Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Hướng đi cho các chương trình đóng góp mạnh thường quân góp phần với ngân sách nhà nước hỗ trợ người nghèo - 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.37 KB, 36 trang )

- Vốn để hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và khuyến nông - lâm - ngư (gọi chung là khuyến nông): kinh phi bố trí là
7,2 tỷ đồng đã sử dụng để xây dựng 150 mô hình trình diễn kỹ thuật với 10.000 hộ tham gia, tập huấn 180 lớp khuyến nông với
18.000 lượt người, in 12.000 bản tài liệu, phát hành hàng trăm số báo chuyên đề. Ngoài ra các địa phương đã bố trí kinh phí để tổ
chức hàng ngàn lớp tập huấn cách làm ăn cho trên 100.000 lượt người nghèo. Thông qua hướng dẫn người nghèo cách làm ăn
bằng các mô hình cây trồng, vật nuôi, câu lạc bộ khuyến nông, giống mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cho sản xuất góp
phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhiều hộ nghèo đã biết vay vốn để tổ chức sản xuất, tăng thu nhập, thoát đói giảm nghèo.
- Ngoài ra ngân sách Nhà nước phải sử dụng các khoản chi khác để trợ cấp đột xuất khắc phục thiên tai hoả hoạn để ổn
định cuộc sống dân cư các khu vực này.
Các khoản chi từ kênh ngân sách Nhà nước để sử dụng vào các mục đích nói trên không phải là toàn bộ hỗ trợ trực tiếp cho
người nghèo. Nhưng nó đã có tác động tích cực hỗ trợ phát triển nông thôn, miền núi nâng cao mức sống người dân tạo điều
kiện cho họ vượt qua cảnh nghèo đói. Sự hỗ trợ cần thiết này phản ánh tính định hướng xã hội trong phát triển kinh tế thị trường
ở nước ta. Tuy nhiên chuơng trình hỗ trợ này thực sự chưa quản lý chặt chẽ, có một số khoản mang nặng tính trợ cấp từ thiện, có
khi là biện pháp tình thế nên việc sử dụng nó hiệu quả chưa cao.
2.2.2. Hỗ trợ vốn từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
2.2.2.1. Tín dụng cho hộ nông dân nghèo từ nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngày 28/6/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là chính phủ) có quyết định 202/HĐBT, theo đó giao cho ngân hàng nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam thực hiện cho vay chủ yếu đối với hộ sản xuất thiếu vốn. Từ năm 1991 đến 31/12/2000, ngân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đã cho trên 30 triệu lượt hộ vay vốn, với doanh số trên 100 nghìn tỷ đồng
trong đó dư nợ cho vay theo chính sách là gần 10 nghìn tỷ đồng bao gồm: hộ nghèo 4400 tỷ đồng, tôn nền làm sàn nhà trên cọc
1300 tỷ đồng, khắc phục hậu quả thiên tai lũ lụt 1200 tỷ đồng, cho vay ưu đãi vùng sâu vùng xa gần 3000 tỷ đồng. Theo số liệu
thống kê mới 30% nhu cầu vay vốn của hộ nông dân được đáp ứng, 70% hộ nông dân phải đi vay tư nhân và các nguồn vốn khác.
Đối với hộ nông dân nghèo vay vốn vẫn chịu lãi suất như các hộ nông dân bình thường. Riêng vùng núi, vùng sâu, vùng
xa, hải đảo được miễn giảm lãi suất so với lãi suất cho vay cùng loại. Để tạo điều kiện cho hộ nông dân nghèo không có tài sản
thế chấp, ngày 30/2/1999 thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 67/1999/QĐ-TTg theo đó các hộ nông dân khi cần vay vốn thì
chỉ cần làm đơn có xác nhận của địa phương và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi đến ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn. Sau 10 năm cho vay, chương trình tín dụng này đã đạt được kết quả đáng khích lệ nhưng cũng cần đánh giá một số
mặt tồn tại là:
Về phương thức cho vay. Mặc dù ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là tổ chức tín dụng thực hiện chính sách
cho vay ưu đãi nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp nhưng cơ chế hoạch toán của ngân hàng này theo nguyên tắc ngân hàng
thương mại. Sự lẫn lộn giữa chức năng chính sách và chức năng kinh doanh dẫn đến xu hướng cán bộ tín dụng thường ưu tiên các


hộ nông dân khá giả vay lớn hơn là ưu tiên cho các hộ nghèo khó khăn là những người thường vay những món nhỏ. Mặt khác,
phương thức cho vay tới tận tay hộ nông dân trong điều kiện Việt Nam hiện nay thường đòi hỏi chi phí cao cho các món vay nhỏ,
vay phân tán với nhiều thủ tục phức tạp mà nhiều hộ nông dân khó đáp ứng được. Do đó có hiện tượng nhiều hộ nông dân hướng
đến hệ thống tín dụng phi chính thức để thoả mãn nhu câù thiếu vốn của mình hơn là đến ngân hàng để vay.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thứ hai: Lãi suất cho vay đối với hộ nông dân nghèo trong thực tế quá cao - có ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn huyện vẫn cho vay với lãi suất thoả thuận cao hơn lãi suất cho vay bình thường.
Thứ ba: Khả năng rủi ro trong nông nghiệp lớn, là điều trở ngại cho ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quyết
định khi cho vay, bởi lẽ nguy cơ mất vốn thường xuyên bị đe doạ.
Thứ tư: Việc cấp vốn tín dụng tới tay người nghèo thường không kịp thời và chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh
của họ.
Những tồn tại trên đây đã hạn chế việc mở rộng cấp tín dụng cho người nghèo. Thực tiễn này đòi hỏi phải đổi mới, áp dụng
phương thức cho người nghèo phù hợp hơn.
2.2.2.2. Tín dụng cho hộ nghèo của ngân hàng phục vụ người nghèo.
Ngày 31/8/1995 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 525/TTg "về việc thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo". Theo
đó ngày 11/9/1995 Ngân hàng phục vụ người nghèo được thành lập theo quyết định số 230/QĐ/NH5 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước và được cấp giấy phép hoạt động từ ngày 12/12/1995. Ngân hàng phục vụ nghèo chính thức đi vào hoạt động từ ngày
1/1/1996.
Ngân hàng phục vụ người nghèo là một tổ chức tín dụng của Nhà nước hoạt động trên phạm vi cả nước, có chức năng huy
động các nguồn vốn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, tiếp nhận các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với
người nghèo và các nguồn vốn khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho vay để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo.
Các nghiệp vụ của ngân hàng phục vụ người nghèo.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tổ chức huy động vốn trong và ngoài nước của mọi tổ chức và tầng lớp dân cư bao gồm tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn.
Phát hành chứng chỉ nợ, vay chiết khấu và tái chiết khấu từ ngân hàng Nhà nước, vay các nguồn vốn khác trong và ngoài
nước theo các dự án để cho vay người nghèo, vùng nghèo.
