Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Công tác cổ phần hóa có tác động mạnh mẽ và rất hiệu quả đến việc khai thác,sử dụng và phát huy các nguồn lực pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.21 KB, 24 trang )

Lời mở đầu
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế nước ta đang từng bước
chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của
Nhà nước.Trong một môi trường mới,điều kiện cơ chế quản lý thay đổi,khi hiệu quả
sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã bộc lộ những yếu kém và lâm vào tình
trạng sa sút và khủng hoảng.Kinh nghiệm từ nhiều nước trên thế giới cho thấy,Cổ
phần hóa có vai trò rất quan trọng trongviệc đổi mới các doanh nghiệp Nhà
nước,nhất là những nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam.Cổ
phần hóa có tác động mạnh mẽ và rấthiệu quả đến việc khai thác,sử dụng và phát
huy các nguồn lực về vốn, tài sản và con người để phát triển sản xuất kinh
doanh,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vì vậy Cổ phần hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình
đổi mới và phát triển DNNN nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Tìm hiểu CPH
DDNN ở nước ta,để thấy được những thành công và khó khăn trong quá trình triển
khai thực hiện ,em đã chọn "Đẩy mạnh cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp
nhà nước ở Việt Nam" làm đề tài cho bài tiểu luận kinh tế chính trị.
Kết cấu bài viết gồm:
I.Lời mở đầu
II.Nội dung
Phần I : Cơ sở lý luận về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.Khái niệm,mục tiêu và thực chất cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Phần II : Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam trong thời gian
qua
1.Một số kết quả đạt được
2.Những vấn đề nảy sinh
3.Nguyên nhân
Phần III : Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình CPH DNNN
I.Cơ sở lý luận về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.Khái niệm, mục tiêu và thực chất cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước(CPH DNNN) là Nhà nước bán một phần hay


toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp cho các đối tượng,tổ chức hay
tư nhân trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ công quản lý và công nhân của doanh
nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán.
CPH là chủ trương đã được thực tế chứng minh là rất đúng đắn ,có tác dụng rõ rệt
nâng cao hiệu quả DNNN.Chủ trương này đã được quan tâm hoàn thiện,luật hóa và
gần đây tập trung chỉ đạo đạt kết quả khá hơn.Song việc thực hiện vẫn còn chậm và
còn khó khăn,vướng mắc cả trong quá trình tiến hành lẫn sau CPH.Đây là vấn đề
nhạy cảm,đụng chạm đến lợi ích của nhiều đối tượng,nhất là những người lãnh đạo
và quản lý doanh nghiệp;do đó việc thực hiện phụ thuộc rất lớn vào ý thức,đồng
tình hay không của những người này.Quy trình CPH có nhiều khâu phức tạp,nhất là
xác định giá trị doanh nghiệp,xử lý những vấn đề tồn đọng,cần phải chỉ đạo tính
toán chặt chẽ,nếu không sẽ sơ hở,thất thoát tái sản nhà nước.Để có thể tìm ra
phương thức bổ khuyết cho giải pháp hiện hành,cần phải nắm vững mục tiêu,yêu
cầu và nội dung thực chất của CPH.
Theo Nghị quyết TW 3 (khóa IX) của Đảng và nghị định 187/2004/NĐ-CP
ngày 16.11.2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ
phần,ngoài việc huy động thêm vốn của xã hội để tăng cường năng lực tài chính,thì
mục tiêu của CPH là nhằm sử dụng có hiệu quả vốn,tài sản của Nhà nước,nâng cao
hiệu quả,sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước và nền kinh tế nói
chung,thông qua việc thay đổi cơ cấu sở hữu,tạo ra động lực mới và chuyển DNNN
sang phương thức quản lý mới năng động,chặt chẽ hơn.
