Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Dược phẩm kinh doanh tại các khu thương mại và thực trạng doanh thu bù chi phí tại đây pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.07 KB, 38 trang )

Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta sau nhiều năm chìm trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấo
đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp nói
riêng. Nền kinh tế đó tất yếu gây lãng phí nghiêm trọng dẫn đến hậu quả khủng
hoảng kinh tế xã hội mà muốn vượt qua phải đổi mới nền kinh tế.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
các doanh nghiệp muốn phát triển tốt phải tính đến hậu quả. Nói cách khác để tồn
tại và phát triển nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong nền kinh tế thị trường thì các
doanh nghiệp phải chú trọng tới mục tiêu lợi nhuận, là mục tiêu kinh tế hàng đầu
đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Với suy nghĩ trên trong thời gian thực tập tại Trung tân TM Dược Mỹ phẩm - Hà
Nội tôi đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề nâng cao lợi nhuận của xí nghiệp và đã
lựa chọn đề tài nghiên cứu là : "Nghiên cứu mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp
và biện pháp tăng lợi nhuận ở Trung tâm TM dược phẩm - Hà Nội "
Nội dung đề tài gồm 3 phần :
Phần thứ nhất : Những vấn đề lý luận cơ bản về lợi nhuận trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp
Phần thứ hai : thực trạng lợi nhuận ở trung tâm TM Dược phẩm - Hà nội
Phần thứ ba : Biện pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở trung tâm TM Dược
phẩm - Hà nội
Phần thứ nhất :
Những vấn đề lý luận cơ bản về lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
I. Lợi nhuậncủa doanh nghiệp :
1. Các quan điểm về lợi nhuận :
Từ trước tới nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về lợi nhuận. Ta có thể
thấy được điều này qua các quan điểm về lợi nhuận sau :
+ Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ
hàng hoá và dịch vụ với chi phí đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó. Việc tính toán
thu nhập hay chi phí đã chi ra là theo giá cả của thị trường mà giá cả thị trường
do quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ quyết định.


+ Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động KD, là chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động KD của doanh nghiệp.
+ Thu nhập của doanh nghiệp hay chính là doan thu bán hàng hoá và dịch vụ trừ
đi toàn bộ chi phí sản xuất ( chi phí về tiền thuê lao động, tiền lương, tiền thuê
nhà cửa, tiền mua vật tư ) thuế hàng hoá và các thứ thuế khác hầu như còn lại
được gọi là lợi nhuận. Có thể biểu diễn qua biểu sau :
Biểu 1 : Mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí, thuế và lợi nhuận.
Doanh thu bán hàng và dịch vụ
Chi phí biến đổi Lãi gộp
Chi phí biến đổi Chi phí cố định Lợi nhuận trước thuế
Tổng chi phí sản xuất Thuế Lợi nhuận thuần túy
1. Các loại lợi nhuận của doanh nghiệp :
Trong doanh nghiệp, có nhiều loại hình lợi nhuận khác nhau, ta có thể khái quát
thành các loại lợi nhuận sau :
+ Lợi nhuận trước thuế.
+ Lợi nhuận sau thuế.
II: Các nguồn lợi nhuận
Nội dung hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng,
do đó lợi nhuận đạt được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
Thứ nhất : Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ là
khoản chênh lệch giữa doanh thu về tiêu thụ và chi phí của khối lượng sản phẩm
hàng hoá lao vụ thuộc các hoạt động kinh doanh chính phụ của doanh nghiệp.
Thứ hai : Lợi nhuận của các hoạt động liên doanh liên kết là số chênh lệch giữa
thu nhập phân chia từ kết qủa hoạt động liên doanh liên kết với chi phí của doanh
nghiệp đã chi ra để tham gia liên doanh.
Thứ ba : Lợi nhuận thu được từ các nghiệp vụ tài chính là chênh lệch giữa các
khoản thu chi thuộc các nghiệp vụ tài chính trong quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
Thứ tư : Lợi nhuận do các hoạt động sản xuất kinh doanh khác mang lại là lợi

nhuận thu được do kết quả của hoạt động kinh tế khác ngoài các hoạt động kinh
tế trên.
Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ
một doanh nghiệp nào. Vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị
trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không thì điều quyết định là
doanh nghiệp đó phải tạo ra lợi nhuận. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong
những đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động
của doanh nghiệp. Việc thực hiện các chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng
đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc.
Lợi nhuận của quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công ng hiệp là chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình kinh
doanh, của tất cả các mặt hoạt động trong quá trình kinh doanh ấy, nó phản ánh
cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh, của hoạt động kinh doanh.
Công việc kinh doanh tốt sẽ đem lại lợi nhuận nhiều từ đó lợi nhuận có khả năng
tiếp tục quá trình kinh doanh có chất lượng và hiệu quả hơn. Trong trường hợp
ngược lại doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ nếu kéo dài có thể
dẫn đến phá sản.
III. Các nhân tố tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Trong trường hợp các nhân tố khác không biến động ( nhân tố về giá cả, giá
thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá dịch vụ tiêu thụ, thuế ) thì sản lượng tiêu thụ
tăng giảm bao nhiêu lần tổng số lợi nhuận tiêu thụ cũng tăng giảm bấy nhiêu.
Nhân tố này được coi là nhân tố chủ quan của doanh nghiệp trong công tác quản
lý kinh doan nói chung và quản lý tiêu thụ nói riêng. Việc tăng sản lượng tiêu thụ
phản ánh kết quả tích cực của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu chuẩn bị
tiêu thụ và tiêu thụ sản phẩm.
*. Nhân tố kết cấu mặt hàng tiêu thụ :
Việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ có liên quan đến việc xác định chính
sách sản phẩm, cơ cấu mặt hàng của doanh nghiệp. Mỗi loại mặt hàng có tỷ trọng
mức lãi lỗ khác nhau do đó nếu tăng tỷ trọng những mặt hàng có mức lãi cao,