Tổ chức huy động vốn tiết kiệm trong cộng đồng người nghèo để giúp đỡ nhau trong sản xuất, trong việc sử dụng vốn vay
và trả nợ ngân hàng.
Nhận làm dịch vụ uỷ thác cho vay từ các tổ chức quốc tế đối với người nghèo.
Được nhận các nguồn tài trợ không hoàn lại từ các quốc gia, tổ chức quốc tế để bổ sung vốn cho vay vì mục tiêu xoá đói

giảm nghèo.
Cho vay ngắn hạn, trung hạn phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đối với người nghèo.
Đối tượng cho vay của ngân hàng phục vụ người nghèo: là các hộ nghèo có sức lao động, có điều kiện tổ chức sản xuất kinh
doanh nhưng thiếu vốn sản xuất và có khả năng hoàn trả vốn (cả gốc và lãi) đúng thời hạn đã cam kết.
Ngân hàng phục vụ người nghèo cho hộ nghèo vay vốn theo chuẩn mực phân loại hộ nghèo, vùng nghèo do Bộ lao động thương
binh và xã hội phối hợp với các bộ, ngành các cơ quan khác công bố theo từng thời kỳ.
Ban xoá đói giảm nghèo ở xã, phường xem xét lựa chọn danh sách hộ nghèo thuộc diện được vay vốn.
Danh sách hộ nghèo có sự xác nhận của uỷ ban nhân dân phường, xã sở tại gửi đến chi nhánh ngân hàng phục vụ người nghèo tại
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Chủ hộ là các đại diện hộ gia đình trong các giao dịch tín dụng với ngân hàng phục vụ người nghèo. Ngân hàng phục vụ người
nghèo chỉ cho vay những hộ nghèo không có dư nợ vay các tổ chức tài chính, tín dụng khác.
Phương thức cho vay đối với hộ nghèo.
Ngân hàng phục vụ người nghèo tổ chức cho vay trực tiếp đến hộ nghèo.
Ngân hàng phục vụ người nghèo phối hợp với các ngân hàng thương mại quốc doanh, tổ vay vốn trong cộng đồng người nghèo và
các tổ chức khác, để huy động vốn và truyền tải vốn cho vay trực tiếp đến hộ nghèo.
Nguồn vốn hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo bao gồm: vốn điều lệ, vốn huy động, vốn đi vay, vốn nhận uỷ thác,
vốn khác.
Kết quả hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo.
Sự ra đời của ngân hàng phục vụ người nghèo đáp ứng cấp thiết vấn đề giải quyết vốn cho người nghèo để thực hiện mục tiêu
xoá đói giảm nghèo ở nước ta. Do vậy nó tạo nên nhiều thuận lợi, được sự ủng hộ của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội và
cộng đồng người nghèo. Sau gần 5 năm hoạt động Ngân hàng phục vụ người nghèo đã có những đóng góp quan trọng trong công
cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Kết quả đó thể hiện.
Biểu số 4: Nguồn vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo đến ngày 31 /12 /2000
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu về nguồn vốn Số tiền huy động
Nguồn vốn điều lệ 700
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nguồn vốn huy động trong cộng đồng dân cư thông qua các ngân hàng thương mại quốc doanh 2903
Nguồn vốn vay của ngân hàng nhà nước 900

Ngồn vốn nhận cho vay uỷ thác từ ngân sách các tỉnh 338
Nguồn vốn vay từ nước ngoài 139
Nguồn vốn huy động trong cộng đồng người nghèo 35
Tổng nguồn vốn 5015
Nguồn [11]
Qua bảng số 4 cho ta thấy, tính đến 31/12/2000, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã huy động được tổng nguồn vốn là 5.015 tỷ
đồng, so với nguồn vốn từ khi thành lập và chuyển giao từ quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo chuyển sang là 521 tỷ đồng thì nguồn
vốn đã tăng lên 4494 tỷ đồng. Nguồn vốn được tăng trưởng đều đặn qua các năm: năm 1996 tăng 37,8% so với nguồn vốn nhận
bàn giao ban đầu, năm 1997 tăng 19,5% năm 1998 tăng 46,2% năm 1999 tăng 19,4%, năm 2000 tăng 22,8% với kết cấu nguồn
chủ yếu là nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại quốc doanh 2903 tỷ đồng chiếm 57,8% tổng nguồn vốn.
Vốn điều lệ là 700 tỷ đồng chiếm 14% tổng nguồn vốn.
Đã được ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế cho vay đặc biệt theo chỉ định từ Chính phủ 900 tỷ đồng chiếm 17,9% tổng nguồn
vốn trong đó cho vay trung hạn (thời hạn 5 năm) số tiền 600 tỷ đồng và cho vay ngắn hạn số tiền 300 tỷ đồng.
Được ngân sách các tỉnh trích nguồn vốn chuyển sang ngân hàng phục vụ người nghèo cho vay uỷ thác 338 tỷ đồng, chiếm 6,7%
tổng nguồn vốn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Ngân hàng đã vay nước ngoài 6,1 triệu USD (tương đương với 88 tỷ VNĐ), là khoản vay trong hiệp định vay 10 triệu USD của tổ
chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) mà Ngân hàng phục vụ người nghèo đã ký hiệp định vay vốn phụ với Bộ tài chính từ
tháng 8/1999; nhận vốn vay tháng 9/2000; vốn dịch vụ từ các tổ chức quốc tế để thực hiện một số dự án là 51 tỷ đồng, trong đó
chủ yếu là dự án IFAD.
Huy động nguồn vốn từ cộng đồng người nghèo là 35 tỷ đồng. Số tiền này tuy nhỏ nhưng cũng đã tạo dựng được ý thức và thói
quen tiết kiệm cho người nghèo.
Với tổng nguồn vốn nêu trên, ngân hàng phục vụ người nghèo đã thực hiện cung cấp tín dụng tới phần lớn các hộ nghèo có nhu
cầu vay vốn trên phạm vi toàn quốc. Tính đến ngày 31/12/2000 đã có hơn 5 triệu lượt hộ nghèo nhận được vốn tín dụng từ ngân
hàng phục vụ người nghèo với tổng số tiền là hơn 9.000 tỷ đồng. Với số vốn vay, hộ nghèo đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh,
chủ yếu là đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, thâm canh tăng vụ, mở rộng ngành nghề, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập để
trả nợ ngân hàng với doanh số thu nợ đạt 4400 tỷ đồng và đã có gần 500 ngàn hộ nghèo đã thoát nghèo. Như vậy cứ 6,6 hộ vay
vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo đã có một hộ thoát nghèo, qua số liệu báo cáo của từng chi nhánh cho thấy số hộ thoát
nghèo ở miền núi cao hơn đồng bằng, cụ thể: ở miền núi cứ 6 hộ vay vốn có một hộ thoát nghèo và ở đồng bằng cứ 7,5 hộ vay
vốn có một hộ thoát nghèo. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn 2,5 triệu hộ thuộc 208 ngàn tổ vay vốn còn dư nợ ngân hàng với số tiền

4704 tỷ đồng. Dư nợ bình quân mỗi hộ 1,88 triệu đồng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong doanh số cho vay trên ngân hàng đã thực hiện cung cấp tín dụng tới tất cả những hộ nghèo ở vùng III, dư nự hộ nghèo ở
khu vực III là 487 tỷ đồng với 280 ngàn hộ còn dư nợ, trong đó cho vay hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu,
vùng xa theo Quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ là 324 tỷ đồng với 183 ngàn hộ dư nợ.