Nhìn bề ngoài , CPH là quá trình : xác định lại mục tiêu,phương hướng kinh
doanh,nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ phần,đánh giá lại tài sản của doanh
nghiệp,quyết định mức vốn Nhà nước cần nắm giữ và rao bán rộng rãi phần còn
lại.Qua đó làm thay đổi cơ cấu sở hữu,huy động thêm vốn,xác lập cụ thể những
người tham gia làm chủ,được chia lợi nhuận và chuyển DNNN thành công ty cổ
phần,thuộc sở hữu của tập thể cổ đông và chuyển sang hoạt động theo Luật doanh
nghiệp.
Song để hiểu rõ thực chất của CPH,cần thấy rằng trong công ty cổ phần,trên
cơ sở vốn điều lệ được chia ra thành nhiều phần,thì quyền lợi và trách nhiệm đối với

kết quả sản xuất kinh doanh cũng được phân ra thành những đơn vị và có cơ cấu
xác định tương ứng với cơ cấu sở hữu.Do đó,sỡ dĩ CPH có thể nâng cao hiệu quả
của các DNNN là do qua CPH,cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp được thay đổi,dẫn
tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả sản xuất
kinh doanh cũng thay đổi theo ; từ đó tạo ra một cơ cấu động lực có chủ thể rõ ràng
và hợp lực mới mạnh mẽ hơn;đồng thời,chuyển doanh nghiệp sang vận hành theo
cơ chế quản lý mới,tự chủ,năng động hơn,nhưng có sự giám sát rộng rãi và chặt chẽ
hơn.Cho nên,thực chất CPH nói chung chính là giải pháp tài chính và tổ chức,dựa
trên chế độ cổ phần,nhằm đổi mới cơ cấu và cơ chế phân chia quyền lợi và trách
nhiệm gắn chặt với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Còn CPH theo
phương thức hiện hành là giải pháp nhằm làm thay đổi cơ cấu sở hữu,dẫn tới thay
đổi cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm từ chỗ chỉ có nhà nước nắm
quyền và chịu trách nhiệm chuyển sang chia sẻ kết quả kinh doanh,cả quyền lợi và
trách nhiệm,lợi nhuận và rủi ro cho những người tham gia góp vốn,qua đó tạo ra
động lực,trách nhiệm và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp.
II.Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam trong thời gian qua
1.một số kết quả đạt được
Đổi mới,sắp xếp và phát triển DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta.Chủ trương này đã được triển khai thực hiện trong gần 20 năm qua.Mặc dù có
nhiều thăng trầm nhưng đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận.CPH DNNN được
xem là một giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại DNNN.Thực hiện chủ
trương này,ngay từ tháng 5 năm 1990,Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ
tướng chính phủ) ra quyết định số 143-HĐBT cho phép thí điểm chuyển một số
DNNN thành công ty cổ phần.Hai năm sau,ngày 8/6/1992,Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng lại ban hành chỉ thị số 202/CT về tiếp tục thí điểm chuyển một số DNNN
thành công ty cổ phần.Từ ngày đó đến nay đã 15 năm.Qua 15 năm thực hiện,đến hết
năm 2005,chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở CPH DNNN
và bộ phận DNNN.Kết quả thực hiện qua từng năm như sau:
Năm 1990-1992:không có DNNN nào được CPH.
Năm 1993 : 02 đơn vị

Năm 1994 : 01 đơn vị
Năm 1995 : 3 đơn vị
Năm 1996 : 5 đơn vị
Năm 1997 : 7 đơn vị
Năm 1998 : 100 đơn vị
Năm 1999 : 250 đơn vị
Năm 2000 : 212 đơn vị
Năm 2001 : 204 đơn vị
Năm 2002 : 164 đơn vị
Năm 2003 : 532 đơn vị
Năm 2004 : 753 đơn vị
Năm 2005 : 754 đơn vị
Tổng cộng : 2987 đơn vị
Qua những con số trên đây thấy rõ tiến trình CPH đã trải qua những bước thăng
trầm,nhưng nói chung là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy mạnh.Từ chỗ thực
hiện chậm chạp trong những năm đầu (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến vài trăm)
và cho đến 3 năm gần đây tiến trình CPH được đẩy mạnh hơn,do đó số lượng doanh
nghiệp được CPH tương đối nhiều.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp,hình thức
CPH phổ biến nhất là bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp
phát hành thêm cổ phiếu ( chiếm 43,4%),tiếp đó là bán một phần vốn Nhà nước
hiện có tại doanh nghiệp (26%),còn lại là bán toàn bộ vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn nhà nước và phát hành thêm cổ
phiếu(15,1%).Trong số các doanh nghiệp đã CPH,ngành công nghiệp – giao thông
vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5% , thương mại - dịch vụ chiếm 28,7% và
ngành nông-lâm-ngư nghiệp chiếm 5,8%.Nếu phân chia theo địa phương thì
tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương chiếm 65,7%,bộ-ngành trung ương chiếm
25,8%,tổng công ty 91 chiếm 8,5%.
