Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Hướng đi cho các chương trình đóng góp mạnh thường quân góp phần với ngân sách nhà nước hỗ trợ người nghèo - 3 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.45 KB, 34 trang )

Năm là: Nhà nước cần có chính sách ưu tiên hơn nữa trong việc sử dụng nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ đầu tư cho phát triển hạ tầng
các vùng khó khăn.
- Vốn huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân.
Vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn hiệu quả thu hồi vốn chậm và thấp nên để huy động các nguồn vốn khác ngoài
nguồn vốn ngân sách cho lĩnh vực này phải quan tâm hai vấn đề sau:
Thứ nhất: Có sự khuyến khích các nhà đầu tư bao gồm trên các lĩnh vực như môi trường đầu tư thuận lợi, có bảo đảm để người
đầu tư yên tâm bỏ vốn, thực hiện các hỗ trợ và ưu đãi về đầu tư. Hỗ trợ đầu tư bao gồm: hỗ trợ cơ sở vật chất, hỗ trợ để tạo điều
kiện cho họ tăng vốn kinh doanh, hỗ trợ về chuyển giao công nghệ.
Thứ hai: Phải đa dạng các hình thức huy động vốn từ các doanh nghiệp tổ chức và cá nhân cho đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn
mới khỏi tăng được mọi nguồn lực tiềm tàng, sẵn có từng địa bàn cụ thể.
- Vốn đi vay:
Vốn đi vay cho mục tiêu đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn chủ yếu là nguồn dài hạn, lãi suất ổn định. Trong điều kiện nguồn vốn
dài hạn từ ngân sách chưa thể đáp ứng được yêu cầu, do vậy Nhà nước cần cho phép các tỉnh đẩy mạnh phương thức phát hành
trái phiếu đầu tư để vay dân để tạo nguồn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
Vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam hiện nay bao gồm các nguồn: viện trợ phát triển chính thức, đầu tư trực tiếp, viện trợ của
các tổ chức phi chính phủ Song có 2 nguồn vốn sau đây có khả năng đầu tư cho hạ tầng nông thôn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Viện trợ phát triển chính thức (ODA): là nguồn vốn do các nước và các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại, nguồn vốn cho
vay lãi suất thấp hoặc cho vay không lãi. Đây là nguồn vốn tài trợ có mục tiêu thực hiện chương trình làm động lực cho cải cách
kinh tế như đường quốc lộ, thuỷ điện, thuỷ lợi, đường dây cao thế Nguyên tác sử dụng nguồn vốn này rất chặt chẽ, sử dụng
đúng dự án tài trợ. Tuy nhiên chúng ta vẫn có khả năng để thu hút nguồn vốn đầu tư này cho phát triển hạ tầng nông thôn. Đặc
biệt là đối với khu vực khó khăn miền núi, hải đảo bằng các chương trình và dự án như quy hoạch nông thôn, nước sách nông
thôn
Vốn đầu tư trực tiếp (FDI): là nguồn vốn của các tổ chức và cá nhân nước ngoài góp vốn đầu tư trực tiếp bằng hình thức liên
doanh theo quy định của luật đầu tư. Trong những năm thực hiện chính sách mở cửa, nước ta đã thu hút được một khối lượng vốn
FDI với tổng số vốn lên tới hàng tỷ USD. Trong đó thu hút vào lĩnh vực nông lâm ngư là trên 5% tổng số vốn. Tuy nhiên để mở
rộng thu hút vốn đầu tư FDI cho phát triển hạ tầng nông thôn và các vùng đặc biệt khó khăn miền nú hải đảo, thì đòi hỏi chúng ta
phải phát huy tiềm năng và lợi thế so sách của Việt Nam tạo ra môi trường thuận lợi, cởi mở để khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Ngoài 2 nguồn vốn nói trên chúng ta cũng cần tận dụng tối đa các nguồn tài trợ của tổ chức phi chính phủ và cá nhân ở nước
ngoài tài trợ cho phát triển hạ tầng nông thôn thông qua các dự án, chương trình khác nhau.
3.2.2. Hoàn thiện và nâng cấp ngân hàng phục vụ người nghèo thành ngân hàng chính sách.


3.2.2.1. Những định hướng hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo.
Định hướng thứ nhất: phải xác định ngân hàng phục vụ người nghèo là một ngân hàng chính sách chịu sự quản lý Nhà nước về
hoạt động ngân hàng của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Về tư cách pháp nhân nó là một tổ chức kinh tế Nhà nước. Với tư cách
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
là một ngân hàng chính sách nó có chức năng chủ yếu thực hiện chính sách hỗ trợ vốn cho người nghèo, theo đó hoạt động của
nó cũng hàm chứa một cơ chế chính sách riêng. Tính chính sách của ngân hàng phục vụ người nghèo được biểu hiện và phơi bày
ra ngoài bởi các quy định và các nguyên tắc hoạt động riêng biệt của nó: có điều lệ hoặc cao hơn là pháp lệnh hoạt động riêng, có
cơ chế quản lý và điều hành riêng, cơ chế tài chính và chính sách cán bộ riêng.
Định hướng thứ hai: ngân hàng phục người nghèo không chỉ thực thi cấp vốn tín dụng cho người nghèo mà một cái giá cao hơn
thế là thông qua hoặc kết hợp với việc truyền tải vốn có nhiệm vụ đào tạo nâng cao tri thức cho người nghèo. Muỗn vậy ngân
hàng phcụ vụ người nghèo phải gắn liền với các tổ chức đoàn thể xã hội địa phương và chính quyền sở tại từ mô hình tổ chức
điều hành đến cơ chế chỉ đạo phối hợp.
Định hướng thứ 3: để ngân hàng phục vụ người nghèo phát triển tốt phải có sự hỗ trợ đặc biệt từ phía chính phủ. Phát triển của
ngân hàng phục vụ người nghèo mà tập trung cốt lõi là hoạt động của nó phải làm tăng thu nhập cho người nghèo và giảm dần
nghèo đói trong điều kiện bù đắp được chi phí, có lãi để tăng trưởng nguồn vốn. Để đạt được điều đó, tài trợ của ngân sách Nhà
nước phải đặt ở vị trí ''xứng đáng'' trong hệ tác nhân hỗ trợ phát triển của ngân hàng phục vụ người nghèo.
Định hướng thứ 4: Ngân hàng phục vụ người nghèo phải được hỗ trợ nhất định về mọi nguồn vốn hoạt động từ các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Bởi xét trên một góc độ nào đó, ngân hàng phục vụ
người nghèo thay mặt các tổ chức tài chính - tín dụng, ''gánh vác'' toàn bộ nhiệm vụ cấp tín dụng cho người nghèo. Trên ý nghĩa
đó việc đóng góp nguồn vốn của mỗi tổ chức tín dụng để bổ sung nguồn vốn cho ngân hàng phục vụ người nghèo là điều hợp lý.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Không chỉ dừng lại ở phạm vi đó mà mỗi tổ chức kinh tế x hội phải có sự đóng góp nguồn vốn cho hoạt động của ngân hàng phục
vụ người nghèo.