Nhiều hộ nghèo là người dân tộc thiếu số cũng đã được vay vốn, vốn dư nợ là 733 tỷ đồng, chủ yếu là người dân tộc Tày, Nùng,
Thái, Mường, Khơ Me, H'Mông
Dư nợ cho vay chủ yếu là các hộ nghèo ở vùng nông thôn, có đến 88% vốn vay đầu tư vào lĩnh vực trồng chọt, chăn nuôi; 2,4%
là nông nghiệp; 3,2% là ngành nghề thủ công và buôn bán nhỏ; nghề khác là 6,4%.
Biểu số 5: Tốc độ tăng trưởng dư nợ theo vùng kinh tế tính đến ngày 31/12/2000.
Đơn vị tính: %
Vùng 1997 so với 1996 1998 so với 1997 1999 so với 1998 2000 so với 1999 Bình quân 5 năm
Vùng Trung du miền núi phía Bắc 37 39 33 22 33,2
Vùng Đồng bằng Sông Hồng 46 62 25 21 38,5
Vùng khu 4 cũ 16 43 24 26 27,2
Vùng Duyên Hải miền Trung 34 23 21 24 25,5
Vùng Tây Nguyên 14 17 16 8 13,7
Vùng Đông Nam Bộ 23 20 22 10 18,7
Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long 13 29 23 18 20,7
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Cả nước 27 37 26 21 27,7
Nguồn [11]
Qua biểu số 5 ta thấy tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân chung của toàn quốc 5 năm qua là 27,7%. Như vậy có hai vùng tăng
trưởng cao hơn bình quân trung của toàn quốc đó là: Vùng Đồng bằng Sông Hồng 38,5%, vùng Trung du miền núi phía Bắc
33,2%, trong đó vùng miền núi Trung du phía Bắc là vùng mặc dù có số hộ nghèo ở vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 40% số hộ thuộc khu vực III của toàn quốc) nhưng có tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân 5 năm
đứng thứ hai toàn quốc. Vùng có tốc độ tăng trưởng dư nợ thấp nhất là Tây Nguyên 13,7%. Điển hình một số chi nhánh có dư nợ
lớn như Thanh Hoá 237 tỷ, Nghệ An 172 tỷ, Hà Tây 138 tỷ, Nam Định 130 tỷ, Bắc Giang 129 tỷ, Thừa Thiên Huế 122 tỷ, Phú
Thọ 120 tỷ, Hà Tĩnh 111 tỷ. Một số chi nhánh có dư nợ thấp là Bình Dương 21 tỷ, TP Hồ Chí Minh 23 tỷ, Vĩnh Long 36 tỷ, Bình
Định 38 tỷ, Cần Thơ 40 tỷ

Đến 31/12/2000 dư nợ bình quân/hộ toàn quốc là 1,88 triệu đồng. Có bốn vùng dư nợ bình quân/ hộ lớn hơn dư nợ bình quân / hộ
toàn quốc là Vùng Đồng bằng Nam Bộ 2,28 Triệu/hộ, Vùng duyên hải Miền Trung 2,09 triệu/hộ, Vùng Tây Nguyên 2,02 triệu/hộ,
Vùng Trung du miền núi phía Bắc 1,99 triệu/hộ và các vùng còn lại dư nợ bình quân /hộ thấp, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
1,72 triệu/ hộ, vùng khu IV cũ 1,72 triệu/hộ, vùng Đồng bằng Sông Hồng 1,76 triệu/ hộ. Chi nhánh có dư nợ bình quân /hộ lớn:
Bình Phước 2,99 triệu/hộ, TP Hồ Chí Minh 2,48 Triệu /hộ, Yên Bái 2,47 triệu /hộ. Chi nhánh có dư nợ bình quân/hộ thấp là Sóc
Trăng 1,31 triệu/hộ, Tuyên Quang 1,48 triệu/hộ, Thái Bình 1,51 triệu/ hộ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nhìn nhận lại kết quả của chương tình tín dụng xoá đói giảm nghèo từ Ngân hàng phục vụ người nghèo, cơ thể đánh giá khái quát
những mặt tích cực:
Một là: Ngân hàng phục vụ người nghèo được tổ chức và hoạt động theo Quyết định 525/TTg của Thủ tướng Chính phủ thực thi
một thể chế chính sách được nông dân đồng tình hưởng ứng, thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng, Chính phủ. Đây là giải pháp
rất cụ thể, góp phần ổn định kinh tế xã hội, thực hiện mục tiêu xã hội công bằng văn minh.
Trong điều kiện hiện nay mô hình được tổ chức và thiết lập bằng việc sử dụng hệ thống mạng lưới của các ngân hàng thương mại
quốc doanh làm dịch vụ huy động vốn và cho vay đã tiết kiệm được chi phí xã hôị, tận dụng được nhân lực, công nghệ, tập trung
được vốn, kỹ thuật chuyển trực tiếp đến hộ nghèo người nghèo (không phải chi phí tuyển nhân lực, không tăng thêm các chi
phí mua sắm, xây dựng cơ sở vật chất ). Do đó triển khai được nhanh trên phạm vi toàn quốc về hoạt động của Ngân hàng phục
vụ người nghèo, có cơ chế quản lý, hạch toán theo hệ thống riêng, thống nhất, phân định rõ nguồn vốn, sử dụng vốn của Ngân
hàng phục vụ người nghèo.