Việc sắp xếp lại và CPH các DNNN đã hoàn thành trên 61 trong tổng số 64 tỉnh
thành .

Trong các doanh nghiệp đã CPH,30% số các doanh nghiệp được hoàn toàn độc lập
tự chủ trong kinh doanh mà không còn sự chi phối trực tiếp nào của Nhà Nước (Nhà
Nước không nắm giữ một cổ phần nào,toàn bộ thuộc về tập thể người lao động).
Hầu hết các doanh nghiệp thuộc lại nhỏ,yếu,hiệu quả kinh doanh thấp,sức cạnh
tranh kém đã được đưa bớt ra khỏi hệ thống các DNNN,như vậy có thêm điều kiện
để củng cố các DNNN khác.
Qua CPH,nhiều yếu kém cố hữu đã được giải quyết:nợ xấu,tồn kho vật tư hàng hóa
kém phẩm chất,các trang thiết bị và tài sản cũ nát…Với các doanh nghiệp đã
CPH,bộ máy và phương pháp quản lý đã thích nghi,năng động và sát với thị trường
hơn,phần nào làm tăng trách nhiệm của người lao động đối với doanh nghiệp,động
lực lao động mới đang dần được tạo ra.Các biện pháp tiến hành cổ phần hóa ngày
càng được hoàn thiện hơn.Cơ chế định giá doanh nghiệp mới qua các tổ chức tư vấn
độc lập(thay vì qua hội đồng định giá như trước đây) được áp dụng.Nhiều doanh
nghiệp đã thực hiện đấu thầu giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số doanh
nghiệp CPH đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khá,quy mô vốn lớn,hấp dẫn các nhà
đầu tư.Có thể kể đến các công ty như : Công ty khoan và dịch vụ dầu khí,các nhà
máy thủy điện Sông Hinh (Vĩnh Sơn),Thác Bà,Phả Lại.Điện lực Khánh Hòa,Công
ty giấy Tân Mai.Công ty vận tải xăng dầu đường thủy I,Vinamilk,Công ty Kinh
Đô.Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng,trong đó vốn Nhà nước là 1500 tỷ
đồng.Nhà máy thủy điện Sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng trong đó vốn Nhà nước
là 1253 tỷ đồng.Một điểm khác biệt nữa ,đó là việc xác định giá trị cổ phần được
thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trường.Ngay trong ngày đầu tiên bán
đấu giá Vinamilk,bán hết hơn 1,66 triệu cổ phiếu với giá trung bình cao gấp 4,89
lần mệnh giá.Tính minh bạch và công khai đấu giá cổ phiếu của công ty Sữa Việt
Nam đã thu hút các nhà đầu tư chiến lược,trong đó có các nhà đầu tư nước
ngoài.Trong số 7 nhà đầu tư,tổ chức mua được cổ phần Vinamilk có 5 quỹ đầu tư
nước ngoài và 2 nhà đầu tư chiến lược nước ngoài.Đáng chú ý là các nhà đầu tư mới
chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78,4%/tổng số cổ phần bán ra,các quỹ đầu tư nước ngoài
hoạt động ở Việt Nam chỉ chiếm 21,6%,và số vốn thu hút được từ các tổ chức mới

lên tới trên 450 tỷ đồng.Sau 3 năm chuẩn bị Vinamilk đã hoàn toàn chuyển đổi từ
một DNNN lớn thành công ty cổ phần đại chúng.