Định hướng thứ 5: Để ngân hàng phục vụ người nghèo là ngân hàng chính sách và hoạt động có hiệu quả thì vấn đề có tính ''cốt
tử'' là yêu cầu bộ máy nhân sự cho nó phải đạt tới mức khả dĩ theo các hướng sau.
Bộ máy hội đồng quản trị và ban đại diện hội đồng quản trị phải có tổ thường trực, không kiêm nhiệm để đáp ứng điều hành theo
chức năng hoạt động.
Cấp quản trị kinh doanh phải được mở ít nhất đến cấp liên xã, phường. Bộ máy nhân sự từng cấp quản trị kinh doanh được tổ
chức với cơ cấu bao gồm: bộ phận khai thác và tạo nguồn vốn, bộ phận tiếp nhận, xử lý, quyết định cấp tín dụng, bộ phận hướng
dẫn sản xuất và thu nợ, bộ phận hậu cần bao gồm: hành chính nhân sự, tài chính ngoài ra còn có bộ phận kế toán và bộ phận ngân

quỹ.
Bộ máy quản trị kinh doanh của ngân hàng phục vụ người nghèo được trình bày ở sơ đồ sau là trên lý thuyết. Thực tế có thể được
điều chỉnh thêm, bớt, đan xen theo yêu cầu hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo từng cấp.
Nhiệm vụ đặc thù của tổ chức tín dụng cho người nghèo là hướng dẫn người nghèo làm cái gì để tăng thu nhập và sau đó là hoàn
trả được nợ. Kinh nghiệm thành công của Grameen Bank ngân hàng người nghèo ở Băngladesh, chính có trợ giúp của ngân hàng
không chỉ là vốn bằng tiềm mà còn bằng ''vốn kiến thức'' làm ăn đối với người nghèo. Bởi vậy tôi cho rằng Việt Nam có thể học
tập và áp dụng. Bộ máy tổ chức ngân hàng phục vụ người nghèo thiết kế trong nó một bộ phận hướng dẫn người nghèo sản xuất
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
là cần thiết không thể thiếu được. Tính khả dụng của bộ phận này trong bộ máy ngân hàng phục vụ người nghèo được lý giải trên
các cơ sở sau.
Một là:Trên lý thuyết nghiên cứu về người nghèo cho rằng họ đều biết làm ăn, song tiếp cận trên thực tế thì đa số người nghèo
khi có vốn vẫn lúng túng trong tổ chức làm ăn. Trong đó cả yếu tố sợ vốn trượt khỏi tay do rủi ro, làm ăn thất bát. Ngay cả
những hộ nghèo xưa nay thuần nông cầm trên tay vài ba triệu bạc tiền vay cũng còn lo có trả được nợ không? Những hộ nghèo
không những không đói vốn mà đòi cả kỹ thuật làm ăn. Vì vậy sự trợ giúp, hướng dẫn họ làm ăn lúc này là hết sức quý giá và
mang lại nhiều thành công cho cả ngân hàng lẫn cho cả người nghèo.
Hai là: Đa số hộ nghèo ở nước ta chủ yếu là hộ nông dân thuần nông, không chỉ giới hạn trên thửa ruộng họ cày mà có thể hướng
dẫn, khuyến khích các hộ nghèo tìm ra lối thoát với các ngành nghề mới để tạo thu nhập. Bộ phân hướng dẫn người nghèo sản
xuất của ngân hàng phục vụ người nghèo với những cán bộ ngân hàng có thể tiếp cận nghiên cứu, tổ chức lập dự án hướng dẫn hộ
nghèo tham gia dự án để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Ba là: Thông qua quá trình trực tiếp ''nắm vùng'' với các hộ nghèo vay vốn, tự nó đã tạo ra điều kiện tốt nhất để cán bộ ngân hàng
kiểm tra sử dụng vốn, hướng dẫn thu hoạch sản phẩm và tiến hành thu nợ tiền vay.
Bốn là: Nhân sự bộ phận hướng dẫn người nghèo sản xuất có hiểu biết nhất định về hoạt động ngân hàng nhưng cơ bản là những
cán bộ có kỹ thuật sản xuất, hiểu biết nông dân và nông thôn. Với nhân sự bộ phận này, ngân hàng phục vụ người nghèo có thể
phối hợp với các tổ chức khuyến nông để tuyển dụng những người đủ tiêu chuẩn tình nguyện xin làm việc tại ngân hàng phục vụ
người nghèo. Về lâu dài ngân hàng phục vụ người nghèo có thể tuyển dụng những sinh viên trẻ mới ra trường ở các ngành kỹ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thuật, sau đó bồi dưỡng cho họ kiến thức tài chính ngân hàng và đưa vào bộ phận tổ chức nói trên, có thể nói sợi chỉ đỏ xuyên
suốt để quán triệt quan điểm đạo đức với người nghèo, trước hết chính là ở chỗ, ngân hàng phục vụ người nghèo phải hết sức
phục vụ vì người nghèo. Muốn vậy bộ máy nhân sự của nó phải là những người có tâm huyết, hết sức thương yêu người nghèo.
3.2.2.2. Giải pháp tạo lập và khai thác tối đa nguồn vốn cho hoạt động ngân hàng phục vụ người nghèo.

- Vốn điều lệ.
Là một ngân hàng ''chính sách'' song ngân hàng phục vụ người nghèo là một tổ chức tín dụng của Nhà nước, có tư cách pháp
nhân, được Nhà nước cấp vốn điều lệ. Hiện nay vốn điều lệ của ngân hàng phục vụ người nghèo là 700 tỷ đồng. Tôi cho rằng với
số vốn điều lệ này quá thấp, bởi 2 lý do sau.
Thứ nhất: ngân hàng phục vụ người nghèo với mục tiêu hoạt động vì người nghèo, gắn liền với khách hàng người nghèo song
không có nghĩa là cơ sở vật chất cho hoạt động của nó phải ''nghèo'' theo quá mức, mà ngân hàng phục vụ người nghèo phải có
một cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động của hệ thống có mạng lưới từ trung ương đến cơ sở. Vốn để tạo ra cơ sở vật chất của
ngân hàng phục vụ người nghèo chủ yếu vẫn do sự hỗ trợ của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.
Thứ hai: Nguồn vốn điều lệ của ngân hàng phục vụ người nghèo không chỉ sử dụng xây dựng cơ sở vật chất mà còn tạo ra nguồn
vốn cho vay trong điều kiện nguồn vốn huy động hạn chế thì sử dụng nguồn vốn điều lệ để tạo ra nguồn vốn cho vay là hết sức
cần thiết của ngân hàng phục vụ người nghèo. Bởi vậy việc tăng vốn điều lệ lên một mức cao hơn cho ngân hàng phục vụ người
nghèo là phù hợp với thực tiễn đặt ra. Mặt khác vốn điều lệ của ngân hàng phục vụ người nghèo bao gồm: vốn ngân sách Nhà
nước cấp và vốn đóng góp dưới hình thức cổ phần của các cổ đông. Do đó cần động viên khuyến khích các cổ đông sáng lập tăng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
cổ phần đóng góp của mình để tăng vốn điều lệ ban đầu cho ngân hàng phục vụ người nghèo và cho phép các tổ chức kinh tế, xã
hội, cá nhân trong và ngoài nước tự nguyện đóng góp cổ phần tham gia vốn điều lệ. Số cổ đông này, nếu có cổ phần đóng góp lớn
sẽ được bầu vào hội đồng quản trị của ngân hàng phục vụ người nghèo.