Cũng với mô hình đặc thù có Hội đồng quản trị và ban đại diện hội đồng quản trị các cấp đã tập hợp được sức mạnh tổng hợp của
các ngành các cấp, các đoàn thể chính trị xã hội và đông đảo cộng đồng dân cư từ mọi miền đất nước góp tiền, góp sức phát huy
tinh thần tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam. Được Đảng bộ và chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo, nhiều tỉnh thành
phố đã huy động được nguồn tiết kiệm chi ngân sách để hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo chuyển sang Ngân hàng phục vụ
người nghèo cho vay. Đặc biệt những tỉnh đã huy động được nguồn vốn địa phương lớn như Nghệ An là 18,5 tỷ đồng, Hà Tây
17,1 tỷ đồng, Đắc Lác 14,8 tỷ đồng, Khánh Hoà 13,7 tỷ đồng, Lạng Sơn 9,9 tỷ đồng, Lâm Đồng 8,5 tỷ đồng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Hai là: Chủ động ngân sách Nhà nước hỗ trợ vốn thông qua bù chênh lệch lãi suất huy động vốn và sử dụng phương pháp tín
dụng ngân hàng để hỗ trợ vốn cho người nghèo (thay vì nguồn vốn cấp từ ngân sách có hạn bằng phương pháp huy động vốn
trong dân cư, phần chênh lệch lãi suất cho vay được ngân sách cấp bù) đã tạo ra khối lượng vốn lớn hơn nhiều lần so với cách
đầu tư trực tiếp từ ngân sách trước đây.
Ba là: Hình thành một cơ chế tín dụng riêng biệt tương đối phù hợp với người nghèo. Cơ chế cho vay được nới lỏng, đơn giản

hoá thủ tục cho vay, người vay không phải đến trụ sở ngân hàng mà chỉ phải nộp đơn vay vốn thông qua tổ vay vốn và giao dịch
vay trả ngay tại trụ sở xã. Người vay không phải thế chấp tài sản mà thay vào đó là sự kiểm tra, giám sát của cộng đồng dân cư,
sự phối hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong việc lồng ghép các chương trình XĐGN ở địa phương nhằm giúp cho việc sử dụng
vốn đạt hiệu quả cao hơn. Với cơ chế tín dụng như hiện nay, Ngân hàng phục vụ người nghèo đã thực hiện chủ trương xã hội
hoá hoạt động tín dụng đối với người nghèo, hộ nghèo thông qua việc bình xét các đối tượng được vay vốn của các tổ chức cộng
đồng xã hội, mở rộng tính công khai dân chủ và tính nhân dân sâu sắc.
Các chính sách và cơ chế tín dụng xoá đói giảm nghèo đã được thay đổi phù hợp với các quy định cuả ngành và sự phát triển
chung trong từng thời kỳ:
Về lãi suất cho vay: 5 năm qua đã có 5 lần thay đổi theo hướng hạ lãi suất cho vay đối với người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo từ
mức lai suất 1,2%/tháng hạ xuống 1%/tháng, 0,8%/tháng và hiện nay đang áp dụng là 0,7%/tháng riêng đối với hộ nghèo vùng III
được vay lãi suất 0,6%/tháng và đều thấp hơn lãi suất cho vay hiện hành của các ngân hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Ngoài lãi suất cho vay, người nghèo, hộ nghèo không phải trả một khoản phí nào cho ngân hàng hoặc các tổ chức chính trị xã hội
khác.
Về quy hoạch mức cho vay tối đa: khi mới thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, mức cho vay không qua 2,5 triệu đồng/ hộ.
Hiện nay điều chỉnh nâng lên tối đa không qua 3 triệu đồng/hộ. Riêng đối với những hộ nghèo đầu tư cho chăn nuôi gia súc,
trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, mua sắm công cụ nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản, kinh doanh ngành nghề được vay vốn tối
đa đến 5 triệu đồng/hộ, phù hợp với tăng trưởng nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo và quy mô sử dụng vốn đối với
hộ nghèo.
Về thời hạn cho vay: khi mới thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo, thời hạn cho vay trung hạn tối đa 36 tháng và hiện nay
thời hạn tối đa 60 tháng. Ngoài ra Ngân hàng phục vụ người nghèo còn áp dụng các hình thức cho vay lưu vụ, gia hạn nợ, cho
vay lại cho đến khi hộ nghèo thoát khỏi ngưỡng nghèo, tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo hộ nghèo sử dụng vốn tín dụng
đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Bốn là: Đã thiết lập kênh vốn tín dụng riêng để hỗ trợ vốn tín dụng cho người nghèo, thực hiện chính sách tín dụng hợp lý, tạo
điều kiện cho hộ nghèo có vốn sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, từng bước làm quen với nền sản xuất hàng hoá.
Vốn của Nhà nước đã thực sự đến tay người nghèo, người nghèo vay vốn trả nợ khá sòng phẳng.
Tuy đã có sự đổi mới và đạt kết quả cao hơn các phương thức tín dụng trước đó song vẫn còn bọc lộ một số tồn tại đó là:
- Về cơ chế tạo lập nguồn vốn: có thể nói đây là kênh tín dụng của Nhà nước, thực hiện cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, là
những khoan cho vay được chỉ định trước về người sử dụng vốn. Vì vậy nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo cần phải
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước. Nhưng hiện nay, nguồn cấp từ ngân sách Nhà nước rất hạn chế và không được kế hoạch
hoá một cách ổn định. Theo Quyết định 525/TTg ngày 31/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ hàng năm ngân hàng người nghèo
được cấp bổ sung vốn điều lệ nhưng thực tế 5 năm qua Ngân hàng phục vụ người nghèo chỉ được cấp bổ sung vốn điều lệ 200 tỷ
đồng vào năm 1998.
Khó khăn lớn nhất hiện nay là cơ chế tạo lập nguồn vốn chưa có chính sách thoả đáng để xác định nguồn vốn hoạt động. Cần
phải khẳng định rằng nguồn vốn để thực hiện chính sách tín dụng đối với hộ nghèo phải được ngân sách Nhà nước cấp bù. Việc
duy trì và tăng trưởng nguồn vốn này phụ thuộc vào khối lượng vốn cấp bù của ngân sách Nhà nước. Hơn nữa việc tổ chức huy
động vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng huy động vốn, khả năng nguồn vốn và quan
điểm xử lý cho vay của các ngân hàng thương mại. Do vậy Ngân hàng phục vụ người nghèo dễ dàng gặp khó khăn về nguồn vốn
và dễ có thể bị quá hạn những khoản nợ vay khi các ngân hàng thương mại đòi nợ. Với cơ chế này Ngân hàng phục vụ người
nghèo luôn phải đối phó với các khoản nợ.
- Về mô hình tổ chức: Mô hình tổ chức của Ngân hàng phục vụ người nghèo hiện nay là mô hình kiêm nhiệm. Thành viên Hội
đồng quản trị và ban đại diện hội đồng quản trị Ngân hàng phục vụ người nghèo các cấp, tổ chuyên gia tư vấn là cơ quan chức
năng trong bộ máy quản lý Nhà nước làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên hạn chế về thời gian và điều kiện để thực thi nhiệm
vụ.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được giao nhiệm vụ điều hành tác nghiệp cho Ngân hàng phục vụ
người nghèo nhưng do đặc thù mô hình tổ chức của Ngân hàng phục vụ người nghèo được thành lập theo hệ thống dọc từ Trung
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
ương đếnđịa phương, với phần lớn đội ngũ cán bộ làm kiêm nhiệm nên tính pháp lý, trách nhiệm không rõ ràng, sự quan tâm chỉ
đạo của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ở một số nơi có những lúc chưa được chú trọng.
