Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong Chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.65 KB, 8 trang )

QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÔN GIÁO VÀ GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG CNXH
Tất cả các nhà triết học trước chủ nghĩa Mác, kể cả những nhà duy vật, đều là những người
theo chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về đời sống xã hội, vì họ mới dừng lại ở chỗ xác
nhận một sự thật là: khác với tự nhiên - nơi mà những lực lượng vô tri vô giác đang hoạt
động, thì trong xã hội, con người lại là một trong những thực thể có ý thức, có khả năng tự
kiểm soát các hoạt động của riêng mình. Từ đó mà họ đều cho rằng: xã hội vận hành theo
một cách riêng của nó, hoặc theo ý chí của một thế lực siêu tự nhiên có nhân tính ( như
Đức Chúa ) hay không có nhân tính ( như Ý niệm tuyệt đối ), hoặc theo ý chí chủ quan của
chính loài người.
Xuất phát từ cái nhìn duy tâm đó, tôn giáo - một hình thái ý thức xã hội, đã ra đời và vẫn
có cơ sở để phát triển trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại, từ cuối thời kỳ công xã nguyên
thuỷ cho đến tận bây giờ. Vậy đâu là nguyên nhân cho sức sống dai dẳng của tôn giáo
trong xã hội ? Và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, liệu có còn tồn tại tôn giáo ? Chủ nghĩa
Mác - Lênin có quan điểm như thế nào về việc giải quyết vấn đề này ?
Tìm lời giải đáp cho những câu hỏi này là một vấn đề hết sức phức tạp.
Trong tác phẩm Những nguyên lý của Đảng Cộng sản ( năm 1847 ), trước câu hỏi: " Nó
( tức tổ chức cộng sản trong chủ nghĩa xã hội ) sẽ có thái độ như thế nào đối với các tôn
giáo hiện đương tồn tại ?", Ăngghen viết: " Vẫn giữ lại " (1), tức là vẫn giữ nguyên những
quan điểm trước đây của Người về vấn đề này trong bản sơ thảo Cương lĩnh của Liên đoàn
những người Cộng sản - nhưng tác phẩm này đến nay đã không còn nữa. Chính sự thiếu
xót này là một khó khăn trong việc nghiên cứu các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội.
Nhưng cũng chính từ đó mà vấn đề này trở thành một mảng rất được các học giả xã hội
chủ nghĩa quan tâm nghiên cứu. Bởi vậy, trong bài viết này tôi xin trình bày đề tài: " Quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong Chủ nghĩa xã hội
".
1. Tôn giáo dưới cái nhìn của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Tôn giáo là gì ? Và tôn giáo xuất hiện từ đâu ?
Tác phẩm Chống Duyhrinh chính là nơi Ăngghen đã đưa ra những nhận định quan trọng
vào loại bậc nhất của những người cộng sản về vấn đề tôn giáo. Trong tác phẩm này,


Người đã đưa ra định nghĩa về tôn giáo, là " sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con
người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu
trần thế "
(2)
.
Còn Mác trong tác phẩm Góp phần phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen cũng đã
khẳng định rằng " con người sáng tạo ra tôn giáo "
(3)
.
Quay lại với lý luận nhận thức của Lênin : " từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng để nhận thức chân lý,
của sự nhận thức thực tại khách quan "
(4)
, ta có thể nhận thấy rằng, tôn giáo là kết quả từ
một sự phản ánh của thế giới tự nhiên vào bộ não con người một cách sai lầm hoặc là một
sự phản ánh không toàn diện thế giới khách quan, khiến con người hiểu sai hoặc không
hiểu hết các hiện tượng trong tự nhiên. Cùng với những hạn chế mang tính chất thời đại bắt
nguồn từ một nền khoa học còn rất thô sơ, mang nặng tính cảm tính, những phản ánh
không đúng đắn này của nhận thức đã tạo nên những rào cản giữa con người và sự thật
khách quan của thế giới tự nhiên, dẫn đến việc con người không thể trả lời được các câu
hỏi về tự nhiên bí ẩn, và kết quả cuối cùng là khiến con người phải tìm đến tôn giáo.
Trong suốt giai đoạn đầu của thời kỳ công xã nguyên thuỷ, tôn giáo vẫn chưa tồn tại, mà
chỉ đến cuối thời kỳ này, và sang thời kỳ cổ đại thì những tôn giáo đầu tiên mới bắt đầu
hình thành. Đó là do chỉ đến thời kỳ này con người mới có đủ những tri thức để xây dựng,
hoàn thiện hệ thống kinh sách và tín điều, mà quan trọng nhất là việc xuât hiện chữ viết để
ghi chép kinh sách.
Khi xem xét những tôn giáo xuất hiện trong thời kỳ này, ta nhận thấy chúng mang nhiều
đặc điểm xuất phát từ những tín ngưỡng rất sơ khai. Tôn giáo của người Ai Cập, Lưỡng
Hà, Hy Lạp - La Mã hay Giéc-manh..., đều là những tôn giáo đa thần ( polytheism ) mang