- Vốn cổ phần.
Ngân hàng phục vụ người nghèo là tổ chức tín dụng của Nhà nước song nó là ngân hàng chính sách nên phải có thiết chế hoạt
động riêng. Điều lệ hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo cần tạo ra một pháp lý mà ở đó ngân hàng phục vụ người
nghèo được phép huy động cổ phần đóng góp từ các cổ đông thông thường, bao gồm 2 dạng:
Dạng cổ phần bắt buộc: ngân hàng phục vụ người nghèo quy định vốn cổ phần đóng góp bắt buộc cho mọi thành viên vay vốn.
Mức đóng góp bằng tỷ lệ phần trăm trên số tiền mỗi khoản vay và được khấu hao từ khoản vay. Tỷ lệ này được quy định rất nhỏ
khoảng 1-2%, tạo ra tâm lý tự nguyện của người vay, họ xem đó như là một khoản tiết kiệm nhỏ. Song đối với toàn hệ thống
ngân hàng phục vụ người nghèo, có thể tạo ra nguồn vốn tái cho vay đáng kể. Ví dụ: tỷ lệ đóng góp cổ phần bằng 1% khoản vay,
doanh số cho vay là 8000 tỷ đồng ta sẽ huy động vốn cổ phần đóng góp dạng này 80 tỷ đồng. Tất nhiên đối với loại cổ phần này
không được hưởng cổ tức, không cho phép cổ đông rút ra bất cứ lúc nào.
Dạng cổ phần tự nguyện: Nhà nước và ngân hàng phục vụ người nghèo khuyến khích và động viên tất cả mọi tổ chức kinh tế, xã
hội, đoàn thể, mọi cá nhân trong và ngoài nước tham gia đóng góp cổ phần hưởng cổ tức vào ngân hàng phục vụ người nghèo.
Loại cổ phần này nên duy trì ổn định, chỉ được rút ra khi có thời gian đóng vào khá dài (5năm, 10 năm, 20 năm ). Khi công tác

tuyên truyền, phong trào xã hội và từ thiện trong cộng đồng được mở rộng và phát triển thì vốn cổ phần dạng này sẽ nâng lên.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Nguồn vốn huy động từ kênh ngân sách Nhà nước.
Hiện nay vốn của ngân sách Nhà nước chi cho các mục đích liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện chương trình xoá đói
giảm nghèo ở nước ta với con số không phải nhỏ. Mặc dù ngân sách Nhà nước vẫn bội chi lớn, chính phủ vẫn phải đi vay dân,
vay nước ngoài để bù đắp nhưng hàng năm vẫn phải chi ra hàng nghìn tỷ đồng cho chương trình này.
Vốn ngân sách Nhà nước dù dưới 2 dạng: cấp phát không hoàn lại và cấp phát có hoàn lại thông qua các chương trình tín dụng
Nhà nước. Thực tế cho thấy cách thức cấp phát, cho vay của ngân sách Nhà nước thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo đạt
hiệu quả còn thấp do nhiều nguyên nhân. Song cốt lõi của vấn đề bởi nguyên nhân nguồn vốn chưa được bảo toàn tăng trưởng,
sinh lời. Bên cạnh đó cách thức truyền tải vốn thấp của nguồn vốn thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Bởi vậy các
nguồn vốn của NSNN cho mục tiêu, chương trình xoá đói giảm nghèo chưa được tập trung. Song để nguồn vốn không phân tán
và chồng chéo, cấp đúng đối tượng phải chuyển về một mối thực hiện chức năng tín dụng cho người nghèo. Ngân hàng phục vụ
người nghèo được thành lập với đúng ý nghĩa của nó, là kênh huy động vốn chính thức các nguồn vốn cho người nghèo. Trong đó
các nguồn vốn của ngân sách Nhà nước cho mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo phải được chuyển vào kênh tín dụng này
bao gồm các nguồn chủ yếu sau:
+ Nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho chương trình tín dụng có liên quan đến người nghèo thực hiện qua kho bạc Nhà nước.
Kênh này bao gồm: nguồn vốn thực hiện chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, nguồn vốn thực hiện chương trình quốc
gia về phủ xanh đất trống đồi núi trọc
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Cơ sở thực hiện việc chuyển một phần các nguồn vốn nói trên vào kênh tín dụng ngân hàng phục vụ người nghèo được luận
chứng bởi.
Một là: Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nêu rõ ''Hiện nay gần 20 chương trình quốc gia và dự án được thực
hiện có nội dung gắn với xoá đói giảm nghèo. Từ năm 1996 sẽ lồng ghép chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình
khác trong đó lấy chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình phát triển kinh tế
xã hội các xã đặc biệt khó khăn làm nòng cốt''. Như vậy ý nghĩa mục tiêu của các chương trình quốc gia này đã được khẳng định
về tính chủ đạo cho việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo trong các năm tới ở nước ta. Do đó để tạo ra nguồn vốn tập
trung hỗ trợ người nghèo, tôi cho rằng việc chuyển một bộ phận của 3 nguồn vốn trên vào ngân hàng phục vụ người nghèo là cần
thiết và hợp lý. Vốn giải quyết việc làm chỉ giao cho kho bạc Nhà nước quản lý và cho vay tạo việc làm cho vùng đô thị và các
dự án lớn.
Hai là: chính việc giao cho ngân hàng phục vụ người nghèo quản lý các nguồn vốn nói trên không những tập trung nguồn vốn về

một mối, quản lý có hiệu quả cao hơn mà còn tạo điều kiện cho kho bạc Nhà nước thực hiện tốt các chức năng vốn có của nó.
Ba là: Đưa nguồn vốn hỗ trợ người nghèo vào một kênh tín dụng chính thức sẽ hạn chế sự lộn xộn của kênh vốn cho người nghèo
trên thị trường tài chính tín dụng nông thôn. Người nghèo được vay vốn một kênh với chính sách thống nhất như mức cho vay,
lãi suất cho vay, thời hạn cho vay, phương thức trả nợ
Bốn là: nguồn vốn của NSNN được bảo toàn thông qua hình thành quỹ bảo toàn vốn ngân sách cấp tại ngân hàng phục vụ người
nghèo.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Ngân sách Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho vùng nghèo, các xã đặc biệt khó khăn xây dựng cơ sở hạ tầng để cải thiện mức sống
cộng đồng.
Ngân sách Nhà nước chi cho các chương trình mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội.
Quan điểm sử dụng các nguồn kinh phí NS nói trên là hình thành các dự án nhỏ của các tổ chức đoàn thể cộng đồng, ngân hàng
phục vụ người nghèo thực hiện cho vay vốn để thực hiện dự án. Nguồn ngân sách được ngân hàng phục vụ người nghèo bảo toàn
vốn gốc ban đầu của nó.
