước địa phương có tới 94%
số doanh nghiệp ở trình độ thủ công, 2,4% ở trình độ cơ khí và chỉ có 2% ở trình
độ tự động hoá.
Trình độ trang thiết bị công nghệ lạc hậu và quá yếu kém dẫn tới năng suất lao

động của doanh nghiệp Nhà nước còn thấp, gây ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp khác và các doanh
nghiệp nước ngoài. Do dó, để doanh nghiệp Nhà nước có khả năng cạnh tranh và
nâng cao hiệu quả hoạt động cần phải có vốn (trung và dài hạn) để đổi mới các
dây chuyền công nghệ - qui mô vốn của một doanh nghiệp Nhà nước của nước ta
còn rất nhỏ. Vốn bình quân thực sự hoạt động của một doanh nghiệp là 10,468 tỷ
đồng(các doanh nghiệp cỡ nhỏ của các nước trong khu vực đều có vốn trên dưới


1 triệu USD). 68% Doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng trong đó có
50% doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 500 triệu, thậm chí có doanh nghiệp
chỉ có vốn vài chục triệu đồng. Một số ngành có vốn kinh doanh tương đối lớn
(Điện lực: 19298 tỷ, Nông nghiệp:7738 tỷ, Ngân hàng tín dụng 2783 tỷ đồng ),
tỷ trọng vốn từng ngành so với tổng số vốn thường không lớn, chẳng hạn, xây
dựng 4,6%; chế biến khoáng sản 3,6%; vận tải bộ 5,1%. Như vậy, ta thấy rằng,
qui mô vốn của từng doanh nghiệp và của ngành rất nhỏ, nguyên nhân chính là
do doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay còn quá nhiều về số lượng, vốn
của doanh nghiệp khi thành lập đươc cấp phát từ Ngân sách Nhà nước nhưng do
Ngân sách Nhà nước eo hẹp nên vốn cấp phát khi thành lập cũng rất nhỏ.
Từ việc phân tích thực trạng vốn của doanh nghiệp Nhà nước, ta thấy rằng, nhu
cầu vốn hiện nay cho doanh nghiệp Nhà nước là rất lớn cả về vốn ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn, đòi hỏi phải có biện pháp huy động vốn khẩn cấp cũng như
phải có sự điều chỉnh lại cơ cấu vốn cho phù hợp thì mới có thể nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước.
* Thực trạng huy động vốn trong các Doanh nghiệp Nhà nước:
1. Huy động vốn trong DN Nhà nước thời kì trước khi đổi mới:
Trong thời kì trước đổi mới, nền kinh tế nươcs ta mang nặng tính kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp, do đó, việc huy động và sử dụng vốn mang đặc trưng
là Nhà nước bao cấp vốn và bao cấp tín dụng. Nhà nước cấp phát vốn trực tiếp
hoặc gián tiếp cho doanh nghiệp thông qua hệ thống ngân hàng trên cơ sở tính

toán các nhu cầu vốn cần thiết để đảm bảo các chỉ tiêu pháp lệnh mà Nhà nước
giao cho doanh nghiệp. Hoạt động huy động vốn và lưu thông vốn qua đại diện