giảm tỷ trọng tiêu thụ những mặt hàng có mức lãi thấp thì mặc dù tổng sản lượng
tiêu thụ có thể không đổi nhưng tổng số lợi nhuận có thể vẫn tăng.
Việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ lại chịu ảnh hưởng của nhu cầu thị
trường. Về ý muốn chủ quan thì doanh nghiệp nào cũng muốn tiêu thụ nhiều
những mặt hàng mang lại lợi nhuạan cao song ý muốn đó phải đặt trong mối
quan hệ cung cầu trên thị trường và những nhân tố khách quan tác động.
*. Nhân tố giá bán sản phẩm :
Trong điều kiện bình thường đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bình
thường, giá bán sản phẩm do doanh nghiệp xác định. Trong trường hợp này giá
bán sản phẩm thay đổi thường do chất lượng sản phẩm thay đổi. Do việc thay đổi
này mang tính chất chủ quan, tức là phản ánh kết quả chủ quan của doanh nghiệp
trong quản lý sản xuất kinh doanh nói chung và quản lý chất lượng nói riêng. Khi
giá bán sản phẩm tăng sẽ làm tổng số lợi nhuận tiêu thụ. Từ phân cáchg trên có
thể suy ra rằng việc cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp cơ bản để
tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác việc thay đổi giá bán cũng do tác
động của quan hệ cung cầu, của cạnh tranh đây là tác động của yếu tố khách
quan.
*. Nhân tố giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ :
Giá thành toàn bộ sản phẩm là tập hợp toàn bộ các khoản mục chi phí mà doanh
nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giá thành sản phẩm cao hay
thấp phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng lao động, vật tư kỹ thuật, tiền
vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như sản lượng
sản xuất, giá cả, mức thuế không thay đổi thì việc giảm giá thành sẽ là nhân tố
tích cực ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
*. Nhân tố thuế nộp ngân sách :
ảnh hưởng của thuế đối với lợi nhuận là không theo cùng một tỷ lệ. Việc tăng
giảm thuế là do yếu tố khách quan quyết định ( chính sách, luật định của nhà
nước ). Với mức thuế càng cao thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng giảm nhưng
doanh nghiệp vẫn phải có nghĩa vụ đóng thuế đầy đủ cho nhà nước.
*. Chế độ phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp :

Lợi nhuận tạo ra sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh một phần được trích nộp
vào ngân sách nhà nước, một phần để lại doanh nghiệp.
Phần trích nộp vào ngân sách nhà nước biểu hiện ở hình thức nộp thuế lợi tức đối
với bất kỳ một doanh nghiệp nào ( tỷ lệ nộp thuế lợi tức đối với các doanh nghiệp
sản xuất thường nlà 25% và 45% đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ.
Phần để lại doanh nghiệp được trích vào 3 qũy đó là qũy khuyến khích phát triển
sản xuất, qũy phúc lợi và qũy khen thưởng theo các tỷ lệ sau :
Qũy khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh > 35%.
Qũy phúc lợi và khen thưởng < 65%.
Việc trích lợi nhuận vào qũy khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh giúp
cho doanh nghiệp có tích lũy tạo khả năng tái sản xuất mở rộng nhằm phát triển
quy mô sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ có khả năng đầu
tư đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng
cạnh tranh từ đó có điều kiện tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn, đạt lợi nhuận
cao hơn.
Còn phần trích vào qũy phúc lợi và qũy khen thưởng nhằm mục tiêu tạo ra công
cụ khuyến khích người lao động không ngừng nâng cao tay nghề và trình độ,
tăng năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao đời sống của
người lao động, là động lực giúp cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp
hơn.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp và tính tất yếu của
việc nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp :
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả các
mặt hàng hoạt động kinh doanh. Dưới đây ta đi sâu vào xem xét cụ thể từng nhân
tố ảnh hưởng đến lợi nhuận.
1.1 Quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ trên thị trường :
Do tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo nguồn cơ chế thị trường nên
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố quan hệ cung - cầu hàng hoá
dịch vụ. Sự biến động này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự ứng xử thích hợp để thu được lợi
nhuận. Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn trên thị trường sẽ cho phép các doanh
nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh để đảm bảo cung lớn. Điều đó tạo khả
năng lợi nhuận của từng đơn vị sản phẩm hàng hoá, nhưng đặc biệt quan trọng là
tăng tổng số lợi nhuận. Cung thấp hơn cầu sẽ có khả năng định giá bán hàng hoá
và dịch vụ, ngược lại cung cao hơn cầu thì giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ thấp
điều này ảnh hưởng đến lợi nhuận của từng sản phẩm hàng hoá hay tổng số lợi
nhuận thu được.
Trong kinh doanh các doanh nghiệp coi trọng khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu
thụ, còn giá cả có thể chấp nhận ở mức hợp lý để có lãi cho cả doanh nghiệp
công nghiệp và doanh nghiệp thương mại, khuyến khích khách hàng có thể mua
với khối lượng lớn nhất để có tổng mức lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy các doanh
nghiệp phải tìm các biện pháp kích thích cầu hàng hoá và dịch vụ của mình, nhất
là cầu có khả năng thanh toán bằng cách nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch
vụ, cải tiến phương thức bán
1.2 Chất lượng công tác chuẩn bị cho quá trình kinh doanh :
Để cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp đạt tới lợi nhuận
nhiều và hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị tốt các điều
kiện, các yếu tố chi phí thấp nhất. Các đầu vào được lựa chọn tối ưu sẽ tạo khả
năng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí hoạt động
và giá thành sản phẩm giảm. Do đó cơ sở để tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp
công nghiệp là chuẩn bị các đầu vào hợp lý, tiết kiệm tạo khả năng tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
Nội dung của công tác chuẩn bị cho quá trình sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào
nhiệm vụ, tính chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Trước hết đó là chuẩn bị tốt về khâu thiết kế sản phẩm và công nghệ sản xuất.
Thiết kế sản phẩm và công nghệ chế tạo hợp lý sẽ tạo điều kiện giảm thời gian
chế tạo, hạ giá thành, tạo lợi nhuận cho quá trình tiêu thụ.
Tiếp đó là chuẩn bị tốt các yếu tố vật chất cần thiết cho quá trình hoạt động như
lao động ( số lượng, chất lượng, cơ cấu ) máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất

được thuận lợi, nhịp nhàng và liên tục giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Cuối cùng là doanh nghiệp phải có phương án hợp lý về tổ chức điều hành quá
trình sản xuất ( tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý ).
1.3 Nhân tố về trình độ tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm :
Tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá và dịch vụ là quá trình thực hiện
sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố đầu vào như lao động, vật tư, kỹ thuật để chế
tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Qúa trình này tiến hành tốt hay xấu ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tạo ra số lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chất lượng
sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chi phí sử dụng các yêu tố để sản xuất ra sản phẩm
hàng hoá dịch vụ đó.
Điều đó chứng tỏ rằng muốn tạo ra lợi nhuận cao cần phải có trình độ tổ chức sản
xuất sao cho tiết kiệm được chi phí ở mức tối đa mà không ảnh hưởng đến chất
lượng của sản phẩm tiêu thụ.
1.4 Nhân tố trình độ tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ :
Sau khi doanh nghiệp đã sản xuất được sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo quyết
định tối ưu về sản xuất thì khâu tiếp theo sẽ là phải tổ chức bán nhanh, bán hết,
bán với giá cao những hàng hoá và dịch vụ đó để thu được tiền về cho quá trình
tái sản xuất mở rộng tiếp theo.
Lợi nhuận của quá trình hoạt động kinh doanh chỉ có thể thu được sau khi thực
hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Do đó tổ chức tiêu thụ
khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ tiết kiệm chi phí tiêu thụ sẽ cho ta khả năng
lợi nhuận. Để thực hiện tốt công tác này doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng
các mặt hàng hoạt động về tổ chức mạng lưới kênh tiêu thụ sản phẩm, công tác
quảng cáo marketing, các phương thức bán và dịch vụ sau bán hàng.
1.5 Trình độ tổ chức và quản lý quá trình kinh doanh của doanh nghiệp :
Tổ chức quản lý quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp là một
nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá trình
quản lý kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp bao gồm các khâu cơ bản như
định hướng chiến lược phát triển của doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh
doanh, xây dựng các phương án kinh doanh, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các

hoạt động kinh doanh. Các khâu quản lý quá trình hoạt động kinh doanh tốt sẽ
tăng sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi
chí quản lý. Đó là điều kiện quan trọng để tăng lợi nhuận.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp qua phân tích ở trên phải
chính do doanh nghiệp khắc phục bằng chính ý chí chủ quan muốn đạt được lợi
nhuận cao của mình. Ngoài ra còn có những nhân tố ảnh hưởng khách quan từ
phía bên ngoài môi trường kinh doanh đó là nhân tố chính sách kinh tế vĩ mô của
nhà nước.
1.6 Chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước :
Doanh nghiệp là một tế bào của hệ thống kinh tế quốc dân, hoạt động của nó
ngoài việc bị chi phối bởi các quy luật của thị trường nó còn bị chi phối bởi
những chính sách kinh tế của nhà nước ( chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ,
chính sách tỷ giá hối đoái )
Trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước cần nghiên cứu kỹ
các nhân tố này. Vì như chính sách tài khoá thay đổi tức là mức thuế thay đổi sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp, hoặc khi chính sách tiền tệ
thay đổi có thể là mức lãi giảm đi hay tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
vay vốn của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
công nghiệp. Các nhân tố này được tiếp cận theo quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp, chúng có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Việc nghiên cứu các nhân tố này
cho phép xác định các yêu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến lợi nhuận
của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xác định các biện pháp nâng cao lợi nhuận của
doanh nghiệp trong điều kiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
V. Các biện pháp cơ bản nhằm tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp
Qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận ở phần trên ta
có thể đưa ra một số biện pháp chính nhằm tăng lợi nhuận trong các doanh
nghiệp như sau :
2.1 Tăng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu trong nước và quốc tế trên
cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ .

Nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng hay của thị trường rất đa dạng và phong
phú, dễ biến động. Trong điều kiện các nhân tố khác ổn định thì việc tăng lượng
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu thị trường sẽ làm tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp. Muốn tăng được khối lượng sản phẩm tiêu thụ cần chuẩn bị tốt các
yếu tố và điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành
thuận lợi, tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh một cách cân đối nhịp nhàng
và liên tục, khuyến khích người lao động tăng nhanh năng suất lao động.
Phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ : Nhu cầu thị
trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, phấn
đấu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm tiêu thụ là điều
kiện để tăng nhanh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp từ đó giúp tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp. Đối với những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao
cho ta khả năng nâng cao giá trị và giá trị sử dụng nâng cao khả năng cạnh tranh
trên thị trường. Nhưng để nâng cao được chất lượng sản phẩm đòi hỏi bản thân
doanh nghiệp phải nỗ lực cố gắng.
2.2 Tăng cường tiêu thụ những sản phẩm có tỷ trọng lợi nhuận cao :
Mỗi doanh nghiệp thu được những nguồn lợi nhuận khác nhau từ những mặt
hàng tiêu thụ khác nhau. Đối với những mặt hàng tiêu thụ có tỷ trọng lợi nhuận
lớn doanh nghiệp phải phấn đấu tăng lượng tiêu thụ và chú trọng vào sản xuất
mặt hàng đó nhiều hơn. Trong điều kiện cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp phải sản xuất kinh doanh theo kiểu tổng hợp do vậy mà cơ cấu mặt hàng
rất đa dạng và phong phú. Có thể có mặt hàng không có lãi hay lãi thấp, có mặt
hàng có lãi cao vậy để tăng lợi nhuận doanh nghiệp nên chú trọng việc tăng mặt
hàng thu được lợi nhuận cao.
2.3 Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và các chi phí khác nhằm tăng lợi nhuận của
doanh nghiệp :
Đây là nhân tố quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, giá thành là tổng
hợp của nhiều nhân tố chi phí tạo nên trong đó bao gồm các chi phí chính như :
Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng thứ nữa là các chi phí tiền lương,
tiền công và cuối cùng là chi phí cố định ( thể hiện qua việc khấu hao tài sản cố

định hàng năm được tính vào giá thành ) do vậy để hạ giá thành sản phẩm cần
phải giảm các nhân tố chi phí trên :
- Biện pháp tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng : Cần phải cải tiến định mức
tiêu hao, cải tiến phương pháp công nghệ, sử dụng tổng hợp nguyên liệu, vật liệu
thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, vận chuyển, bảo quản và
tiết kiệm nguyên vật liệu.
ảnh hưởng của biện pháp này đến việc hạ giá thành sản phẩm được tính theo
công thức :
Chỉ số hạ giá thành do giảm chi phí NVL = Chỉ số định mức NVL x Chỉ số
giácả -1 x Chỉ số tỷ trọng NVL trong giá thành sản phẩm
- Biện pháp giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm :
Muốn giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm cần tăng
nhanh năng suất lao động bằng cách cải tiến công tác tổ chức sản xuất, tổ chức
lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghiệp, nâng cao trình độ
người lao động, có chế độ khuyến khích người lao động thích hợp bằng cách áp
dụng hình thức lương hưởng đúng mức.
Năng suất lao động tăng nhanh hơn chi phí về tiền lương bình quân sẽ cho phép
giảm chi phí trong giá thành sản phẩm. Do đó khoản mục chi phí và tiền công
trong giá thành sản phẩm sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong giá
thành sản phẩm.
ảnh hưởng của việc giảm chi phí tiền lương sẽ được tính toán theo công thức :
Chỉ số hạ giá thành sản phẩm do tăng năng suất lao động = Chỉ số tiền lương
bình quân - 1 x Chỉ số chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm
Chỉ số tăng năng suất lao động
- Biện pháp giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm : Giảm chi phí cố
định ở đây không có nghĩa là phải đầu tư những công nghệ rẻ tiền, cũ kỹ mà phải
sử dụng những công nghệ tiên tiến nhằm tăng lượng sản phẩm sản xuất ra. Tốc
độ tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi phí cố định trong giá thành sản phẩm
giảm vì tốc độ tăng chi phí nhỏ hơn tốc độ tăng sản phẩm. Như vậy để tăng
lượng sản phẩm sản xuất, phải mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao

động.
ảnh hưởng của biện pháp này được xác định theo công thức :
Chỉ số giảm giá thành do giảm chi phí cố định = Chỉ số chi phí cố định - 1
x Chỉ số chi phí cố định trong giá thành sản phẩm
Chỉ số sản lượng
Trên cơ sở tính toán được ảnh hưởng của các nhân tố trong giá thành sản phẩm ta
phải kết hợp các nhân tố để làm sao giảm được các chi phí ở mức tối ưu ( không
nhất thiết là giảm càng nhiều càng tốt như vậy sẽ ảnh hưởng tới chất lượng sản
phẩm ).
2.4 Tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhằm giảm chi phí
tiêu thụ:
Để thấy được hiệu quả rõ rệt của hoạt động kinh doanh thì nhất thiết phải làm tốt
khâu tiêu thụ sản phẩm. Dù cho sản phẩm có chất lượng tốt như thế nào, công tác
sản xuất có hiệu quả đến mấy mà sản phẩm không tiêu thụ được thì sẽ không có
lợi nhuận. Để thực hiện tốt công tác này cần có những biện pháp xúc tiến bán
hàng như quảng cao, khuyến mại các kênh tiêu thụ phân phối hợp lý, làm tốt
công tác dịch vụ sau bán hàng.
VI. Sự cần thiết nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp:
1 Vai trò của nâng cao lợi nhuận với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp :
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường điều đầu tiên mà
họ quan tâm đó là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu
quả của quá trình kinh doanh, đồng thời đó còn là yếu tố sống còn của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn tại và hoạt động khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh
nghiệp hoạt động không có hiệu quả thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì
doanh nghiệp đó đi đến chỗ phá sản. Từ trước đến nay nước ra có hàng loạt các
xí nghiệp, doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể do làm ăn không có hiệu quả,
trong đó có cả xí nghiệp nhà nước, tư nhân Đặc biệt trong điều kiện hiện nay,
cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực
kỳ quan trọng và có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp.
- Tạo ra khả năng để tiếp tục kinh doanh có chất lượng và hiệu quả cao hơn.

- Đảm bảo tái sản xuất mở rộng.
- Việc không ngừng nâng cao lợi nhuận là đảm bảo hiệu quả kinh doanh thể hiện
năng lực, trình độ quản lý sản xuất và sự năng động của đội ngũ cán bộ quản lý
sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế
thị trường, một doanh nghiệp tạo được lợi nhuận chứng tỏ là đã thích nghi với cơ
chế thị trường.
- Lợi nhuận càng cao thể hiện sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp càng vững
chắc, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện đầu tư chiều sâu và
đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, tăng khả
năng cạnh trạnh từ đây là tạo đà nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Sản xuất kinh doanh có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao sẽ có điều kiện nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống người lao động. Ngoài phần tiền công mà mỗi lao
động nhận được theo nguyên tắc phân phối theo lao động , lợi nhuận của doanh
nghiệp còn góp phần nâng cao thu nhập của người lao động thông qua phần phối
phối vào qũy phúc lợi và qũy khen thưởng. Chính yếu tố kinh tế đó sẽ tạo nên sự
gắn bó của cán bộ công nhân với doanh nghiệp.
- Lợi nhuận là điều kiện tài chính để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm với xã hội. Thông qua việc nộp ngân sách đầy đủ sẽ giúp cho nhà nước
thực hiện công tác phúc lợi đối với xã hội, đất nước tạo điều kiện cho đất nước
phát triển, thực hiện tốt chủ trương công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì
mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân nên bản thân doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả thì nền kinh tế trong nước mới phát triển.
2.2 Đối với nhà nước :
Khi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đạt được lợi nhuận
cao thì Nhà nước cũng có lợi :
- Tăng nhiều sản phẩm cho xã hội.
- Chất lượng tăng, giá bán hạ làm ổn định nền kinh tế.
- Tăng nguồn thu cho ngân sách.
- Tạo điều kiện cải thiện và nâng cao mức sống cho người dân.
- Đảm bảo tăng trưởng kinh tế

II .Phân tích thực trạng lợi nhuận của Trung tâm Thương mại dược mỹ phẩm
2.1. Khái quát về tình hình trung tâm
2.3.1. Đặc điểm và tình hình của trung tâm dịch vụ thương mại dược mỹ phẩm -
Tổng Công ty dược Việt Nam.
2.3.1.1. Đặc điểm tổ chức kinh doanh của trung tâm :
Trung tâm được cấp đăng ký kinh doanh ngày 23/10/1996. Số đăng ký kinh
doanh là : 111336 do Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội cấp.
2.3.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp :
Tên doanh nghiệp : Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm - Tổng Công
ty Dược Việt Nam.
Trụ sở chính : Số 95 - phố Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội.
Trung tâm dịch vụ Thương mại Dược mỹ phẩm thuộc Tổng Công ty Dược Việt
Nam được thành lập năm 1992 với tên gọi là Trung tâm hỗ trợ và phát triển
Dược.
Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm được thành lập theo quyết định số
46b/BYT-QĐ ngày 30/3/1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Căn cứ vào quyết định số 1693/BYT-QĐ ngày 28/9/1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế
v/v phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng Công ty Dược Việt Nam.
Căn cứ công văn số 3540/TCCB ngày 28/5/1997 của Bộ Y tế đồng ý cho Tổng
Công ty Dược Việt Nam thành lập Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ
phẩm.
Theo đề nghị của ông trưởng phòng tổ chức - LDTL Tổng Công ty Dược Việt
Nam: Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm là đơn vị hạch toán phụ
thuộc trực tiếp Tổng Công ty Dược Việt Nam, có tư cách pháp nhân, có con dấu
riêng và được mở tài khoản chuyên thu, chuyên chi tại ngân hàng quận Đống Đa
theo đúng các chế độ quy định hiện hành của Nhà nước.
Công ty ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam đang chuyển dần từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong sự thay đổi của nền kinh tế đất nước, việc sản xuất và kinh