- Nguồn hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước địa phương được trích một phần chuyển vào ngân hàng phục vụ người nghèo điạ phương
để hỗ trợ nguồn vốn cho vay đối với người nghèo. Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo đã trở thành vấn đè trên bình diện
quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa là vốn hỗ trợ cho người nghèo không chỉ thuộc các chương trình quốc gia, mà sự đóng góp tích
cực của từng địa phương là hết sức cần thiết. Tính đến ngày 31-12-2000 nguồn vốn từ ngân sách địa phương chuyển sang ngân
hàng phục vụ người nghèo là con số không nhỏ. Song phải hình thnàh cơ chế động viên thu hút và sử dụng nguồn vốn này thống
nhất trong cả nước. Theo tôi, cơ chế đó phải thực hiện được nguyên tắc bảo toàn vốn gốc cho ngân sách, chứ không trả lãi trực
tiếp cho địa phương.
- Tiền gửi tiết kiệm của cộng đồng người nghèo.
Mặc dù phải vay mượn và ''ăn đong'' nhưng người nghèo ở nước ta luôn có tư tưởng, ý thức tiết kiệm. Với những món tiền nhỏ
của những hộ nghèo có thể tiết kiệm được, sẽ trở thành khoản tiền lớn, tạo nguồn cho ngân hàng phục vụ người nghèo quay vòng
nó. Việc thực hiện huy động vốn bằng các hình thức tiết kiệm bắt buộc hoặc tự nguyện sau đây:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tiền gửi tiết kiệm bắt buộc: Tiết kiệm bắt buộc là yêu cầu đối với các hộ nghèo khi vay vốn ngân hàng phục vụ người nghèo.
Tiết kiệm của hộ nghèo được gửi trực tiếp thông qua tổ vay vốn để gửi vào ngân hàng phục vụ người nghèo. Sự bắt buộc này đã
hình thành cho người nghèo có ý thức và kế hoạch chi tiêu tiết kiệm để tạo nguồn tích luỹ trả nợ khi đến hạn, hơn nữa tạo thói
quen tiếp cận với nền kinh tế tiền tệ mà họ đang bước tới. Việc gửi tiền tiết kiệm bắt buộc đối với hộ nghèo và phù hợp với khả
năng tiết kiệm của hộ nghèo vay vốn có thể tiến hành theo định kỳ quy định của ngân hàng phục vụ người nghèo và phù hợp với

khả năng tiết kiệm của hộ nghèo. Nhưng hiệu quả hơn cả, phải tiết kiệm từ món tiền nhỏ với từng định kỳ thời gian hàng tuần
hay 20 ngày trở lại. Số tiền tiết kiệm bắt buộc cũng không cần trả lãi cho người nghèo, bởi doanh số nhỏ được xem như tiền cất
''hòm'' vậy.
Tiền gửi tiết kiệm tự nguyện nhưng hấp dẫn thông qua xổ số: hình thức tiết kiệm tự nguyện, không hưởng lãi nhưng gắn liền với
trao thưởng thông qua xổ số tiết kiệm chắc chắn có nhiều khả thi. Bởi tâm lý phần lớn của người nghèo ở nông thôn nước ta là
luôn ''cầu''may. Tình trạng đánh đề ở các vùng quê Việt Nam là minh chứng cho điều đó. Ngân hàng phục vụ người nghèo có thể
phối hợp với các công ty xổ số quay thưởng cho sổ tiết kiệm trên cơ sở giải thưởng và chi phí được tính từ lãi tiết kiệm mà họ
không phải trả cho người nghèo. Hình thức tiết kiệm này còn có tác dụng hạn chế tình trạng đánh đề và phường hụi ở nông thôn.
Tiền gửi từ quỹ tổ tương hỗ. Ngân hàng phục vụ người nghèo cần hướng dẫn cho các tổ vay vốn hình thành quỹ tổ tương hỗ.
Việc hình thành quỹ này là cần thiết cho sự tương trợ và ràng buộc với nhau giữa các thành viên trong tổ, bởi nếu được quy định
như sau:
Thành viên ra khỏi tổ không được rút tiền đóng góp.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Có thể rút tiền quỹ trả nợ cho mỗi thành viên khi mất khả năng trả nợ ngân hàng.
Quỹ tổ được hình thành từ khấu trừ khoản vay (khoảng 1-2%) và được gửi vào ngân hàng phục vụ người nghèo nơi thành viên
vay vốn. Tiền gửi sẽ được ngân hàng trả lãi. Việc tạo ra quỹ tổ là điều kiện giảm bớt rủi ro cấp tín dụng cho người nghèo chỉ dựa
vào tín chấp là bảo đảm không có pháp lý.
- Tiền gửi thực hiện mục tiêu hỗ trợ người nghèo của các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính tín dụng. Để thành công
trong việc hỗ trợ vốn cho người nghèo, thì ngân hàng phục vụ người nghèo phải được sự hỗ trợ hợp lực của toàn nền kinh tế.
Trong đó về phương diện nguồn vốn phải có sự chia sẻ khó khăn của hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính tín
dụng, đặt ra điều này bởi các lý do sau:
Một là: Xoá đói giảm nghèo là một mục tiêu trong hệ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Kinh tế xã hội phát triển điều
đó đảm bảo và quyết định cho tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế được xem là một trong những mục tiêu hàng đầu của
chính sách tiền tệ quốc gia. Hiểu một cách lôgic, xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ mà hệ thống ngân hàng Việt Nam phải góp
phần gánh vác để thực hiện tốt mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Bởi vậy các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính tín
dụng phải có nhiệm vụ tạo nguồn vốn để hỗ trợ người nghèo là vấn đề đặt ra có đủ luận chứng.
Hai là: Vấn đề giúp người nghèo có vốn làm ăn là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội và toàn thể cộng đồng.
Quả thật về mặt nhân văn người nghèo cũng là con người cần phải giúp đỡ họ. Trong đó các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính tín dụng, với lợi thế nguồn vốn của mình, với bề dầy lịch sử cấp vốn cho người nghèo, phải có trách nhiệm tạo
nguồn vốn cho người nghèo là vấn đề phù hợp đạo lý nhân văn nói trên.

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Ba là: Để đảm bảo thực hiện sự hỗ trợ nói trên, cần phải có một điều lệ quy định rõ trách nhiệm này trong luật ngân hàng và luật
các tổ chức tín dụng.
- Tiền gửi từ các tổ chức kinh tế xã hội, cá nhân trong và ngoài nước. Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức kinh tế, xã hội, cá
nhân trong và ngoài nước gửi tiền vào ngân hàng phục vụ người nghèo để tạo nguồn vốn cho vay đối với người nghèo. Tuy nhiên
đây là hình thức tiền gửi theo cơ chế lãi suất thị trường. Bởi vậy tuỳ vào yêu cầu thực tiến nguồn vốn mà ngân hàng phục vụ
người nghèo tổ chức huy động.