- Đối tượng phục vụ của Ngân hàng phục vụ người nghèo: nguyên tắc đặt ra là Ngân hàng phục vụ người nghèo cho hộ nghèo vay
vốn theo chuẩn mực phân loại hộ đói nghèo do Bộ lao động thương binh và xã hội công bố từng thời kỳ nhưng phải là hộ nghèo
có sức lao động, có điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn sản xuất và có khả năng hoàn trả vốn.
Trên thực tế việc lập danh sách hộ nghèo vay vốn ở địa phương do cộng đồng dân cư thực hiện và được Ban XĐGN xã bình xét.
Việc làm này phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phuơng nên mang tính tương đối và có sự khác nhau về chuẩn mực đói
nghèo giữa các địa phương. Mặt khác những hộ nghèo theo tiêu chí phân loại hiện nay nhiều hộ nghèo chưa có điều kiện tiếp cận
với hệ thống tín dụng của Nhà nước vì họ chưa có khả năng tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chưa quen với việc hạch toán
lỗ lãi để tạo thu nhập trả nợ ngân hàng. Nhưng cũng lại còn một bộ phận người dân có thu nhập thấp (trên ngưỡng nghèo theo
quy định) mà chưa có điều kiện tiếp cận với tín dụng thương mại và cần được hỗ trợ từ kênh tín dụng ưu đãi này. Từ thực tế đó
nhiều địa phương đã cho vay những hộ gia đình có thu nhập cao hơn chuẩn mực của Bộ lao động thương binh và xã hội. Do vậy

hiện nay nhiều tỉnh, thành phố có số hộ chủ nợ Ngân hàng phục vụ người nghèo cao hơn số hộ nghèo đói thực tế của cả nuớc.
Trong khi đó nhiều người nghèo, hộ nghèo nằm trong diện nghèo đói theo chuẩn mực của Bộ lao động thương binh và xã hội vẫn
chưa được vay vốn vì không đủ điều kiện vay.
- Về lãi suất cho vay: Hiện nay trên thị trường nông thôn, đang có nhiều nguồn vốn tín dụng phục vụ chương trình XĐGN với
nhiều mức lãi suất cho vay khác nhau nhưng lãi suất cho vay của ngân hàng phục vụ người nghèo lại cao hơn lãi suất cho vay của
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
các nguồn vốn khác. Từ đó gây ra hiện tượng so bì tỵ nạnh trong nhân dân, nhiều địa phương kiến nghị giảm lãi suất cho vay đối
với người nghèo xuống ngang mức lãi suất của chương trình dự án khác (như 120,327). Đặc biệt một số nơi đã dùng ngân sách
địa phương để bù lãi suất cho người nghèo khi vay vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo, tạo ra lãi suất cho vay đối với người
nghèo thấp hơn lãi suất qui định hoặc cho vay không lãi, đã gây ra một số hạn chế làm cho người vay ỷ lại sẽ dẫn đến lơ là và
thiếu trách nhiệm trong việc trả nợ gốc và lãi hoặc là nếu đến thời điểm ngân sách khó khăn ngừng việc chi cấp bù sẽ dẫn gặp
phải việc người vay không có thói quen trả nợ. Đồng thời cũng từ việc bù lãi suất nêu trên để cho vay theo đối tượng chỉ định,
cho vay đồng loạt, thậm chí cho vay ở những vùng, những đối tượng quá khó khăn chưa có khả năng sử dụng vốn tín dụng dẫn
đến chất lượng tín dụng yếu kém. Ngoài ra cũng phải xét tới một khía cạnh chủ quan từ phía cán bộ ngân hàng là việc tính toán
bù một khoản tiền lãi ngay tại ngân sách tỉnh phần nào tạo cho cán bộ ngân hàng ít quan tâm tới việc kiểm tra, kiểm soát người
vay sử dụng vốn và đôn đốc người vay trả nợ.
- Việc giải ngân vốn cho vay đối với người nghèo còn chậm. Nhiều địa phương vẫn còn tình trạng "vốn treo người nghèo
nhịn đói". Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có nhiều, ngoại trừ yếu tố mô hình tổ chức triển khai chậm thì nói lên một số
điểm đó là:
+ Phân bổ nguồn vốn còn mang tính bình quân, không khảo sát theo nhu cầu vốn thực tế nên nơi thừa đọng vốn trong khi
nơi khác lại thiếu.
+ Ngân hàng phục vụ người nghèo không thực hiện được trích lập rủi ro theo Quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN5, ngày
8/2/1999 của thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc cấp tín dụng mang tính đặc thù của khu vực này. Bởi vậy ngân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hàng phục vụ người nghèo trực tiếp cho vay đối với người nghèo nẩy sinh tư tưởng xét cho vay cầm chừng, sợ rủi ro phải chịu
trách nhiệm.
2.2.3. Một số hình thức tín dụng cho người nghèo không chính thức ngoài kênh tín dụng ngân hàng.
Ngoài kênh tín dụng ngân hàng (tín dụng quốc doanh, tín dụng cổ phần ) còn nhiều tổ chức, hiệp hội, đoàn thể và cá nhân
thực hiện truyền tải vốn cho người nghèo. Song mức độ quy mô đáng kể là các quỹ sau đây.
2.2.3.1. Quỹ hỗ trợ nông dân của hội nông dân Việt Nam.

Quỹ hỗ trợ nông dân được Nhà nước cho phép thành lập theo văn bản số 4035/KTTH ngày 26/7/1995 của Thủ tướng Chính
phủ và đi vào hoạt động từ năm 1996. Về tổ chức, quỹ hỗ trợ nông thôn thuộc Hội nông dân Việt Nam và có quy mô từ trung
ương đến tận cơ sở: Tổ hội, chi hội theo xóm, thôn, xã hoặc tổ hội, chi hội nghề nghiệp.
Quỹ hỗ trợ nông dân không phải là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà là tổ chức dịch vụ hỗ trợ nông dân do Hội nông dân các
cấp tổ chức. Chi hội và tổ hội nông dân là đơn vị hỗ trợ vốn, là nơi trao đổi kinh nghiệm sản xuất, chuyển giao kỹ thuật thông
tin, giúp đỡ nông dân tiệu thụ sản phẩm, là nơi giải ngân đồng thời là đơn vị thu hồi vốn. Hệ thống tổ chức hội các cấp đảm bảo
nhận vận hành quỹ, có bộ phận chuyên trách từng cấp. Thực chất quĩ hộ trợ nông dân là một dịch vụ tài chính vi mô của tổ chức
phi Chính phủ trong nước đó là Hội nông dân các cấp.