Ngân hàng Nhà nước đảm nhận đã dẫn tới tiêu cực, yếu kếm trong kinh doanh
tiền tệ, không tạo lập được các thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường
hối đoái Điều đó đã dẫn tới không huy động được vốn nhàn rỗi trong nhân dân,
không đa dạng hoá được các hình thức lưu thông, cung ứng vốn do đó, không
đáp ứng được kịp thời, linh hoạt, thích hợp và có hiệu quả các nhu cầu vốn cho
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Huy động vốn trong DNNN từ khi tiến hành đổi mới đến nay:
Trong thời kì này, doanh nghiệp Nhà nước được giao quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh, Nhà nước chỉ giao vốn ban đầu cho doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tự
xác định nhu cầu, khả năng đảm bảo và tự tiến hành huy động vốn cho doanh
nghiệp.
Để đánh giá thực trạng huy động vốn ở doanh nghiệp Nhà nước hiện nay ta xem
xét các vấn đề sau:
a) Các kết quả đạt được:
Sau khi tiến hành đổi mới, vốn từ các nguồn khác nhau đã được huy động vào
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với qui mô, tốc độ tăng nhanh qua các
năm.Tính đến tháng1/1996, doanh nghiệp Nhà nước đã huy động được 279 375
tỷ đồng (doanh nghiệp Nhà nước TƯ huy động được 254160 tỷ, doanh nghiệp
Nhà nước địa phhương 25215 tỷ) gấp hơn 4,1 lần vốn kinh doanh của doanh
nghiệp. Như vậy thì cứ có 1 đồng vốn thì doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta vay
được trên 4,1 đồng; trong khi đó ở Nhật, các xí nghiệp có 1 đồng thì vay được 10
đồng. Nhiều quan sát viên phương Tây cho rằng tỉ lệ này chứa đựng nhiều yếu tố
rủi ro không lành mạnh so với phương Tây.


Thực tế cho thấy hiện nay ở Nhật bản đang bị khủng hoảng tài chính vì hàng loạt

các công ty tài chính, Ngân hàng lớn bị sụp đổ do không thu hồi được các khoản
nợ. ở các nước phương Tây, ngân hàng chỉ cho vay: 1 đồng vốn riêng chỉ vay
được từ 2 đén 5 đồng. ở sài gòn thời kì 1970- 1975 các xí nghiệp tư nhân có 1
đông fvốn chỉ vay được khoảng 3 đồng ở Ngân hàng đầu tư và 2 đồng ở Ngân
hàng thương mại. Như vậy, tỉ lệ vốn riêng/vốn vay thấp nhất là 1,5.
Như vậy, nếu so sánh với các chỉ tiêu này thì hiện nay, hiệu quả huy động vốn ở
các doanh nghiệp Nhà nước là khá cao. Để huy động được lượng vốn này, các
doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện các biện pháp chủ yếu sau:
- Huy động từ các nguồn tín dụng: đây là nguồn vốn huy động quan trọng nhất
của các doanh nghiệp Nhà nước.
Tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất
so với các thành phần kinh tế khác. Hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước huy động
được trên 50% tín dụng nội bộ và trên 70% tín dụng ngoại tệ từ các Ngân hàng
thương mại.
- Huy động từ nguồn Ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước là nguồn vốn
quan trọng thứ hai đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Ngân sách Nhà nước cấp
vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước dưới dạng đầu tư XDCB, cấp vốn lưu động,
bù lỗ, trợ giá Mặc dù đang có số lượng giảm nhưng lượng vốn hàng năm cho
doanh nghiệp Nhà nước là rất lớn. Năm 1994 bằng 0,5% GDP. Để giải quyết nhu
cầu vốn cho doanh nghiệp Nhà nước, vừa qua Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân
hàng Nhà nước, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ duyệt cấp them vốn lưu động
cho các doanh nghiệp thành viên của một số Tôngr công ty.


- Để giải quyết nhu cầu vốn trong thời gian qua các doanh nghiệp đã vay nợ nước
ngoài dưới hình thức nhập khẩu hàng hoá trả chậm (L/C trả chậm) từ 2 tháng đến
2 năm. Trong năm 1996, lượng vốn huy động từ nguòn này khoảng trên 1 tỷ
USD tương đương 11000 tỷ đồng. Ngoài ra, các doanh nghiệp Nhà nước còn áp
dụng một số biện pháp khác như mua trả góp, tạm ứng, kiên doanh, kiên kết
qui mô nguồn này không đáng kể so với các nguồn trên.

Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn, nghị định 59/Cp ngày
03/10/1996 cho phép doanh nghiệp Nhà nước được quyên fhuy động vốn bằng
cách phát hành trái phiếu, vay vốn từ các tổ chức Tín dụng, các doanh nghiệp
khác, các cá nhân (kể cả CBCNV trong doanh nghiệp), nhận góp vốn liên kết với
các hìh thức khác nhưng không làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp
Nhà nước.
Như vậy, ta thấy từ khi tiến hành đổi mới đến nay, hiệu quả hoạt động huy động
vốn cao hơn so với thời kì trước; thể hiện ở chỗ: lượng vốn huy động được nhiều
hơn và các hình thức huy động vốn phong phú hơn. Thành tựu đó do các nguyên
nhân chủ yếu sau:
+Việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường,
doanh nghiệp được tự chủ sản xuất kinh doanh do đó tạo ra sự năng động sáng
tạo cho hoạt động huy động vốn cho sản xuất kinh doanh.
+ Việc thành công trong cải cách cà ổn định kinh tế đã tạo ra tốc độ tăng trưởng
nhanh và vững chắc, tích luỹ nội bộ của đất nước tăng nhanh. Do đó, các nguồn
vốn huy động được của doanh nghiệp đã tăng nhanh về số lượng và qui mô, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp.


+ Mặc dù các thành phần kinh tế được khẳng định là bình đẳng với nhau nhưng
thực tế thì doanh nghiệp Nhà nước còn được hưởng một số lợi thế so với doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như: được vay nhắn hạn với tỉ lệ lãi
suất thấp, được hưởng tài trợ từ ngân sách, vay không cần phải thế chấp
b) Những tồn tại trong hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp:
Mặc dù sau 10 năm đổi mới hoạt động huy động vốn ở doanh nghiệp
Nhà nước đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ, hoạt động huy động vốn
trong doanh nghiệp Nhà nước còn một số vấn đề tồn tại sau:
Thứ nhất, hình thức huy động vốn chủ yếu là đi vay đã dẫn tới các hậu quả sau:
+ Công nợ của doanh nghiệp Nhà nước đã vượt xa mức bình thường của hoạt
động kinh doanh và có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Đối với nhiều doanh

nghiệp Nhà nước, theo báo cáo của Tổng cục doanh nghiệp thì tổng số nợ phải
thu của doanh nghiệp Nhà nước tính đến 31/12/1995 gấp 7 lần vốn lưu động của
doanh nghiệp và bằng 38,4% tổng doanh thu năm 1995; nợ khó đòi và nợ khoanh
lại (thực chất là nợ không có khả năng thu hồi) chiếm 46,1% vốn lưu động hiện
có của doanh nghiệp. Tỏng số nợ phải trả của doanh nghiệp là 279376 tỷ đồng
gấp 3 lần số nợ phải thu và bằng 4,1 lần số vốn kinh doanh của doanh nghiệp - số
nợ này lớn hơn GDP năm 1996 (năm 1996, GDP của nước ta là 251000 tỷ đồng).
Tổng số nợ của doanh nghiệp TƯ là 259160 tỷ đồng, bằng 3,2 lần nợ phải thu và
bằng 5 lần vốn kinh doanh. Doanh nghiệp địa phương có số nợ là 25215 tỷ đồng,
bằng 2,2 lần nợ ơhải thu và 1,4 lần vốn kinh doanh. Do công nợ quá lớn, hàng
năm, doanh nghiệp Nhà nước phải dành một tỉ lệ doanh thu khá lớn trả lãi và nợ
cho Ngân hàng, do đó, làm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất


thấp. Năm 1995, tỷ lệ lợi nhuận/vốn là 19,3% trong khi đó lãi suất tín phiếu kho
bạc Nhà nước là 21%.
+ Do chủ yếu vay vốn ở ngân hàng dẫn đến việc cung cấp vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh ở doanh nghiệp bị phụ thuộc vào ngân hàng. Biểu hiện ở chỗ
ngân hàng có loại vốn nào thì vay được loại vốn đó; có vốn ngắn hạn thì vay
được vốn ngắn hạn, có vốn dài hạn thì vay được vốn dài hạn. Khi nào mà các
điều kiện cho vay dễ dàng thì vay được nhiều, khi nào điều kiện cho vay khó
khăn thì doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng vì không vay được vốn. Đây chính là
nguyên nhân chủ yếu lí giải cho tình trạng thiếu vốn trầm trọng ở các doanh
nghiệp Nhà nước trong năm 1996. Do phụ thuộc vào ngân hàng nên doanh
nghiệp không xây dựng được một cơ cấu vốn tối ưu với chi phí vốn rẻ nhất mà
phải chấp nhận mức lãi suất do ngân hàng đưa ra. Mức lãi suất này thường khá
cao.
Thứ hai: Tốc độ gia tăng vốn huy động cho doanh nghiệp
Nhà nước giảm dần do tốc độ gia tăng của hai nguồn vốn chủ yếu là vốn tín
dụng và vốn Ngân sách Nhà nước bị giảm mạnh.

+ Tốc độ gia tăng của tín dụng nội tệ giảm từ 36,48% năm 1992 xuống còn
18,2% năm 1994.
+ Tốc độ gia tăng của vốn tín dụng nội tệ giảm từ 116,12% năm 1992 xuống còn
34,07% năm 1994.
Đối với nguòn vốn từ Ngân sách Nhà nước cấp cho doanh nghiệp Nhà nước bị
giảm từ 8,5% GDP năm 1988 đến năm 1994 là 0,5% GDP.


Ta thấy một vấn đề rất mâu thuẫn là trong khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
nước ta tăng với tốc độ cao, thì hoạt động sản xuất kinh doanh của cá doanh
nghiệp cũng tăng nhanh, do đó nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng tăng nhanh
để bảo đảm yêu cầu tăng trưởng, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
thì tốc độ gia tăng lượng vốn huy động để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp lại bị giảm. Qua đó, ta thấy rằng hiệu quả huy động vốn ngày
càng giảm, doanh nghiệp ngày càng thiếu vốn trầm trọng.
Thứ ba, trong cơ cấu của vốn huy động được thì chủ yếu là vốn ngắn hạn, chưa
đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn để đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng sức
cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước.
Nguyên nhân: các hình thức huy động vốn dài hạn như thuê tài chính, phát hành
cổ phiếu, trái phiếu chưa được áp dụng rộng rãi ở nước ta. Doanh nghiệp phải
huy động vốn bằng cách vay ngân hàng nhưng ngân hàng dư thừa vốn ngắn hạn
nhưng thiếu vốn dài hạn.
Tóm lại: trong 10 năm thực hiện đổi mới, hoạt động huy động vốn của các doanh
nghiệp Nhà nước ở nước ta đãđạt được một số thành tựu đáng kể. Nhưng bên
cạnh đó còn một số vấn đề tồn tại như các hình thức huy động vốn chưa được đa
dạng hoá, chủ yếu vốn để kinh doanh, chưa xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu, chi
phí vốn cao, mới đáp ứng được một phần nhu cầu vốn ngắn hạn, chưa đáp ứng
được nhu cầu vốn dài hạn Những nguyên nhân đó dẫn đến tình trạng doanh
nghiệp n bị thiếu vốn trầm trọng trong những năm qua. Vấn đề đặt ra là phải khắc
phục được những tồn tại này để thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước phát triển,

xứng đáng với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta.