Nhà nước cho phép huy động tiền gửi từ các quỹ bảo hiểm và các quỹ khác với lã một số quỹ thuộc dạng này có nguồn vốn rất
lớn tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng để sinh lời nó thông qua tác động của kênh vốn tín dụng.
- Huy động vốn từ các nguồn tài trợ cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo.
Ngân hàng phục vụ người nghèo với tư cách đại diện cho chính phủ tiếp nhận mọi nguồn vốn hỗ trợ cho người nghèo, tự nó đã
khẳng định là tổ chức chính thức được giao nhiệm vụ thu hút các nguồn tài trợ cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Để khai thác
các nguồn tài trợ cho mục tiêu nói trên, yếu tố cần thiết trước hết phải có định hướng, chính sách của Nhà nước phải rõ ràng, cụ
thể. Định hướng, chính sách của Nhà nước là hành lang và đường băng, cũng là điều kiện để khỏi dòng vốn tài trợ này và thu hút
nó vào kênh tín dụng cho người nghèo. Để làm được điều đó định hướng và chính sách của Nhà nước phải thể hiện được các nội
dung sau:
Thứ nhất: Khuyến khích sự tài trợ của mọi tổ chức cá nhân chia sẻ với cộng đồng người nghèo. Qua đó họ có những hành động,
chương trình giúp đỡ có tính nhân đạo cho người nghèo vùng nghèo.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Thứ hai: Khuyến khích mọi tổ chức kinh tế, xã hội, đoàn thể và cá nhân hình thành các dự án thu hút nguồn tài trợ cho người
nghèo, đồng thời tạo điều kiện tốt nhất cho họ tiếp nhận các nguồn tài trợ đó.
Thứ ba: Đảm bảo các nguồn tài trợ được sử dụng với hiệu quả cao nhất vừa thực hiện đúng mục tiêu tài trợ, vừa tạo lòng tin cho
người tài trợ.
Để khỏi tăng các nguồn tài trợ nói trên, ngân hàng phục vụ người nghèo cần phải giải quyết tốt các vấn đề sau:
Một là: ngân hàng phục vụ người nghèo chủ động phối hợp cùng với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, hiệp hội kêu gọi và ký kết
các hiệp ước tài trợ thông qua đầu tư vốn vào các chương trình và dự án, giúp đỡ kỹ thuật, đào tạo trí thức cho người nghèo.
Hai là: ngân hàng phục vụ người nghèo phối hợp với các bộ, ngành, đoàn thể hữu quan xây dựng các chương trình, dự án xoá đói
giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn có tính khả thi để thu hút các nguồn tài trợ.
Ba là: Hình thành một cơ chế tiếp nhận nhanh nguồn tài trợ từ uỷ thác của chủ dự án hoặc chương trình trong khuôn khổ luật lệ
cho phép.

Bốn là: ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện quản lý nguồn và cấp tín dụng đạt chất lượng theo yêu cầu của chủ dự án và
đúng mục tiêu dự án. Thực tế cho thấy các nguồn tài trợ cho muc tiêu xoá đói giảm nghèo mang nặng tính chất xã hội từ thiện và
nhân đạo song không phải như vậy mà cho phép phía nhận tài trợ quản lý lỏng lẻo. Ngược lại hoàn toàn điều đó, phía quản lý tài
trợ chịu sự kiểm soát khắt khe của phía tài trợ. Bởi vậy yêu cầu ngân hàng - người tiếp nhận uỷ thác quản lý phải nâng cao vai
trò, trách nhiệm thực hiện đúng cam kết của hợp đồng đã nhận với bên uỷ thác.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tài trợ vốn cho người nghèo đang là xu thế của cộng đồng thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Trong điều kiện nguồn vốn
huy động qua các kênh chính thức đáp ứng cấp tín dụng cho người nghèo thì khỏi tăng nguồn vốn tài trợ cho mục tiêu xoá đói
giảm nghèo là hết sức quan trọng cho hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo. Điều đó, với sự nỗ lực riêng của ngân hàng
phục vụ người nghèo là chưa đủ mà cần sự trợ giúp của Nhà nước các cấp, các ngành, các tổ chức kinh tế, xã hội thông qua
phong trào tuyên truyền khích lệ các nhà tài trợ và các nhà hảo tâm.
- Nguồn vốn từ quỹ bù đắp rủi ro.
Cấp tín dụng cho người nghèo bao giờ cũng đồng hành với rủi ro mất vốn. Quả thật, khả năng hoàn trả vốn đúng hạn và đầy đủ
của người nghèo vay vốn còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy các hộ nghèo chủ yếu tập trung vào vùng nông thôn, sản xuất nông
nghiệp gắn với thiên tai, mất mùa xảy ra thường xuyên. Do vậy không có quỹ bù đắp rủi ro mất vốn cho ngân hàng phục vụ
người nghèo thì sự tồn tại của nó hết sức mong manh. Bởi nguồn vốn sẽ hụt dần cùng với việc khoanh nợ, xoá nợ cho hộ nghèo,
mặt khác do tâm lý sợ bị lỗ, người nghèo thích thu lợi nhanh nên tính toán bỏ vốn làm ăn luẩn quẩn, ít hiệu quả. Người nghèo
thường tung hết vốn liếng vào làm ăn nên khi thất bát rơi vào thế ''trắng tay'', nợ nần. Cũng không ít trường hợp do túng thiếu
quanh năm, tiền vốn ngân hàng cho vay có thể bị sử dụng vào mục đích khác như mua lương thực, chữa bệnh, tiền học cho con
để đảm bảo những nhu cầu cơ bản của con người.
Lập quỹ bù đắp rủi ro là việc cần thiết cho mọi tổ chức tín dụng, song nó lại cần thiết hơn đối với tổ chức tín dụng cho người
nghèo. Mặc dù đã có quyết định số 48/1999/QĐ - NHNN 5 ngày 8-2-1999 của thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam, song
hiện nay vẫn chưa thể thực hiện được bởi vì vấn đề đặt ra là lấy nguồn từ đâu để lập quỹ bù đắp rủi ro này và sử dụng nó cho
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hiệu quả trong điều kiện ngân hàng phục vụ người nghèo với khả năng tạo ra lợi nhuận rất thấp. Vì vậy, theo tôi cần tạo ra một
cơ chế lập quỹ bù đắp rủi ro cho ngân hàng phục vụ người nghèo phù hợp với tính ''chính sách'' của nó. Nhà nước nên cho phép
trích từ ngân sách Nhà nước để cấp cho ngân hàng phục vụ người nghèo hình thành quỹ bù đắp rủi ro trên cơ sở có sự tự lực của
ngân hàng phục vụ người nghèo. Tức là quỹ bù đắp rủi ro được lập từ hai nguồn: ngân sách Nhà nước cấp và nguồn trích từ lợi
nhuận của ngân hàng phục vụ người nghèo. Song phần ngân sách Nhà nước cấp là chủ yếu, tỷ lệ này sẽ được giảm dần khi lợi
nhuận của ngân hàng phục vụ người nghèo tăng lên.