doanh Dược - Mỹ phẩm đã có những thay đổi phù hợp với thị trường, Công ty đã
trở thành nơi kinh doanh các mặt hàng do các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty
sản xuất của các doanh nghiệp ngày càng có hiệu quả. Các mặt hàng trung tâm
kinh doanh ngày càng phong phú hơn, đáp ứng ngày càng cao về chủng loại và
chất lượng. Trong quá trình kinh doanh sự thay đổi, bổ sung các mặt hàng được
tiến hành theo nhu cầu của thị trường.
2.3.1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ
phẩm - Tổng Công ty Dược Việt Nam.
Theo đúng đăng ký kinh doanh Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm
thì Công ty có những chức năng, nhiệm vụ sau :
+ Kinh doanh đại lý các sản phẩm thuốc chữa bệnh (thuốc chuyên khoa, biệt
dược, thuốc y học dân tộc ) dược liệu, tinh dầu, hương liệu, phụ liệu, mỹ phẩm,
dụng cụ y tế, kính mắt, thực phẩm sinh dưỡng.
+ Dịch vụ tư vấn về tiếp cận thị trường, thông tin, quảng cáo, hội thảo, hội chợ
triển lãm, chu chuyển kho bãi đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.
+ Trung tâm chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng giám đốc, đồng thời chịu sự chỉ
đạo về nghiệp vụ chuyên môn của các phòng ban, văn phòng Tổng Công ty Dược
Việt Nam nhằm thực hiện đúng chế độ quy định của Nhà nước.
+ Trung tâm đăng ký kinh doanh và kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký,
chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về kết quả hoạt động của trung tâm.
+ Chịu trách nhiệm trước khách hàng, trước pháp luật về sản phẩm và dịch vụ do
Trung tâm thực hiện.
+ Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩmvới chức năng kinh doanh dược
phẩm, nguyên liệu làm thuốc và thiết bị dụng cụ y tế, được phép liên kết với các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để nhập và bán các mặt hàng dược
phẩm, mỹ phẩm, nguyên liệu, dụng cụ thiết bị y tế sản xuất trong nước và nhập
khẩu đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam và các tiêu chuẩn khác.
+ Trung tâm có nhiệm vụ phân phối các sản phẩm và tung các mặt hàng ra thị
trường cả nước, cộng tác trao đổi đầu tư vốn và mở rộng thị trường nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh trên thị trường đảm bảo kinh doanh theo đúng các chế độ

của Nhà nước, chấp hành đầy đủ nghĩa vụ giao nộp ngân sách về thuế, đảm bảo
thu nhập cho người lao động, đảm bảo công bằng xã hội và các quyền lợi khác
như phúc lợi, bảo hiểm cho cán bộ công nhân viên của Trung tâm, đảm bảo hình
thành ba lợi ích: với Nhà nước, tập thể và người lao động.
+ Thực hiện tốt công tác bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản và trật tự trị an tại
Trung tâm.
+ Thực hiện các chế độ báo cáo thống kê, kế toán, hạch toán, báo cáo định kỳ và
báo cáo bất thường theo yêu cầu của cấp trên và của Tổng Công ty.
2.3.1.1.3. Đặc điểm kinh doanh của Trung tâm:
Ngày 23/10/1996 Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm đã trở thành
một doanh nghiệp Nhà nước theo đúng nghĩa của nó nhưng trong hoạt động kinh
doanh, Công ty phải tuân thủ theo các quy định Nhà nước và Tổng Công ty Dược
những quy định này đã làm cho mô hình kinh doanh như một doanh nghiệp
thương mại của Công ty có những đặc điểm:
Về địa bàn kinh doanh Công ty tập trung chủ yếu bán buôn thuốc cho các bệnh
viện trong Hà Nội và các tỉnh phía Bắc và phát triển trên địa bàn các tỉnh Vĩnh
Long, Trà Vinh, Bến Tre, Đà Nẵng, Đồng Tháp
Trung tâm hoạt động với công nghệ bán hàng truyền thống vì tính đặc biệt của
mặt hàng thuốc, mỹ phẩm nên đòi hỏi nhân viên bán hàng phải là người có bằng
cấp về dược, họ phải hướng dẫn cho khách hàng cách sử dụng, liều lượng họ
phải làm từ A - Z.
Về địa điểm kinh doanh vì kinh doanh mặt hàng thuốc, mỹ phẩm không như các
mặt hàng khác nên tại Công ty là nơi giao nhau giữa được Láng Hạ và Thái
Thịnh, một vị trí thuận lợi cho kinh doanh, ngoài ra Trung tâm có các quầy thuốc
bán buôn, bán lẻ và các quầy bán tại Trung tâm triển lãm Giảng Võ cùng nhiều
địa điểm khác.
Về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật của Trung tâm tương đối đầy đủ, phục vụ
cho các quầy hàng có điều kiện đảm bảo trong kinh doanh, và phù hợp với tính
chất đặc biệt của các mặt hàng thuốc, mỹ phẩm có kho bãi lưu giữ hàng hoá một
cách đảm bảo an toàn.