Phần III: Giải pháp huy động vốn cho doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay
I. Những trở lực đối với hoạt động huy động vốn ở các DN Nhà nước.
1. Những vướng mắc trong việc đa dạng hóa hình thức
huy động vốn.
Hình thức huy động vốn bằng cách vay ngân hàng đã thể hiện rất nhiều nhược
điểm đòi hỏi doanh nghiệp Nhà nước phải đa dạng hóa hình thức huy động vốn.
Tuy nhiên để đa dạng hoá hình thức huy động vốn thì trước hết phải có các
nguồn vốn và cơ chế pháp lý để điều chế hướng dẫn hoạt động vốn từ các nguồn
này. Hiện nay việc huy động vốn từ các nguồn ngoài nguồn tín dụng ngân hàng
đang gặp phải những khó khăn:
- Huy động vốn từ nguồn chủ sở hữu: Nguồn vốn hình thành vốn chủ sở hữu cho
doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) bao gồm nguồn từ ngân sách Nhà nước và
nguồn từ lợi nhuận để lại. Nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) hiện nay chủ yếu
sử dụng để thành lập mới các doanh nghiệp và bổ xung vốn lưu động cho một số
doanh nghiệp trọng điểm. Ngân sách Nhà nước cấp cho các DNNN đang có xu
hướng giảm dần. Do vốn ít, hiệu quả sản xuất kinh doanh kém lợi nhuận phỉa
trích để nộp khoản thu sử dụng vốn cho NSNN do đó lợi nhuận để lại dùng việc
phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước sản xuất nhỏ. Vì vậy,
việc huy động vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước từ các nguồn hình thành vốn
chủ sở hữu của DNNN là rất khó khăn.
- Huy động vốn từ thị trường chứng khoán: DNNN huy động vốn từ thị trường
chứng khoán chủ yếu bằng cách phát hành trái phiếu công ty. Nghị định 120 /CP
ngày 17/9/1994 cho phép các DNNN phát hành trái phiếu để huy động vốn


nhưng đến nay chưa có DNNN nào phát hành trái phiếu để huy động vốn.
Nguyên nhân chủ yếu là do nước ta chưa thành lập được thị trường chứng khoán

để thúc đẩy việc mua bán trái phiếu, các văn bản pháp lý hướng dẫn được phát
hành trái phiếu công ty còn thiếu và chưa hoàn thiện, hiệu quả sản xuất kinh
doanh ở các DNNN kém do đó người mua trái phiếu rất thận trọng lo ngại công
ty bị phá sản.
- Huy động vốn từ nguồn tín dụng thuê mua: Hiện nay chúng ta đã có một số
công ty cho thuê tài chính ra đời như: Công ty thuê mua và đầu tư của
VietCombank, công ty tín dụng thuê mua của Vietindebank, công ty thuê mua và
tư vấn của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, công ty
thuê tài chính Kexin, công ty liên doanh và thuê tài chính Việt Nam (Vinalease).
Hình thức tín dụng thu mua còn mang tính chất thử nghiệm ở nước ta, cả nước
mới chỉ có Vietnamairline sử dụng để thuê máy bay. Nguyên nhân do các hình
thức này còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ
quản trị kinh doanh của các công ty còn chưa biết hoặc chưa có kinh nghiệm về
loại hình dịch vụ này, môi trường pháp lý còn sơ sài chưa đồng bộ đã gây khó
khăn cho việc triển khai hoạt động của các công ty cho thuê tài chính.
- Ngoài ra, doanh nghiệp Nhà nước còn có thể huy động vốn bằng cách huy động
từ các nguồn tín dụng nhà cung cấp, tạm ứng của khách hàng, nhưng các hình
thức này cũng gặp phải một số khó khăn do qui mô vốn của các doanh nghiệp ở
nước ta nhỏ lại luôn ở trong tình trạng thiếu vốn.
2. Những trở lực về tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước.