Sau 15 năm CPH DNNN,có thể nhận thấy các chuyển biến sau
Thứ nhất,sự chuyển hướng từ CPH các DNNN trong một số lĩnh vực sang
CPH DNNN ở hầu hết các ngành,lĩnh vực,trong cả kinh tế,dịch vụ và văn hóa,kể cả
ngân hàng thương mại,chỉ trừ loại DNNN trong lĩnh vực dầu khí và an ninh quốc
phòng.Thành phố Hồ Chí Minh còn kiến nghị chính phủ cho phép CPH một số bệnh
viện công.
Thứ hai,chuyển biến từ việc chỉ CPH các DNNN quy mô nhỏ về vốn và lao
động,làm ăn thua lỗ,nay sang cả những doanh nghiệp làm ăn có l•i với quy mô lớn
trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế (như điện lực,xi măng,viễn thông,hàng
không),với kết quả hoạt động sau CPH ngày một tiến bộ .Tiến trình CPH không chỉ
được thực hiện đối với từng doanh nghiệp thành viên mà còn triển khai đối với toàn
tổng công ty.Đến nay đã có quyết định phê duyệt CPH 5 tổng công ty,trong đó có cả
các Tổng công ty Thương Mại-xây dựng,Điện tử-tin học,Vinaconex và Bảo Việt.
Thứ ba,việc CPH không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư,của những người
lao động trong doanh nghiệp,mà còn thu hút cả vốn của những nông dân cung cấp
nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp,chuyển họ thành những cổ đông,gắn bó họ
với sự phát triển của doanh nghiệp.Công ty Mía đường Lam Sơn và công ty Mía
đường La Ngà đã thực hiện CPH theo hướng đó.ở công ty cổ phần Mía đường Lam
Sơn,Nhà nước giữ 46%,nông dân trồng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua
26%(trong đó có 400.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía),người lao động trong
doanh nghiệp mua 24% cổ phần.ở công ty cổ phần mía đường La Ngà,Nhà nước giữ
35%,nông dân trồng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 25% (trong đó có
150.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía),người lao động trong doanh nghiệp
mua 40%cổ phần.Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn là một doanh nghiệp hoạt
động rất có hiệu quả.Sau 5 năm CPH(từ năm 2000 đến 2005) nộp ngân sách tăng từ
10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77,5 tỷ đồng và cổ tức là 20%/năm.
Thứ tư,là việc chuyển từ CPH theo hướng cơ bản khép kín,nội bộ sang hình thức
đấu giá công khai,bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài

nước.Đây được coi là sự chuyển biến "có chất " nhất thể hiện sự thay đổi căn bản
quan điểm và chủ trương về CPH,góp phần tạo ra sức bật mạnh mẽ để đẩy
nhanh,mạnh tiến trình cải cách hệ thống DNNN một cách công khai,minh bạch và
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước cùng tham gia.Trong
đợt đấu giá cổ phiếu đầu tiên của công ty Sữa Việt nam đã thu hút được các nhà đầu
tư chiến lược nước ngoài và họ đa mua tới 80% tổng số cổ phần bản ra.
Thứ năm, CPH là một xu hướng tất yếu,là giải pháp mang tính đột phá nhằm
chuyển đổi DNNN từ đơn sở hữu sang đa sở hữu.Các doanh nghiệp quân đội cũng
không nằm ngoài xu hướng đó.Khi triển khai thực hiện CPH các DN đã gặp rất
nhiều khó khăn,bởi vì các doanh nghiệp quân đội vốn chưa thích nghi hoàn toàn với
cơ chế thị trường,bản thân người lao động cũng chưa sẵn sàng cho việc này,nhưng
tính đến thời điểm này,đã có 16 DNQĐ triển khai thực hiện CPH,trong đó có 9 công
ty,xí nghiệp phụ thuộc hoàn thành xong(đạt 56% kế hoạch).Hình thức phổ biến nhất
là giữ nguyên vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu.