Nguồn của ngân sách Nhà nước cấp để hình thành quỹ bù đắp rủi ro cho ngân hàng phục vụ người nghèo được trích ra từ quỹ dự
phòng trợ cấp các vùng thiên tai đối với hộ nghèo, vùng nghèo Như vậy chi ngân sách Nhà nước thực tế không tăng lên mà
thay đổi phương thức chỉ để đạt mục tiêu sử dụng cao hơn. Bởi vậy trợ cấp khắc phục thiên tại bằng xin, cho, cấp chỉ phù hợp
với những giải pháp tính thế mang tính cứu tế mà thôi.
Để ngân hàng phục vụ người nghèo hoạt động và phát triển, quỹ bù đắp rủi ro được lập thường xuyên với số dư đủ lớn. Khi thực
tế có rủi ro, được trích quỹ để bù đắp kịp thời đảm bảo nguồn vốn hoạt động cho ngân hàng phục vụ người nghèo. Quỹ bù đắp rủi
ro cho ngân hàng phục vụ người nghèo khi chưa sử dụng (phản ánh trên số dư của quỹ) được sử dụng để tăng nguồn vốn cho vay
và bảo toàn nó. Tuy nhiên để quỹ này sử dụng đúng mục đích và hiệu quả phải có một cơ chế quản lý như đối với các quỹ tài
chính đặc thù.
- Ngoài những nguồn vốn nói trên, ngân hàng phục vụ người nghèo có thể sử dụng tối đa các nguồn huy động tiền gửi bằng việc
quy định miễn nộp dự trữ bắt buộc vaò ngân hàng Nhà nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải gửi tại ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Như vậy nếu ngân hàng phục vụ người nghèo được thực thì chính sách miền nộp dự trữ bắt buộc vào ngân hàng Nhà nước sẽ tạo
ra khả năng mở rộng hệ số tạo tiễn của nó. Nói một cách cụ thể hơn, việc được miễn nộp tiền dự trữ bắt buộc sẽ tạo cho ngân
hàng phục vụ người nghèo sử dụng tối đa nguồn vốn huy động từ tiền gửi để cho vay. Hơn nữa, đó cũng là điều kiện làm giảm
đáng kể lãi suất cho vay đối với ngân hàng phục vụ người nghèo.
Ngân hàng Nhà nước hoàn toàn có đủ luận chứng để thực thi miễn nộp tiền dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng phục vụ người
nghèo bởi các lý do sau:
Một là: Tiền gửi huy động của ngân hàng phục vụ người nghèo ít xảy ra mất khả năng thanh toán bởi chủ yếu nguồn tiền gửi ổn
định, quy mô nhỏ.
Hai là: Việc tăng hộ số tạo tiền, theo đó cung ứng tiền thông qua cấp tín dụng cho người nghèo tăng lên, song ngân hàng Nhà
nước vẫn chủ động kiểm soát được lượng tiền cung ứng, bởi hạn mức tín dụng cho người nghèo có giới hạn theo khả năng nguồn
vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo.
Ba là: Nâng hệ số tạo tiền, giảm được lãi suất cho vay có tác động tích cực thực hiện chính sách ưu đãi đối với người nghèo, điều
đó không ảnh hưởng lãi suất trên thị trường tín dụng của nền kinh tế bởi đối tượng nhận tín dụng được giới hạn trong khu vực
người nghèo và vùng nghèo.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Từ những phân tích ở trên, hơn nữa thực tiễn hoạt động của một ngân hàng ''chính sách'' yêu cầu ngân hàng Nhà nước phải thực
thi chính sách miễn nộp dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng phục vụ người nghèo. Tạo cho nó khả năng tăng nguồn vốn hoạt động

mà không gây tác động tiêu cực đến việc thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước.
3.2.2.3. Giải pháp sử dụng vốn cho người nghèo của ngân hàng phục vụ người nghèo.
- Đối tượng được cấp tín dụng.
Cấp tín dụng cho người nghèo chẳng khác gì tạo cho họ chiếc cần câu để họ câu được xâu cá. Để câu được xâu cá, người nghèo
phải biết câu. Bởi vậy tín dụng cho người nghèo cũng chỉ cấp cho ai biết sử dụng nó để tăng thu nhập góp phần xoá đói giảm
nghèo. Để xác định đúng đối tượng này là hết sức cần thiết nhưng có nhiều phức tạp.
Trước hết chúng ta phải xác định đối tượng người nghèo vay vốn là các hộ nghèo. Bởi vậy từ khi nghị quyết 10 Đại hội Đảng lần
thứ 6, hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ. Do vậy hộ nghèo được sử dụng làm đối tượng cấp tín dụng là hoàn
toàn đáp ứng yêu cầu thực tiễn đã và đang đặt ra. Vậy cơ sở nào để xác định là hộ nghèo? Như đã nói ở trên, hiện nay nước ta
đang quy định chuẩn mực hộ nghèo theo quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01-11-2000. Song vấn đề đặt ra việc xác
định hộ gia đình nào có mức thu nhập đúng chuẩn mực hộ nghèo là hết sức khó khăn mỗi khi thu nhập làm ăn của từng hộ không
được công khai. Vậy khả thi hơn cả, để xác định hộ nghèo một cách tương đối (theo nghĩa so với chuẩn mực) phải thiết lập môt
cơ chế kiểm soát, giảm sát của cộng đồng thông qua bình xét, lựa chọn công khai của các tổ chức, đoàn thể địa phương, làng
thôn. Tính ''công khai cộng đồng'' tự nó sẽ lấn áp và đè bẹp tính ''độc quyền, xét, xin, cho'' phi cộng đồng của tổ chức chính
quyền sở tại thường xảy ra trong việc công nhận hộ nghèo được vay vốn. Trở lại vốn đề ''cần câu'' và ''xâu cá'' nói trên, hộ nghèo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
muốn vay vốn phải biết sử dụng vốn mà quyết định trước hết là phải có sức lao động. Bởi vậy các đối tượng nghèo đói không có
sức lao động hoặc đối tượng rượu chè, cờ bạc không thuộc đối tượng cấp tín dụng.
- Xác định điều kiện cấp tín dụng.
Ngân hàng phục vụ người nghèo cần tạo ra một điều kiện vay vốn nới rộng, thuận lợi cho người vay song phải đảm bảo tính
nghiêm ngặt của tổ chức tín dụng này. Các điều kiện đó là:
+ Ngoài những điều kiện vay vốn thông thường của ngân hàng thì các hộ nghèo phải cam kết chấp hành điều lệ vay vốn của ngân
hàng phục vụ người nghèo như gia nhập tổ vay vốn, đóng góp cổ phần, tiết kiệm bắt buộc, sử dụng vốn tạo được thu nhập
+ Vốn vay trước hết dùng vào sản xuất kinh doanh để tăng thu nhập, sau đó mới cho vay sửa nhà cửa, tạo nơi ăn chốn ở và vay
tiêu dùng khác.
- Lãi suất cho vay đối với người nghèo đang là vấn đề phức tạp. Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng
có thể tổng hợp thành 2 loại như sau:
Loại thứ nhất: Để giúp người nghèo sản xuất, giảm bớt chi phí đầu vào nên áp dụng lãi suất cho vay theo dạng tài trợ.