Tín dụng đang là nguồn vốn quan trọng nhất đối với DNNN. Hiện nay việc huy
động vốn từ nguồn này đang gặp phải những trở lực sau.
Thứ nhất, thể lệ tín dụng qui định đơn vị vay vốn phải thế chấp tài sản hoặc được
bảo lãnh của người thứ ba đủ thẩm quyền người được bảo lãnh phải thế chấp tài
sản cho người bảo lãnh. Điều này làm cho nhiều DNNN khó có thể vay được vốn
từ ngân hàng nhất là vốn trung hạn và dài hạn. Đây không chỉ là ý kiến từ phía
DNNN mà cả của một số cán bộ tín dụng "nhận khoán" mức cho vay họ nói rằng
trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp vay để xây dựng mới thì làm gì có tài sản

để thế chấp.
Thứ hai, để kiểm soát hoạt động tín dụng và lượng tiền cung ứng, Ngân hàng
Nhà nước qui định hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại và trên cơ sở
hạn mức tín dụng được duyệt ngân hàng thương mại phân phổ hạn mức tín dụng
cho các Tổ chức kinh tế (khách hàng) cả hai loại hạn mức tín dụng trên đều xây
dựng cho một thời gian dài (thường là 1 năm) do vậy dù DNNN có đủ các điều
kiện vay vốn nhưng nếu hạn mức tín dụng không còn thì cũng không thể vay
được vốn tín dụng ngân hàng.
Thứ ba, chính sách lãi suất chưa thể hiện rõ vai trò là đòn bẩy kinh tế chưa thực
sự điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Chính sách lãi suất có thay đổi nhưng thay
đổi còn chậm so với biến động của giá cả. Hiện nay lãi suất ngắn hạn là 1,5%/
tháng lãi suất trung và dài hạn là 1,55%/ tháng. Mức lãi suất này vẫn còn cao hơn
so với tỷ suất lợi nhuận (khả năng sinh lời) của nhiều DNNN với mức lãi suất đó
không mấy DNNN có thể vay đủ vốn của ngân hàng để sử dụng tiền vay có hiệu
quả và trả nợ phần vay đúng hạn. Chính vì lãi suất đầu ra của ngân hàng cao nên


hạn chế qui mô tín dụng, hạn chế khả năng vay vốn của DNNN, trong khi đó các
DNNN luôn ở trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Một nghịch lý khác là hiện
nay các ngân hàng thương mại chỉ huy động vốn ngắn hạn mà khước từ cacs
khoản tiền gửi dài hạn trong khi nền kinh tế đang bị thiếu vốn dài hạn. Rút cuộc
ngân hàng thương mại (NHTM) tồn một lượng khá lớn vốn ngắn hạn trong khi
đó "mặt hàng" vốn dài hạn được nhiều doanh nghiệp hỏi mua mà không có.
Thứ tư, năng lực và trình độ chuyên môn của một số cán bộ tín dụng trong các
NHTM hiện còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới nền kinh tế nhất là các
NHTM ở quận huyện, thủ tục cho vay vốn còn rườm rà đối với khách hàng và
thường chậm chễ so với yêu cầu thời gian cần cấp vốn sản xuất kinh doanh.
3. Những khó khăn về cơ chế quản lý tài chính DN Nhà nước.
Mặc dù, cơ chế quản lý tài chính ở DNNN đã được đổi mới rất nhiều nhưng vẫn
còn một số tồn tại gây khó khăn cho việc huy động vốn của DNNN. Cụ thể là:

- Cơ chế quản lý tài chính hiện nay chưa xác định được rõ ràng quyền về tài sản,
quyền sở hữu của doanh nghiệp đối với vốn. Cơ chế quản lý tài chính ở DNNN
còn phức tạp rườm rà không tại ra được tính linh hoạt trong hoạt động huy động
vốn đặc biệt là sử dụng tài sản để thế chấp.
- Việc Nhà nước qui định DNNN chỉ được huy động vốn với tổng mức dư nợ
không vượt quá vốn điều lệ. Trong tình hình hiện nay điều này chưa phù hợp vì
hiện nay việc huy động vốn bằng cách tăng vốn chủ sở hữu của DNNN là rất khó
khăn do NSNN eo hẹp, tích luỹ từ hoạt động kinh doanh nhỏ doanh nghiệp chủ
yếu huy động vốn bằng cách vay ngân hàng mà hiện nay nợ của DNNN đã vượt
xa vốn tự có do đó nếu qui định tổng mức vốn huy động không được vượt quá