màu sắc tín ngưỡng " vạn vật hữu linh " ; các thần thánh đều đại diện cho những lực lượng
thiên nhiên, và " những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hoá một cách hết sức
nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp" (5). Là đại diện cho những lực lượng tự nhiên chi phối đời
sống con người, thần thánh của các tôn giáo chi phối đời sống con người. Và bắt nguồn từ
đó, những lực lượng chỉ mang tính tự nhiên đã dần mang tính xã hội. Và bắt nguồn từ đó,
tôn giáo mang tính giai cấp.
Tính xã hội của tôn giáo:
Trong Góp phần phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen , Mác viết: " Sự nghèo nàn
của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự
nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của
thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh
thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân "
(6)
. Nhận định này đã toát lên đầy đủ tính xã
hội của tôn giáo. Nó là sự đền bù lại cho sự nghèo nàn của hiện thực xã hội - với những
nghèo nàn của tri thức để lý giải thế giới, tôn giáo lấp đầy vào đó bằng những huyền thoại:
thế giới được tạo thành ra sao ? mây, gió, sấm, chớp sự thực là thế nào ?... và với những sự
nghèo nàn trong đời sống do sự thấp kém của trình độ khoa học kỹ thuật cùng sự bất công,
bạo ngược của xã hội đương thời, tôn giáo như một liều thuốc an thần xoa dịu những vết
đau của con người. Lời khẳng định " Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân " quả thực là
hoàn toàn chính xác.
Tính giai cấp của tôn giáo:
Những lực lượng thuộc tầng lớp trên của xã hội, có địa vị, có tiền của và có tri thức hơn, đã
biết lợi dụng tôn giáo để bảo vệ và củng cố quyền lợi của mình, đồng thời cũng không
ngừng tác động làm tôn giáo ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Một thực tế lịch sử là:
kinh sách và những tín điều tôn giáo chỉ có thể được hoàn thiện và lưu truyền dưới dạng
văn bản bởi những cá nhân thuộc tầng lớp trên trong xã hội. Do đó, cả bằng nguyên nhân
chủ quan lẫn khách quan mà tư tưởng của tầng lớp này dần trở thành nền tảng chủ yếu cho
các tôn giáo. Một sự kiện quan trọng có thể lấy làm minh chứng cho sự tác động của tầng
lớp quý tộc tới tôn giáo, đó chính là sự kiện " Công đồng Nicaea " : hoàng đế La mã là

Constantine đã triệu tập hội nghị tất cả các giám mục Kitô giáo tại Nicaea ( Thổ Nhĩ Kỳ )
năm 325 để biên soạn bộ Kinh Thánh Tân Ước như chúng ta thấy ngày nay, mà mục đích
chính là để thống nhất các chi nhánh của Kitô giáo, đưa tôn giáo này trở thành công cụ để
mê hoặc nhân dân, củng cố quyền lực của bản thân hoàng đế
(7)
.
Để tổng kết về quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo, em xin trích theo
Từ điển Triết học như sau:
" Tôn giáo là sự phản ánh hư ảo trong đầu óc con người những lực lượng bên ngoài thống trị họ trong cuộc
sống hàng ngày, sự phản ánh trong đó các lực lượng trần thế mang hình thức các lực lượng siêu phàm. Chủ nghĩa Mác coi tôn giáo là một hiện tượng xã hội
chế định và vì vậy là một hiện tượng nhất thời trong lịch sử. Trong suốt một thời kỳ lịch sử lâu dài của loài người, người ta không hề biết đến một tôn giáo
nào cả. Tôn giáo xuất hiện trong một giai đoạn nhất định của chế độ công xã nguyên thuỷ với tư cách là sự phản ánh tình trạng bất lực của con người trước
các lực lượng khủng khiếp và bí ẩn của tự nhiên "