Nguồn vốn huy động của quỹ hỗ trợ nông dân bao gồm sự ủng hộ, cho mượn và cho vay với lãi suất thấp của nông dân, các
doanh nghiệp và đồng bào cả nước, việt kiều và các tổ chức quốc tế. Ngoài ra quỹ còn được sự hỗ trợ của Nhà nước theo phương
châm "nhà nước và nhân dân cùng làm". Mục tiêu của quỹ hỗ trợ nông dân là hỗ trợ vốn cho nông dân, trước hết là nông dân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nghèo. Tổ chức hoạt động của quỹ gắn bó với các hoạt động khác như: chương trình kế hoạch hoá gia đình, chống tệ nạn xã hội,
chống mù chữ, phong trào nông dân sản xuất giỏi, xây dựng nông thôn mới Lãi suất cho vay của quỹ bao gồm: Lãi suất thấp,
không lãi suất và lãi suất thị trường tuỳ thuộc nguồn vốn huy động và đối tượng cho vay.
Qua gần 5 năm hoạt động tổng số quỹ hỗ trợ nông dân là 114,25 tỷ đồng, đã hỗ trợ cho 78.956 hộ nghèo và đưa tổng số
lượt hộ vay vốn lên 196.803 hộ. Đến nay đã có 459 huyện, thị và 4065 xã, phường xây dựng quỹ hỗ trợ.
Ngoài ra các cấp hội vận động cán bộ, hội viên giúp đỡ nhau khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt, hạn hán, tai nạn rủi ro, đói
giáp hạt, xây dựng nhà tình thương, nhà tình nghĩa, gia đình thương binh liệt sỹ, bà mẹ Việt Nam anh hùng Với số tiền 46.036
triệu đồng, 4.103.951 kg gạo, 54 tấn thóc giống, 42.000 gói mì tôm, 10.584 bộ quần áo, 42.895 triệu đồng vật tư phân bón, giúp
335.757 hộ khó khăn và đồng bào miền Trung bị lũ lụt. Làm 1090 nhà tình thương và 3022 nhà tình nghĩa. Mua 7.957 sổ tiết
kiệm tình nghĩa trị giá 8.682 triệu đồng giúp gia đình thương binh liệt sỹ, mẹ Việt Nam anh hùng, trẻ em nhiễm chất độc mầu da
cam
Tổ chức 1443 lớp tập huấn dân số kế hoạch hoá gia đình cho 83.086 cán bộ hội viên, tiến hành 23.367 buổi truyền thông
cho 1.522.356 lượt hội viên nông dân. Kết quả đã có 3.251.636 hộ đăng ký xây dựng gia đình đạt 6 tiêu chuẩn, qua bình xét đã có
2.133.701 hộ đạt 6 tiêu chuẩn, 791.913 hộ không sinh con thứ 3 và 7973 người đình sản. Mở 1340 lớp phòng chống HIV/AIDS
có 112.528 hội viên, nông dân tham gia học tập; 712 lớp học phòng chống ma tuý cho 48.766 người, 350 lớp bồi dưỡng cho
13.805 hội viên nâng cao kiến thức về giới
Tuy nhiên qua nghiên cứu mô hình tổ chức tín dụng không chính thức này tôi thấy nổi bật mấy vấn đề cần quan tâm là:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

Thứ nhất: Cần xác định quỹ hỗ trợ nông dân là một tổ chức dịch vụ tài chính vi mô trong hệ thống tài chính vi mô trên thị
trường tài chính nông thôn Việt Nam hiện nay. Sự hiện diện của nó vừa đáp ứng thêm vốn cho nông dân vừa thuận tiện, tiết kiệm
chi phí tiếp cận cho cả người cho vay và người đi vay. Mặt khác với lợi thế của mình, quỹ hỗ trợ nông dân phát huy được khả
năng huy động vốn trực tiếp của nông dân để vay trực tiếp đến tay nông dân.
Thứ hai: Với vị thế của mình, quỹ hỗ trợ nông dân có khả năng thu hút được nhiều nguồn tài trợ trong và ngoài nước cho
nông nghiệp nông thôn và nông dân. Thông qua tài trợ trực tiếp cho quỹ hoặc thông qua các dự án tài chính vi mô đối với nông
thôn.
Thứ ba: Do không đủ yếu tố pháp lý nên thể chế tài này bị hạn chế trong đảm bảo các khoản vốn huy động cho vay, cũng
như xử lý rủi ro. Mặt khác khả năng hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân cũng bị giới hạn bởi sự yếu kém về mặt tổ chức nghiệp
vụ.
Thứ tư: Sự ra đời của quỹ hỗ trợ nông dân tất yếu là tác nhân làm gia tăng sự lộn xộn trên thị trường tín dụng nông thôn
nói chung và thị trường vốn cho nông dân nghèo nói riêng. Do lãi suất không phù hợp với lãi suất cho vay của các nguồn vốn
khác đối với nông dân nghèo đã dẫn đến sự suy bì trong cộng đồng người nghèo. Mặt khác đối tượng cho vay không thống nhất
đã phát sinh cho vay chồng chéo, người vay được, nhiều người không được vay.
2.2.3.2. Các quỹ tương trợ của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Các quỹ tương trợ của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thực hiện chương trình khai thác và quản lý các nguồn vốn: vốn dự
án quốc tế, vốn vay ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và ngân hàng phục vụ người nghèo thông qua hình thức tín
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chấp, vốn đóng góp của hội viên, vốn đóng góp của hội viên, vốn tài trợ của các tổ chức cá nhân khác. Nguồn vốn của quỹ dùng
để hỗ trợ cho phụ nữ trước hết là phụ nữ nông dân nghèo vay phát triển sản xuất, kinh tế gia đình để tăng thu nhập.
Vốn từ các nguồn khác nhau nên lãi suất, phương thức và thời hạn cho vay rất đa dạng và khác nhau. Song mục tiêu xuyên
suốt hàng đầu là hỗ trợ vốn sản xuất cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo.
Qua các năm hoạt động, các quỹ tương trợ của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã đạt được một số kết quả sau:
- Về huy động vốn và cung cấp vốn tín dụng cho phụ nữ: trong những năm qua đã huy động được nguồn vốn trên 4000 tỷ
đồng và cho 6 triệu lượt phụ nữ vay (trong đó có hơn 4 triệu phụ nữ nghèo).
Với mô hình tín dụng - tiết kiệm của nhóm phụ nữ tiết kiệm do Hội thành lập đến nay cả nước đã có gần 400 ngàn nhóm,
số vốn tiết kiệm được là 335 tỷ đồng. Nhóm phụ nữ tiết kiệm không chỉ cho phụ nữ vay vốn, mà còn là nơi để phụ nữ nghèo được
tham gia các hoạt động xã hội của mình thông qua các hoạt động, chị em còn được phổ biến nâng cao kiến thức về mọi mặt. Bên
cạnh mô hình trên, Hội còn phát động "ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo" đã thu hút được sự tham gia rộng rãi của cả cộng đồng,
với số tiền là 122 tỷ đồng và đã có 200 ngàn phụ nữ nghèo ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng được

vay vốn này.