vốn điều lệ thì rất ít DNNN có khả năng huy động được vốn. Đây cũng là một
trong các nguyên nhân chủ yếu gây ra nghịch lý DNNN bị thiếu vốn trầm trọng,
ngân hàng thừa hàng ngàn tỷ đồng.
4. Là những trở lực từ phía doanh nghiệp Nhà nước.
- Qui mốn và và doanh nghiệp nhỏ công nợ lớn. Tài sản thế chấp của doanh
nghiệp có giá trị nhỏ, công nghệ lạc hậu so với thế giới nếu có rủi ro xảy ra thì
việc phát mại của ngân hàng rất khó khăn. Ngân hàng chỉ có thể cho doanh
nghiệp vay một số lượng vốn bằng với vốn tự có của doanh nghiệp nếu vượt quá
vốn tự có thì nếu có rủi ro xảy ra thì ngân hàng là người phải gánh chịu các rủi ro
mất mát. Do đó DNNN rất khó có thể vay một lượng vốn lớn, để có thể tăng
lượng vốn vay thì mấu chốt vấn đề là phải tăng được vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp.
- Hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN hiện nay là rất thấp tình trạng lãng phí
thất thoát vốn sảy ra còn phổ biến dẫn đến thua lỗ, mất khả năng thanh toán của
doanh nghiệp. Điều này làm giám đốc các NHTM e ngại khi đặc bút ký cho các
DNNN vay vốn.
- Công tác kế hoạch hóa tài chính trong các DNNN còn rất yếu. Hoạt động sản
xuất kinh doanh còn mang tính chất buôn chuyến do đó rất khó xác định được

nhu cầu vốn cho một thời kỳ dài hạn làm cho hoạt động huy động vốn thường
xuyên bị động do đó nhiều khi để huy động được vốn doanh nghiệp phải chấp
nhận được chi phí vốn lớn.


- Đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác tài chính của doanh nghiệp còn rất yếu
về trình độ chuyên môn nhất là các nghiệp vụ huy động vốn mới như là tín dụng
thuê mua, phát hành trái phiếu.
II. Những giải pháp huy động vốn cho DN Nhà nước ở nước ta hiện nay.
1. Các giải pháp và tầm vĩ mô.
1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý tài chính ở doanh nghiệp Nhà nước
theo hướng:
- Nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích DNNN chủ động huy động
và tích tụ vốn cho sản xuất kinh doanh.
+ Mở rộng các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp như phát hành trái
phiếu, đa dạng hóa hình thức phát hành trái phiếu Đồng thời có có qui chế
giám sát chặt chẽ để bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư.
+ Cải tiến hệ thống thuế, hệ thống tín dụng, cơ chế lãi suất tạo điều kiện cho
DNNN tham gia vào thị trường vốn với tư cách là chủ thể của thị trường này, cụ
thể:
Đối với hệ thống thuế: Nghiên cứu bãi bỏ tiền thu sử dụng vốn vì các DNNN chủ
sở hữu là Nhà nước vốn là vốn của Nhà nước như vậy đứng trên góc độ chủ sở
hữu không ai lại thu tiền sử dụng vốn vào ngay vốn của mình bỏ ra. Mặt khác,
trong điều kiện hiện nay phần lớn các DNNN đang bị thiếu vốn kinh doanh trầm
trọng, khả năng tích luỹ chưa cho lợi nhuận sau thuế còn ít nhu cầu bổ sung vốn
còn lớn do vậy không nên thu khoản thu này. Trong thực tế hiện nay tổng số tiền
thu vào sử dụng vốn và NSNN hàng năm là không đáng kể, bỏ khoản thu này
DNNN sẽ có thêm điều kiện tích luỹ phát triển sản xuất.