(8)
.
2. Nguyên nhân tồn tại tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội
Như đã nói ở trên, tôn giáo là một hiện tượng chỉ tồn tại trong một giai đoạn nhất định của
lịch sử xã hội, từ đầu thời công xã nguyên thuỷ trở về trước là chưa có, và đến thời kỳ
cộng sản chủ nghĩa cũng sẽ không tồn tại tôn giáo. Nhưng trong lòng xã hội xã hội chủ
nghĩa vẫn sẽ tồn tại tôn giáo. Tại sao vậy ?
Xuất phát từ bản chất mang cả hai phương diện xã hội và giai cấp như đã trình bày ở trên,
tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đầu của chủ
nghĩa xã hội vẫn sẽ tồn tại, bởi nó vẫn chưa mất hết những giá trị tích cực cũng như vẫn
còn có những nền tảng để tiếp tục tồn tại.
Những nguyên nhân khách quan:
Tôn giáo trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại vì nền tảng của nó là những câu hỏi về
thế giới vẫn chưa thể có được đầy đủ tất cả các câu trả lời xác đáng. Khoa học hiện nay
đang tiến nhanh như vũ bão, nhưng khoa học càng phát triển thì nhân loại càng nhận ra
rằng những kiến thức của mình về thế giới là quá nhỏ, và còn quá nhiều vấn đề cần phải

giải quyết và tìm hiểu. Do đó, những bí ẩn của thế giới không thể được giái quyết một cách
nhanh chóng trong một thời gian ngắn; tức là những cơ sở về nhận thức và tâm lý của tôn
giáo vẫn còn có thể tồn tại trong lòng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội,
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vẫn chưa thể phủ định hoàn toàn nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần; nên trong xã hội vẫn tồn tại những giai cấp, tầng lớp khác nhau, vẫn tồn tại sự
phân biệt về địa vị và quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Do đó áp bức, bất
công, sự ngẫu nghiên, may rủi... vẫn tồn tại, và vẫn kéo theo niềm tin vào một đấng siêu
nhiên nào đó đang định đoạt số phận con người.
Những nguyên nhân mang tính chủ quan:
Tôn giáo đã tồn tại trong xã hội suốt hàng ngàn năm, và đã ăn sâu bám chặt vào nếp sống,
nếp nghĩ của con người. Bởi vậy không dễ dàng gì có thể ngay trong một thời gian ngắn
mà loại bỏ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.
Các nguyên tắc của tôn giáo có thể vẫn có những giá trị nhất định trong xã hội chủ nghĩa,
như nguyên tắc yêu thương, nhân đạo, nhân ái của đạo Phật hay đạo Kitô. Và trên cơ sở
đó, " nhà nước xã hội chủ nghĩa làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân
chính không đối lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội đang
hiện thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người dân "
(9)
.
Một nguyên nhân nữa là tôn giáo có khả năng tự biến đổi mình cho phù hợp với hoàn cảnh
mới. Như Kitô giáo ban đầu là vũ khí đấu tranh của tầng lớp nô lệ và dân nghèo chống lại
quý tộc Roma, thì ngày nay Kitô giáo cũng hoàn toàn có thể trở lại vị trí là một hoạt động
văn hóa tinh thần của quần chúng nhân dân, phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân, "
theo xu hướng " đồng hành với dân tộc " sống " tốt đời, đẹp đạo ", " sống phúc âm giữa
lòng dân tộc " ... "
(10)
.
Bên cạnh những đặc điểm tiêu cực như kìm hãm sự tiến bộ của nhân loại, là nguồn gốc, là
nền tảng của những nhận thức sai lầm... chúng ta cũng không thể phủ nhận hoàn toàn