Với vai trò tín chấp Hội đã tạo điều kiện cho phụ nữ nghèo được tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức. Sau 4 năm
thực hiện hội đã tín chấp cho 12.750 phụ nữ nghèo ở 51 xã được vay vốn của ngân hàng với số tiền là 12,7 tỷ đồng. Qua khảo sát
các đối tượng phụ nữ nghèo vay vốn của "quỹ tình thương" cho thấy 86% số chị em đã vượt qua nghèo khổ, thu nhập gia đình
của họ đẵ tăng từ 1,6 đến 3 lần so với trước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Đi đôi với cung cấp vay vốn, việc bồi dưỡng kiến thức cho phụ nữ là quan trọng và cần thiết: Đồng vốn chỉ có nghĩa khi
người sử dụng nó biết dùng vào việc gì có lợi, dùng như thế nào và có phù hợp với khả năng của họ hay không. ở đây bao gồm 2
mặt: kiến thức khoa học kỹ thuật và kiến thức tổ chức sản xuất kinh doanh - thiếu kiến thức thì đồng vốn không những không có
tác dụng mà nhiều khi còn là gánh nặng thêm cho người nghèo khi không có khả năng trả nợ từ kết quả sản xuất của họ.
Tuy đã đạt được nhiều kết quả nhưng so với yêu cầu thực tiễn thì hoạt động này cũng đang gặp rất nhiều vấn đền gay cấn
cần phải được tiếp tục giải quyết như:
Nguồn vốn của các quỹ rất hạn hẹp trong khi đó nhu cầu vay vốn của phụ nữ lại rất cao, còn nhiều phụ nữ nghèo chưa
được vay vốn, vốn vay bị xé nhỏ, thời gian vay ngắn chưa phù hợp với yêu cầu sản xuất.
Việc cung cấp kiến thức và nâng cao năng lực sản xuất cho phụ nữ còn nhiều hạn chế, số phụ nữ tham gia chưa nhiều.
2.2.4. Nguồn hợp tác quốc tế.
Trong những năm gần đây, vấn đề xoá đói giảm nghèo không còn là vấn đề của mỗi quốc gia mà là vấn đền mang tính chất toàn
cầu, nhiều tổ chức, nhiều quốc gia quan tâm.
Việt Nam với quan điểm mở rộng không ngừng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế nhằm tạo điều kiện và nguồn lực ưu
tiên các đối tượng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số Hợp tác quốc tế về xoá đói giảm
nghèo những năm qua đã không ngừng phát triển cả về qui mô, chất lượng và hiệu qủa trở thành một lĩnh vực không chỉ được ưu
tiên trong ngành lao động - thương binh và xã hội mà còn được chính phủ quan tâm.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Nguồn hỗ trợ quốc tế (Chính phủ và phi Chính phủ) cho công tác xoá đói giảm nghèo không trực tiếp chuyển tiền đến cho
người nghéo mà chủ yếu là thông qua các tổ chức, các cơ quan làm trung gian, hình thành các dự án về xoá đói giảm nghèo.
2.2.4.1. Nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA).
Lớn nhất và sớm nhất phải kể đến đó là dự án hợp tác Việt Đức về xoá đói giảm nghèo do Chính phủ Cộng hoà Liên bang
Đức tài trợ bao gồm:
Dự án 7 triệu Dm (Mác Đức) lập quỹ tín dụng quay vòng cho hộ đói nghèo vay vốn để sản xuất kinh doanh, dịch vụ 3 tỉnh
miền trung (Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình) bắt đầu thực hiện từ năm 1996.

Dự án hợp tác kỹ thuật cho xoá đói giảm nghèo 1,5 triệu DM để nâng cao năng lực hoạch định chính sách và trình độ cán
bộ xoá đói giảm nghèo các cấp tại 3 tỉnh thực hiện dự án 7 triệu DM (Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình) và tỉnh Quảng Trị bắt đầu
thực hiện từ giữa năm 1996. Dự án hợp tác kỹ thuật 1,5 triệu DM nâng cao năng lực xoá đói giảm nghèo cho hai tỉnh Hà Tĩnh và
Yên Bái trong 2 năm 1999 - 2000.
Dự án 5 triệu DM lập quỹ tín dụng quay vòng cho hộ đói nghèo vay vốn để sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ở 7 tỉnh miền núi
phía Bắc (Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Bắc Cạn, Thái Nguyên) bắt đầu từ năm 1997.
Tiếp đến ESCAF/FAO tuy hỗ trợ bằng tiền chưa nhiều nhưng đã tạo được một phương pháp "nhân điển hình thành đạt
trong xoá đói giảm nghèo" tại Đồng Nai thông qua một dự án nhỏ tổng kinh phí 10.750 USD cho suốt quá trình hoạt động.
Khả năng hợp tác quốc tế về xoá đói giảm nghèo từ vốn ODA là rất lớn như dự án giảm nghèo đói ở miền núi phía Bắc
(vốn vay WB) với số vốn là 110 triệu USD, dự án giảm nghèo đói ở các tỉnh miền Trung (vay ADB) hàng trăm triệu USD.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2.2.4.2. Nguồn viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ.
Đáng kể nhất là các dự án do tổ chức nhà thờ Cộng hoà Liên bang Đức (MISEREOR) tài trợ. Hiện nay 38 dự án (khoảng
14 tỷ đồng) của tổ chức này đang thực hiện với quy mô nhỏ mang tính chất thí điểm ở phạm vi xã trong thời gian tới sẽ tiếp tục
mở rộng dự án nâng cao năng lực cho các hộ nghèo và người nghèo vùng dự án.
Ngoài tổ chức MIESEREOR, một số tổ chức NGO khác như CENDHRA, tầm nhìn thế giới cũng có dự án giúp Việt Nam
dưới hình thức "ngân hàng Bò", đào tạo nghề cho người nghèo
Cũng không thể không kể đến các dự án đã tác động rất tích cực cho công tác xoá đói giảm nghèo thông qua các chương
trình tái hoà nhập người hồi hương của cộng đồng châu Âu, (1) chương trình ECIP (The European Community International
Program) khoảng 75 triệu USD, (2) chương trình RAP (Returees Assitance Program) khoảng 20 triệu USD, (3) Dự án hoà nhập
lực lượng chuyên môn từ Đức khoảng 30 triệu DM, (4) từ Cộng hoà Séc và Slovakia khoảng 14 triệu USD. Đây là các dự án,
chương trình tác động gián tiếp liên quan đến xoá đói giảm nghèo thông qua cho vay tín dụng với lãi suất ưu đ•i, đào tạo nghề
phù hợp với thị trường lao động địa phương, đầu tư các dự án nhỏ để phát triển kinh tế cộng đồng, đặc biệt ưu tiên cho người
nghèo, vùng nghèo và xã nghèo.