Qua trên ta thấy Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm là đơn vị thành
viên thuộc Tổng Công ty Dược Việt Nam, Trung tâm đã nhập hàng của các xí
nghiệp, Công ty đã sản xuất để tiêu thụ tạo nên sự liên kết chặt chẽ trong nội bộ
Tổng Công ty tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Nhà nước, các Công ty TNHH
tiếp cận thị trường và phát triển hàng trên thị trường.
2.3.1.1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy và lao động:
Chúng ta có thể xem xét cơ cấu tổ chức của Công ty Thương mại Dược mỹ phẩm
qua sơ đồ sau
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của Công ty Thương mại Dược mỹ phẩm
Đứng đầu của Trung tâm là Giám đốc có chức năng tổ chức điều hành mọi hoạt
động của Công ty và đại diện cho mọi quyền lợi và nghĩa vụ của Trung tâm trước
pháp luật và trước các cơ quan quản lý Nhà nước. Giúp giám đốc Công ty là Phó
giám đốc.
Tổ chức bộ máy nhân sự của Trung tâm do giám đốc quyết định phù hợp với quy
chế phân cấp hiện hành của Bộ Thương mại.
Phòng thị trường: Làm nhiệm vụ đề xuất với giám đốc chính sách thị trường,
thương nhân và các biện pháp duy trì mới nhất về biến động giá cả. Tìm kiếm
khách hàng và có biện pháp giữ khách hàng và tổ chức đàm phán có kết quả.
Phòng tài chính kế hoạch: Tổ chức toàn bộ nội dung công tác kế toán của Trung
tâm từ quy định biểu mẫu chính về kinh tế và trình tự luân chuyển chứng từ kế
toán. Đến việc lập báo cáo tài chính phân tích hoạt động kinh tế, theo dõi và quản
lý vốn.
2.3.1.1.5. Tình hình kết quả kinh doanh của Công ty trong 2 năm 1999 - 2000:
Trung tâm dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm thuộc Tổng Công ty dược Việt
Nam có thành tích thi đua xuất sắc trong ngành dược tại Hà Nội. Hiện nay trung
tâm đã sắp xếp lại mạng lưới bán hàng từ Trung tâm đến các trạm kinh doanh để
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Trung tâm thực hiện tốt mọi quy định
cũng như nộp ngân sách Nhà nước.
2.1.4. thị trường tiêu thụ sản phẩm
Tính chất của sản phẩm chủ yếu là dược phẩm, Số lượng hàng nhập về từng lô

hàng, từng loại cho nên khi nhận đơn đặt hàng của khách hàng thì Trung tâm chỉ
việc đóng hàng chuyển gia xe cho khách.
2.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của trung tâm trong 2 năm 1999,
2000.
Muốn xem xét Trung tâm kinh doanh có lãi không, hiệu quả đạt được có cao
không: Trước hết ta phải đi sâu vào phân tích kết quả kinh doanh của Trung tâm
qua một số năm gần đây nó được thể hiện qua những nét sau:
* Kết quả kinh doanh của Trung tâm về chỉ tiêu doanh thu là một chỉ tiêu quan
trọng, là kết quả đầu tiên và trực tiếp của toàn bộ hoạt động kinh doanh, mức độ
đáp ứng nhu cầu trên thị trường cũng như sức cạnh tranh của Trung tâm, nó cũng
được thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của Trung tâm.
Để thấy rõ kết quả kinh doanh của Trung tâm ta xem xét chỉ tiêu lợi nhuận, lợi
nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng hoạt động kinh doanh của Trung
tâm. Nó thể hiện những cố gắng trong tất cả các khâu của quá trình kinh doanh
và cũng là nhân tốt chủ yếu để đánh giá hiệu quả kinh doanh của Trung tâm
2.3. Thực trạng quản lý chính sách tín dụng thương mại ở Trung tâm dịch vụ
thương mại Dược Mỹ phẩm.
Để xem xét công tác quản lý, sử dụng chính sách tín dụng thương mại cũng như
hiệu quả tín dựng thương mại của Trung tâm trong những năm gần đây ta không
thể quan tâm đến tỷ trọng của từng bộ phận của tín dụng thương mại và công
dụng kinh tế của chúng. Muốn thuận lợi trong công tác quản lý và đánh giá,
người ta thường phân chia thành 3 bộ phận: thời kỳ cấp tín dụng thương mại, triết
khấu tiền mặt và thời kỳ triết khấu loại công cụ tín dụng thương mại.
2.4. Phân tích thực trạng về lợi nhuậnvà tăng lợi nhuận của Trung tâm thương
mại Dược mỹ phẩm Hà Nội
Các chỉ tiêu
Kết quả hoạt động kinh doanh là một chỉ tiêu tổng hợp nhất đánh giá hiệu quả sử
dụng tín dụng thương mại của một doanh nghiệp. Trong thời gian qua mặc dù có
những lúc gặp khó khăn nhưng với nỗ lực của tập thể cán bộ nhân viên toàn thị
trường, Trung tâm dịch vụ thương mại dược mỹ phẩm đã đạt được những thành