những giá trị văn hoá tinh thần tích cực của các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo. Các lễ hội
dân gian đã trở thành một nét truyền thống của cộng đồng lãng xã Việt Nam, là bản sắc
văn hoá của dân tộc. Các tôn giáo có ý nghĩa cao về giáo dục đạo đức, lối sống, như "
Mười điều răn " của đạo Kitô hay " Bát chính đạo " của đạo Phật... Bởi vậy việc lưu giữ và
bảo tồn các khía cạnh văn hoá và tích cực của tôn giáo là một yêu cầu, và là một yêu cầu
chính đáng.
Nói tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như giai đoạn đầu của chủ
nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn sẽ tồn tại, bởi cả những nguyên nhân khách quan lẫn những
nguyên nhân chủ quan. Sự tồn tại này không có gì là vô lý bởi tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng, tuy phải chịu sự chi phối và quyết định của cơ sở
hạ tầng, nhưng bản thân nó vẫn có sự độc lập tương đối; do đó, dù đứng trước những biến
đổi to lớn của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội... trong bước nhảy vọt từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn không bị triệt tiêu ngay lập tức, mà chỉ " dần mất đi ảnh
hưởng của nó đối với ý thức xã hội ", và " chỉ trong xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển
thì tôn giáo mới có thể hoàn toàn biến mất và hoàn toàn bị xoá bỏ khỏi đời sống con người
"
(11)
.
3. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa
xã hội
Tôn giáo là một hệ tư tưởng mang tính chất duy tâm, do đó về bản chất nó có thế giới
quan, nhân sinh quan trái ngược hoàn toàn so với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin -
quan điểm duy vật biện chứng khoa học. Bởi vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội không thể nào không xoá bỏ tôn giáo, như là xoá bỏ một thành luỹ của sự trì trệ, bảo
thủ, lỗi thời, lạc hậu, của nguồn gốc cho những sai lầm trong nhận thức và tư duy của con
người. Nhưng công cuộc xoá bỏ tôn giáo ấy phải diễn ra như thế nào ?
Trong Chống Đuy-rinh, Ăngghen đã cực lực phê phán thái độ bài tôn giáo cực đoan của
Đuy-rinh: " Trong xã hội tự do, không thể có sự thờ cúng; bởi vì mỗi thành viên của xã hội
đều khắc phục được cái quan niệm ấu trĩ nguyên thuỷ cho rằng ở đằng sau thiên nhiên hay
bên trên thiên nhiên, có những đấng mà người ta có thể dùng những vật hy sinh hay những

lời cầu nguyện để tác động đến". "Vì thế, hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa, được hiểu một
cách đúng đắn, phải ... phế bỏ mọi trang bị của sự mê hoặc tinh thần, và do đó, phế bỏ tất
cả những yếu tố cơ bản của sự thờ cúng"
(12)
.
Người cho rằng tôn giáo chỉ thực sự mất đi khi xã hội đã được cải tạo hoàn toàn: việc nắm
giữ cũng như việc sử dụng các tư liệu sản xuất đã được lên kế hoạch, giúp xã hội tự giải
phóng mình và giải phóng mọi thành viên trong xã hội khỏi tình trạng nô dịch và áp bức
bất công; khi không còn mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên nữa, mà cả mưu sự và thành sự
đều từ con người mà ra cả... khi đó tôn giáo - sự phản ánh thế giới tự nhiên một cách sai
lạc trong bộ não con người, sẽ tự mất đi, bởi nó sẽ chẳng còn gì để phản ánh nữa.
Người đã nhận định rất đúng về hậu quả của chính sách đàn áp tôn giáo theo chủ trương
của Đuy-rinh: "giúp cho tôn giáo đạt tới chỗ thực hiện tinh thần tử vì đạo và kéo dài thêm
sự tồn tại của nó "
(13)
.
Bởi vậy, giải quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội, cần phải tuân theo những
nguyên tắc cơ bản sau:
- Một là, những mặt tiêu cực của tôn giáo phải bị khắc phục và đẩy lùi, dần đến chỗ xoá bỏ
hoàn toàn chúng. Đây là một nguyên tắc nhưng cũng là yêu cầu quan trọng nhất cần phải
quán triệt trong công tác giải quyết vấn đề tôn giáo của những người cộng sản. Chỉ có thế
tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin - tư tưởng khoa học chân chính, chủ đạo trong chủ
nghĩa xã hội mới có thể đi sâu vào quần chúng nhân dân, mới tạo được nền tảng cơ sở
vững chắc cho công cuộc xây dựng xã hội mới.
- Hai là, phải tuyệt đối không được sử dụng các biện pháp bạo lực để xoá bỏ tôn giáo. Vi
phạm nguyên tắc này là cố tình đẩy xã hội tới chỗ phân chia, đẩy những người theo đạo

×