Ngoài các dự án hợp tác quốc tế về xoá đói giảm nghèo trên, hàng năm Việt Nam còn nhận được hàng trăm nghìn USD,
thuốc tân dược của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế giúp ta khắc phục hậu quả thiên tai. Đó là hỗ trợ nhân đạo tác
động không nhỏ đến công tác xoá đói giảm nghèo ở nước ta.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Có thể đánh giá khái quát năm qua đã góp phần quan trọng tạo ra điều kiện và nguồn tài chính bổ sung cho người nghèo
của các địa phương, hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cho hàng trăm nghìn hộ đói nghèo trong cả nước, nhiều hộ đã vươn lên nhờ

nguồn hỗ trợ này.
2.3. Một số kết luận rút ra sau khi nghiên cứu các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo ở nước ta.
Kết luận thứ nhất: có nhiều kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo song thông qua kênh tín dụng có hoàn trả là có hiệu quả hơn
cả. Trong kênh tín dụng thì vấn đề cho vay phù hợp là quan trọng nhưng không quan trọng bằng việc cấp vốn cho người nghèo
kịp thời, thuận tiện và trực tiếp.
Kết luận thứ 2: Cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để có một nguồn vốn đủ lớn hỗ trợ cho người nghèo có sức
lao động nhưng thiếu vốn. Song để vận hành nó một cách hiệu quả và phù hợp phải tập trung vào một đầu mối là ngân hàng phục
vụ người nghèo làm nhiệm vụ quản lý, bảo toàn, giải ngân, thông qua cơ chế chính sách của nhà nước và quản lý hoạt động tiền
tệ, tín dụng, của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trên ý nghĩa đó Ngân hàng phục vụ người nghèo phải được nâng lên một cấp độ
mới cao hơn.
Kết luận thứ 3: thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của toàn Đảng, Chính phủ, các cấp các ngành, các tổ
chức xã hội và cộng đồng dân cư. Bởi vậy Nhà nước phải có chính sách xã hội hoá mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Trong đó đối
với người nghèo, vùng nghèo cần có sự tài trợ của ngân sách Nhà nước kết hợp với khai thác mọi nguồn vốn, tiềm lực của dân
cư, huy động sức mạnh xã hội cùng thực hiện.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Kết luận thứ 4: Cần có một cơ chế kiểm soát nghiêm ngặt quá trình chuyển tải vốn cho người nghèo: đúng đối tượng, thuận
tiện, sử dụng vốn có hiệu quả, trả nợ vay sòng phẳng. Để người nghèo thực sự tăng thu nhập phải coi việc hướng dẫn sử dụng
vốn sản xuất là quan trọng.
2.4. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho người nghèo vay vốn.
Nhiều nước trên thế giới đã thực hiện các biện pháp đồng bộ kết hợp cả về kinh tế, xã hội, tâm lý để tạo điều kiện cho
người nghèo vượt lên làm chủ cuộc sống. Riêng nguồn tài chính để hỗ trợ cho người nghèo cũng có nhiều cách tiếp cận khác
nhau nhưng phổ biến được thực hiện dưới các dạng sau:
Một là: Tài trợ vốn cho người nghèo làm ăn và miễn giảm các loại thuế đối với họ.
Hai là: Đầu tư vốn xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, mở rộng phúc lợi công cộng, nâng cao trình độ dân
trí, đào tạo việc làm và chuyển giao kỹ thuật cho người nghèo, vùng nghèo.
Ba là: Vốn tài trợ thông qua sự tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng dân cư trên nguyên tắc tự nguyện bắt nguồn từ tình
thương và lòng nhân đạo thông qua cho vay có tính lãi và không tính lãi hoặc cho không.
Bốn là: Tài trợ không hoàn trả hoặc hoàn trả thông qua cấp tín dụng ưu đãi từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Năm là: Cấp tín dụng thông qua mô hình ngân hàng thương mại trực thuộc Chính phủ có chức năng phục vụ nông nghiệp,
nông thôn và nông dân.

Sáu là: Cấp tín dụng thông qua mô hình ngân hàng chuyên phục vụ người nghèo, mô hình này đang phát triển tại
Bangladesh và nhiều nước trên thế giới.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2.4.1. Kinh nghiệm của Bangladesh cho người nghèo vay vốn.
Đến cuối năm 2000, Gramar Bank có trên 2000 chi nhánh đặt khắp các vùng nông thôn. Hiện nay có hàng vạn nhân viên
làm việc cho Gramar bank và có trên 7 triệu thành viên vay vốn. Các thành viên vay vốn tự nguyện tổ chức sinh hoạt theo nhóm,
mỗi nhóm từ 5 - 7 thành viên, cứ khoảng 10 - 12 nhóm thành lập một trung tâm tín dụng người nghèo.
Ngân hàng Grameen được tổ chức theo cấp 2 : cấp quản trị điều hành và cấp quản trị kinh doanh. Cơ quan cao nhất ban
hành chính sách, thực hiện thanh tra và kiểm tra là hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị do Chính phủ bổ nhiệm. Hội
đồng quản trị chỉ định giám đốc điều hành với phương thức cấp tín dụng đặc biệt, Grameen Bank chỉ cho người nghèo vay vốn
gắn với gửi tiền tiết kiệm bắt buộc hàng tuần để tạo lập nguồn vốn hoạt động. Vì vậy, Grameen Bank đã thiết lập cơ chế quản lý
nghiêm ngặt để hạn chế rủi ro, nâng cao trách nhiệm của mỗi thành viên, biến các thành viên vừa đóng vai trò khách nợ, vừa là
chủ nợ. Điều đặc biệt chú ý, Grameen Bank được quản lý bởi một bộ máy nhân sự riêng biệt, họ được tập thói quen làm việc vì
người nghèo, có khả năng giúp đỡ người nghèo và từng nhân viên phải cam kết làm tốt công việc nghiêm túc nhất. Tính đặc biệt
của Grameen Bank được khẳng định bởi hoạt động của nó nằm ngoài sự điều chỉnh của luật Ngân hàng Nhà nước, nó có pháp
lệnh riêng, hoạt động của nó không phải nộp thuế cho Nhà nước. Grameen Bank hoạt động theo nguyên tắc:
Thứ nhất: Để phát triển, Grameen Bank phải tự bù đắp được chi phí. Như vậy định chế tài chính này với thiết chế tín dụng
đặc biệt nhưng cũng là một ngân hàng thương mại truyền thống. Nó không được bao cấp bằng các khoản trợ cấp từ phía Chính
phủ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×