tựu đáng kể. Trên bảng báo cáo quyết toán nên ta nhận thấy khả năng kinh doanh
của Trung tâm có xu hướng tăng.
Nguyên nhân chủ yếu của sự tăng này là do xí nghiệp liên tục nâng cao chất
lượng và khai thác hàng hoá tích cực tìm kiếm thị trường và đáp ứng tốt nhu cầu
thị trường. Như vậy Trung tâm ngày càng khẳng định uy tín của mình trên thị
trường làm cho doanh thu kinh doanh ngày càng cao góp phần làm tăng lợi
nhuận cho Trung tâm.
2.4.1. Hiệu quả sử dụng tín dụng thương mại.
Để đảm bảo quá trình hoạt động kinh doanh của Trung tâm trong cơ cấu tín dụng
thương mại nếu biết sử dụng đúng mục đích kinh doanh thì nó sẽ đem lại hiệu
quả cao. Trung tâm luôn đưa giá một giá hàng đúng mực để khách hàng trả tiền
ngay hoặc Trung tâm triết khấu giá hàng để thu tiền nhanh. Điều cốt yếu Trung
tâm làm như vậy để thu tiền được nhanh quay vòng vốn nhiều thì lợi nhuận sẽ
cao nhiều vì thế muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả vốn lưu động vận động
không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển
của vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết nhu cầu vốn lưu động cho Trung tâm từ
đó nâng cao hiệu quả sử dụng tín dụng thương mại. Để đánh giá tốc độ luân
chuyển của vốn lưu động người ta thường sử dụng các chỉ tiêu vòng quay của
vốn lưu động, thời gian của một vòng luân chuyển, hệ số đảm nhiệm vốn lưu
động.
+ Số vòng quay của vốn lưu động đã quay được bao nhiêu vòng (tức là trải qua
bao nhiêu kỳ kinh doanh) trong một năm. Như vậy, có thể khẳng định rằng vòng
quay của vốn lưu động càng tăng thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao, tạo doanh
thu và lợi nhuận cao hơn. Ngược lại, vòng quay của vốn lưu động càng giảm thì
hiệu quả sử dụng vốn làm giảm thì hiệu quả sử dụng vốn làm giảm doanh thu và
hiệu quả kinh doanh.
+ Thời gian của một vòng luân chuyển.
Chỉ tiêu này phản ánh gần tương tự nhưng rõ nét hơn về số vòng quay của vốn
lưu động. Nếu số vòng quay tăng tức là thời gian một vòng luân chuyển giảm,
còn số vòng quay giảm tức là thời gian một vòng luân chuyển tăng. Trung tâm

dịch vụ thương mại Dược mỹ phẩm đ• dần dần giảm được thời gian một vòng
luân chuyển xuống thấp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
+ Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động.
Ngoài hai chỉ tiêu vòng quay và thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động,
để đánh giá mức tiết kiệm TS lưu động người ta còn dùng chỉ tiêu hệ đảm nhiệm
vốn lưu động.
2.4.2. Đánh giá chung tình hình sử dụng tín dụng thương mại ở Trung tâm.
Từ khi thành lập và đi vào hoạt động kinh doanh cho đến nay, trong suốt quá
trình hoạt động kinh doanh Trung tâm chưa làm hết công việc tín dụng thương
mại. Qua bảng phân tích kinh doanh hoạt động của Trung tâm được đánh giá như
sau.
- Trong nhiều trường hợp, các phiếu nợ phải thu phát sinh do khách hàng của
doanh nghiệp không thanh toán phù hợp với thời hạn tín dụng, và phiếu nhận nợ
được thu nhằm nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Các phiếu nợ phải thu nhiều
hơn so với các khoản được thu, cho nên Trung tâm luôn sát sao để quyết định
tính hợp lý và tính chính xác của các phiếu nợ.
Qua nhược điểm trên bên cạnh đó còn một số ưu điểm của Trung tâm.
- Nhờ có bộ máy cán bộ nhân viên đã sát sao và biết tiết kiệm nên Trung tâm
cũng được nâng cao về số lượng hàng hoá cũng như chất lượng. Hàng hoá kinh
doanh của Trung tâm đã chiếm được lòng tin của khách hàng dần dần cạnh tranh
được với các đơn vị cùng ngành khác. Hoạt động của Trung tâm ngày càng ổn
định và đứng vững trên thị trường.
Trong quá trình kinh doanh Trung tâm đã có những nhận thức và tiếp thu ý kiến
của khách hàng đã rút ra những kinh nghiệm và chất lượng mẫu mã của hàng
hoá. Nhờ đó Trung tâm đã giữ được chỗ đứng của mình trên thị trường và bảo
đảm công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên, bảo đảm thu nhập và mức sống
cho họ. Lợi nhuận thu được của Trung tâm ngày càng tăng.
Trung tâm có đội ngũ cán bộ năng động, có trình độ quản lý và lực lượng nhân
viên tốt. Vì vậy trong việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế cạnh tranh quyết liệt
như vậy nhưng trung tâm vẫn không ngừng kinh doanh.

Trong 3 năm qua, bên cạnh những thành công đạt được, trung tâm còn một số tồn
tại mà nguyên nhân của nó có thể do khách quan hoặc do chủ quan gây nên.
+ Thứ nhất : trong quá trình thanh toán, hầu hết các năm Trung tâm đều có số
tiền tạm ứng chưa thanh toán bị người mua người bán chiếm dụng vốn tương đối
nhiều, việc thanh toán còn chậm.
+ Thứ 2 : phần phải thu còn khá lớn. Do công tác triển khai kinh doanh với tiến
bộ còn chậm.
+ Thứ 3: Do phương thức bán hàng của Trung tâm như áp dụng hiện nay là chưa
tối ưu.
+ Thứ 4: thị trường bị thu hẹp, tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng cao nên
việc tìm kiếm công ăn việc làm gặp khó khăn hơn.
Tóm lại: Qua phân tích đánh giá cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh của
Trung tâm có tiến triển, hiệu quả kinh doanh tốt. Điều này cần giữ vững, phát
huy hơn nữa trong những năm tới. Đồng thời, Trung tâm phải nắm bắt được
những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình để từng bước có
những chính sách thích nghi phù hợp với chúng nhằm cơ hội phát triển cao hơn
nữa
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chính sách tín dụng thương mại ở trung
tâm, dịch vụ thương mại dược mỹ phẩm.

×