Loại thứ hai: Hiện nay người nghèo rất cần vốn để tổ chức sản xuất kinh doanh, một số phải vay nặng lãi ở thị trường vốn
''ngầm'' yêu cầu của họ là được vay vốn nhanh. Vì vậy lãi suất cho vay đối với người nghèo nên áp dụng bằng hoặc lớn hơn lãi

suất thị trường.
Cả 2 loại lý kiến trên, xét điều kiện của Việt Nam hiện nay là chưa hợp lý, bởi lẽ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trường hợp thứ nhất: Cho vay theo lãi suất tài trợ, bộc lộ một số nhược điểm như gây cho người nghèo tâm lý trông chờ, ỷ lại,
sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả, thậm chí sử dụng vốn vay để gửi lại ngân hàng hoặc cho vay các đối tượng khác để
hưởng chênh lệch lãi suất. Mặt khác nguồn vốn cho vay sẽ cạn kiệt dần do tiền lãi thu được, ngoài phần bù đắp chi phí, không
thể bảo toàn vốn, chưa kể rủi ro mất vốn. Vì vậy đã làm triệt tiêu dần tính sinh lời của vốn tín dụng.
Trường hợp 2: Nếu cho vay với lãi suất ngang bằng hặoc cao hơn lãi suất thị trường là không chú ý đến người nghèo và như vậy
càng đẩy người nghèo vaò ngõ cụt.
Vấn đề đặt ra một khi chúng ta thừa nhận giải pháp vốn tín dụng cho người nghèo là hết sức cần thiết và quan trọng, thì phải có
sự ưu tiên về mặt lãi suất và điều kiện vay vốn. Mặt khác cùng với việc thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp để thực hiện mục xoá
đói giảm nghèo thì lãi suất tín dụng cho người nghèo được đặt ra như một công cụ ảnh hưởng trực tiếp đối với quá trình ổn định
đời sống, phát triển sản xuất và từ đó có thể bứt khỏi ngưỡng đói nghèo.
Để khắc phục các tồn tại khi thực hiện chính sách lãi suất của 2 loại ý kiến nêu trên, theo tôi nên áp dụng mức lãi suất cho vay
đối với người nghèo thấp hơn lãi suất thị trường và cao hơn lãi suất tài trợ song phải đảm bảo bù đắp được chi phí, bảo toàn được
nguồn vốn, tiến tới có lợi nhuận để bù đắp rủi ro.
- Một số vấn đề khi thực hiện cho vay và thu hồi nợ.
Một là: Mức cho vay đối với từng hộ nghèo được án định dựa trên 2 cơ sở đó nguồn vốn có thể huy động của ngân hàng phục vụ
người nghèo và thực tế nhu cầu vay vốn, từng loại hộ sản xuất kinh doanh khác nhau. Hiện nay mức cho vay tối đa không quá 3
triệu đồng/hộ. Riêng đối với những hộ nghèo đầu tư cho chăn nuôi đại giá súc, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, nuôi trồng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
đánh bắt hải sản, kinh doanh ngành nghề được vay vốn tối đa là 5 triệu đồng/hộ. Việc quy định mức cho vay bình quân nói trên
là chưa phù hợp với các đối tượng hộ nghèo phi nông nghiệp, các hộ nghèo đánh bắt hải sản. Bởi vậy ngân hàng phục vụ người
nghèo phải đảm bảo cho hộ nghèo một mức tín dụng để họ tạo ra thu nhập. Việc chia bình quân mức cho vay là tạo điều kiện cho
sự vùng dậy tư tưởng trông chờ hưởng cứu tế của người nghèo.
Hai là: Để cho hộ nghèo tạo ra thu nhập và trả nợ từ bán sản phẩm thì việc quy định thời hạn cho vay phải gắn liền với chu kỳ
sản xuất kinh doanh mà hộ gia đình đầu tư. Việc quy định thời hạn cho vay đối với hộ nghèo chỉ bằng hai loại ngắn hạn và trung
hạn là cần thiết, song chính nó có thể là sự áp đặt phi lý trong nhiều trường hợp. Bởi vậy theo tôi cần phải đa dạng nhiều loại
thời hạn cho vay.
Ba là: Để vốn tín dụng đến với người nghèo không sai đối tượng, sử dụng sai mục đích thì công việc thẩm định của cán bộ tín

dụng là không thể thiếu được. Bởi vậy theo tôi thì bộ phân cấp tín dụng chỉ được ký vào hợp đồng tín dụng khi có kết quả thẩm
định của cán bộ tín dụng phụ trách khu vực.
Bốn là: Để vốn cho vay đúng đến đối tượng được cấp, mặt khác tránh các trung gian quy định thu phụ phí, vấn đề đặt ra phải tạo
một cơ chế mà ngân hàng phục vụ người nghèo phát vốn trực tiếp đến từng hộ nghèo hoặc thông qua tổ vay vốn.
Năm là: Việc thu nợ tiền vay đối với hộ nghèo phải căn cứ vào thu hoạch sản phẩm thực tế của họ. Nhiệm vụ thu nợ là công việc
thường xuyên được giao chuyên trách cho một bộ phận của ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện, với quy định chuyên trách
vừa là người hướng dẫn sản xuất, vừa kiểm tra sử dụng vốn thì việc thu nợ lại càng thuận lợi hơn. Trong nhiều trường hợp, cán
bộ thu nợ có thể giúp đỡ bao tiêu sản phẩm để các hộ nghèo có tiền trả nợ.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Sáu là: Ngân hàng phục vụ người nghèo cần thực hiện một quy trình mà ở đó các thủ tục nghiệp vụ đơn giản và thực hiện quy
chế công khai hoá mọi công đoạn thủ tục xin cấp tín dụng đối với hộ nghèo. Sự công khai này bao gồm: danh sách được xét cho
vay, mức cho vay, thời hạn cho vay được thông báo rộng rãi để có sự giám sát của cộng đồng.
3.2.3. Huy động và sử dụng vốn hỗ trợ người nghèo từ các quỹ của các tổ chức quần chúng hiệp hội trong nước.
Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về sự xuất hiện của các mô hình tổ chức dịch vụ tài chính vi mô không chính thức để
tài trợ vốn cho người nghèo như: quỹ hộ trợ nông dân của hội nông dân Việt Nam, quỹ tương trợ phục nữ nghèo của hội phụ nữ
và một số quỹ khác. Song xét chung có 2 loại ý kiến sau đây:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, sự ra đời các kênh dẫn vốn nói trên làm tăng thêm sự lộn xộn của thị trường tài chính tín dụng ở
nông thôn nói chung và kênh dẫn vốn cho người nghèo nói riêng. Bởi nó đã làm phát sinh cho vay trùng lặp, chồng chéo, vốn
vay chạy vòng vèo và cuối cùng hiệu quả tiếp vốn cho người nghèo đạt hiệu quả thấp. Do đó cần xem xét lại sự tồn tại của nó.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, phát triển các quỹ tạo nguồn vốn hỗ trợ nông dân nghèo và phụ nữ nghèo là đáp ứng sự đa dạng
hoá các nguồn vốn, từ đó đáp ứng nhiều hơn nhu cầu vốn cho người nghèo. Vì vậy sự phát triển của các quỹ này là phù hợp cần
được nghiên cứu và xác định hướng hoàn thiện để nâng cao về mặt thể chế trong tương lai. Tôi đồng tình với loại ý kiến này. Bởi
vậy xin đề xuất một số điểm nhằm huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ người nghèo từ các quỹ nói trên như
sau:
- Đối với quỹ hỗ trợ nông dân.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế hoạt động đối với quỹ hỗ trợ nông dân phù hợp với chính sách tín dụng cho người
nghèo trên cơ sở tham chiếu tính đặc thù hoạt động của hội nông dân. Về hướng lâu dài, nếu đủ khả năng, cần chuyển nó trở
thành dạng ngân hàng cổ phần nông thôn. Trước mặt để củng cố hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân, ngân hàng Nhà nước cần tạo
điều kiện giúp đỡ nghiệp vụ cho cán bộ quản lý quỹ này.