Đối với hệ thống tín dụng: Đặc biệt chú ý đến hình thức tín dụng thuê mua. Nghị
định 64/CP mới là phác thảo ban đầu cần phải hoàn thiện và bổ sung, nâng cao
tính chất pháp lý của văn bản nếu cần có thể ban hành Luật thuê tài chính bên
cạnh Luật ngân hàng. Cần phải có các biện pháp để khuyến khích cả hai bên đi
thuê và cho thuê.
+ Cho phép các Tổng công ty thành lập các công ty tài chính để chủ động thu hút
vốn từ bên ngoài và để thuận lợi cho việc điều hòa vốn giữa các doanh nghiệp
thành viên trong Tổng công ty.
- Tăng cường quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm về vốn và tài sản sở hữu Nhà
nước tại doanh nghiệp:
+ Cho phép DNNN sử dụng linh hoạt các loại vốn quĩ kinh doanh được chuyển
đổi cơ cấu tài sản từ tài sản cố định sang tài sản lưu động và ngược lại.
+ Cho phép các doanh nghiệp chủ động nhượng bán thanh lý những tài sản cố
định nằm ngoài tài sản phục vụ mục tiêu kinh doanh chính và tài sản đặc biệt
được Nhà nước quản lý để thu hồi vốn phục vụ nhu cầu vốn cho hoạt động kinh
doanh mới.
+ Doanh nghiệp Nhà nước được cầm cố thế chấp tài sản để huy động vốn.
1.2. Tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước theo hướng:
+ Sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ để tạo ra các doanh nghiệp lớn có tiềm lực
mạnh về tài chính khắc phục tình trạng phân tán manh mún có qui mô quá nhỏ.
+ Kiên quyết mạnh dạn sử lý các doanh nghiệp kinh doanh thu lỗ kéo dài, mất
vốn bằng cách sáp nhập hoặc tuyên bố phá sản để tập trung vốn cho các DNNN
khác.


+ Sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước: Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước
cần phải khống chế 100% thì Nhà nước phải có kế hoạch bổ xung vốn lưu động
để tạo cho doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh. Đối với các doanh nghiệp
mà Nhà nước không cần phải khống chế 100% tiến hành cổ phần hóa để tạo vốn
doanh nghiệp, Nhà nước giữ cổ phần đủ khống chế doanh nghiệp phần còn lại có

thể bán cho cán bộ công nhân viên và những người bên ngoài có nhu cầu mua cổ
phần.
1.3. Các giải pháp về tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ nhất, đối với một số khoản tín dụng và dự án xin vay của các doanh nghiệp
Nhà nước nên thay thế điều kiện tài sản thế chấp bằng tín chấp hoặc bảo lãnh.
Qui chế bảo l•nh nên bỏ điều kiện người xin bảo lãnh phải thế chấp tài sản tại
ngân hàng bảo lãnh. Cho vay bằng thế chấp ci áp dụng với doanh nghiệp có tính
hình tài chính vững chắc có quan hệ lâu dài với ngân hàng, vay trả sòng phẳng.
Thứ hai, ngân hàng Nhà nước nâng hạn mức tín dụng cho phù hợp khả năng mở
rộng tín dụng của từng ngân hàng thương mại, đáp ứng nhu cầu thu mua, đầu tư
trung và dài hạn, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu. Lúc nhu cầu vốn tăng là biểu hiện kinh tế đã phát triển. Điều chỉnh
hạn mức tín dụng trong "tầm tay" của NHNN tin chắc rằng công cụ này sẽ phát
huy kịp thời để đáp ứng nhu cầu vốn cho DNNN đó cũng là sự thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Thứ ba, qui định lãi suất cho phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế.
Thứ tư, phát triển thị trường chứng khoán, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
hành trái phiếu và cổ phiếu doanh nghiệp để huy động vốn cho DNNN.

×