+ Phải xác định đối tượng cho vay nông dân nghèo là hộ. Hội nông dân phải kết hợp tốt với ngân hàng phục vụ người nghèo để
phân vùng đối tượng cho vay, tránh cấp vốn chồng chéo.
+ Lãi suất cho vay đối với nông dân nghèo từ quỹ hỗ trợ nông dân phải quy định bằng mức lãi suất cho vay đối hộ nghèo từ
nguồn vốn của ngân hàng phục vụ người nghèo.
+ Hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân phải được điều chỉnh trong một thể chế kiểm soát của cộng đồng nông dân nghèo. Có như
vậy mới đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững lâu dài của quỹ.
+ Để tăng cường nguồn vốn hoạt động, quỹ hỗ trợ nông dân cần mở rộng nguồn tài trợ thông qua hình thành các dự án phát triển
nông thôn mới.
- Đối với quỹ tương trợ phụ nữ nghèo.
+ Đa dạng hoá các nguồn vốn vay cho phụ nữ nghèo, tạo cơ hội cho họ có việc làm, tăng thu nhập. Muốn vậy phải.
Củng cố và phát triển mạnh nhóm phụ nữ tín dụng - tiết kiệm: như một số nơi đã làm, đây là một mô hình tốt, có tác dụng nhiều
mặt. Tuy nhiên cho đến nay cả nước mới thành lập 100 nghìn nhóm, mới có khoảng trên 1500 chị em tham gia vào các nhóm này.
Nếu ta đem so sánh với con số đó với số phụ nữ cả nước (khoảng gần 39 triệu) thì quả là còn rất ít. Vì vậy trong thời gian tới Hội
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phụ nữ các cấp cần có biện pháp phát triển mạnh và trung ương Hội nên giao thành chỉ tiêu cụ thể cho các cấp hội cơ sở nhằm
nhân rộng mô hình có hiệu quả này.
Đẩy mạnh phong trào ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo và nhân rộng quỹ tình thương. Cần mở rộng đối tượng tham gia vào phong
trào này, không chỉ bó hẹp trong nữ công nhân viên chức mà còn thu hút đông đảo các tổ chức xã hội, các cơ quan, đoàn thể
khác. Dấy lên phong trào ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo trong cả cộng đồng nhân dịp 8/3 hàng năm. Song song với các hoạt
động trên, hội cần tạo điều kiện cho chị em được tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng chính thức. Hội có thể ký kết nghị quyết
liên tịch với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng phục vụ người nghèo để mở rộng diện phụ nữ nông thôn,
phụ nữ nghèo được vay vốn với quy mô lớn hơn, thời gian dài hơn. Đặc biệt trong điều kiện mở cửa, thì cần coi trọng nguồn vốn
quốc tế để tăng hoạt động cho quỹ.
+ Tiếp tục duy trì phong trào giúp nhau trong chị em, mở rộng mô hình giúp nhau theo địa chỉ.
Đẩy mạnh phong trào ''phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế giá đình'' dưới nhiều hình thức như: giúp nhau về vốn, giống cây con,
vật liệu làm nhà, ngày công, kiến thức, nơi tiêu thụ sản phẩm. Tuyên truyền giáo dục chị em tinh thần tiết kiệm, tự vươn lên là
chính. Phát triển hình thức tổ chức phụ nữ tiết kiệm đa mục đích như tiết kiệm làm sân, làm bể, cho con đi học
Phân công và khuyến khích phát triển hình thức giúp nhau theo địa chỉ mỗi năm thực hiện kế hoạch trung ương hội giúp 1 tỉnh
nghèo, 1 tỉnh thành giúp 1 huyện nghèo, 1 huyện lại giúp 1 xã nghèo, mỗi xã giúp 1 thôn nghèo và 5 hộ nghèo nhất.
+ Đẩy mạnh hoạt động cung cấp kiến thức cho phụ nữ nghèo, vận động khuyến khích họ áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Để giúp phụ nữ nghèo vượt qua nghèo đói, bên cạnh việc cho vay vốn thì việc cung cấp các kiến thức và nâng cao năng lực sản
xuất cho phụ nữ là biện pháp quan trọng và cơ bản. Vì vậy các cấp hội cần chủ động liên kết phối hợp với các ngành chức năng,
nhất là các cơ sở khuyến nông, khuyến lâm để tổ chức hướng dấn chị em về kỹ thuật nuôi trồng cây con. Lồng ghép việc cung
cấp vốn với việc cung cấp kiến thức. Đa dạng hoá hình thức tuyên truyền, hướng dẫn chị em ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất thông qua các mô hình trình diễn, thao tác tại chỗ, tham quan học tập gương điểm hình, sinh hoạt câu lạc bộ phụ nữ, phát
triển mạng lưới khuyến nông trên cơ sở lựa chọn các chị em làm ăn giỏi.
+ Về lãi suất cho vay. các quỹ tương trợ phụ nữ nghèo không cần áp dụng lãi suất thấp bởi 3 lý do: phụ nữ nghèo vay vốn gắn
liền với tiết kiệm món nhỏ, họ cần đáp ứng vốn kịp thời hơn là ưu đãi về ãi suất, để mở rộng nguồn vốn của quỹ thì thường phải
đi vay các ngân hàng với lãi suất thị trường nên khi cho vay áp dụng lãi suất thị trường là tất yếu, đảm bảo nguồn tài chính cho
quỹ hoạt động lâu dài.
+ Cũng như quỹ hỗ trợ nông dân, để nâng vị trí pháp lý cho hoạt động của các quỹ tương trợ phụ nữ nghèo cũng cần có một quy
chế từ phía ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Về lâu dài cần phát triển thành các ngân hàng cổ phần nông thôn hoặc đô thị.
3.3. Những điều kiện để thực hiện các giải pháp về tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo.
3.3.1. Tạo lập môi trường chính sách và pháp lý cần thiết để các tổ chức tài chính vi mô trực tiếp cung ứng vốn cho người nghèo
hoạt động và phát triển.
Để thực hiện các giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ người nghèo thì vấn đề quyết định trước hết, phải tạo ra một thể chế
phù hợp cho hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×