Những chuyển biến nói trên đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp CPH trên tất cả các chỉ tiêu chủ yếu :về vốn,doanh thu,lợi nhuận,nộp
ngân sách,số lượng lao động và thu nhập của lao động,cổ tức.Kết quả các cuộc điều
tra cho thấy :
• Vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ đồng(năm 2001) lên 63,6 tỷ
đồng (năm 2004)
• Có tới 92,5% số doanh nghiệp được điều tra cho rằng có lãi,lợi nhuận trước
thuế tăng bình quân 149,8%,lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%,mức nộp
ngân sách tăng bình quân 26,53%,năng suất lao động tăng trung bình 63,9%,thu
nhập bình quân tháng của lao động tăng 34,5% so với trước khi CPH,lao động tăng
do mở rộng sản xuất,cổ tức cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng.
Có thể nói đây là những con số rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp,khẳng định
CPH là một trong những biện pháp hữu ích nhất để nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh của các DNNN.Một điều có ý nghĩa quan trọng hơn nữa là,kết quả trên
sẽ tạo niềm tin và động lực cho các DNNN khác tiến hành đổi mới hoạt động kinh
doanh của mình một cách tích cực hơn.

2.Những vấn đề nảy sinh
CPH tuy đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng so với yêu cầu đổi mới còn
chậm.Vốn Nhà nước trong các DNNN đã CPH còn nhỏ và việc huy động vốn trong
quá trình chưa được nhiều,thời gian tiến hành CPH một doanh nghiệp còn quá
dài.Thường xuyên không hoàn thành kế hoạch đề ra.So với đề án được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt thì số DNNN được CPH chưa đạt 80%.Số lượng doanh nghiệp
được CPH trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị,nhưng nếu so với yêu cầu của
Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 9 ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX là phải
hoàn thành về cơ bản việc CPH DNNN vào năm 2005 là chưa đạt.
Theo báo cáo kết quả khảo sát của dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi sở hữu
DNNN tại 934 doanh nghiệp đã CPH cho thấy,thời gian CPH một doanh nghiệp tuy
đã giảm từ 512 ngày (năm 2001) xuống còn 437 ngày (năm 2004) nhưng vẫn còn
dài.
Chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp trở thành đa sở hữu về vốn.Nhưng thực
tế trong số gần 3000 doanh nghiệp đã cổ phần,thì chỉ có 30% Nhà nước không giữ
một đồng vốn nào,29%Nhà nước giữ cổ phần chi phối trên 51%.Nhà nước đang còn
nắm khoảng 46,5% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp này.Như vậy thực chất
mới chỉ có khoảng 8% vốn kinh doanh của các DNNN đã CPH thuộc về các chủ sở
hữu khác-không phải Nhà nước ( phần lớn là những cổ đông vốn là người lao động
trong doanh nghiệp).Con số này là quá ít.Vì nói đến CPH thì chỉ tiêu chủ yếu nhất
là CPH vốn kinh doanh,do vậy có thể nói rằng CPH các DNNN được thực hiên rất
chậm chạp,chưa nhiều.
Qua số liệu trên ta cũng nhận thấy mặc dù đã• cổ phần hóa nhưng Nhà nước vẫn là
cổ đông lớn nhất ,đồng thời phần lớn các công ty cổ phần được thành lập theo cách
này đang được Nhà Nước nắm cổ phần chi phối.Điều đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ
mà Nhà nước còn nắm tại các công ty cổ phần không giảm mà ngày càng tăng.Nếu
thời kì đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần mà Nhà nước nắm trong các công ty cổ phần
là 28% thì đến thời kì 2001-2004 tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là
46,5%.Việc Nhà nước đang còn nắm quá nhiều vốn cho thấy sự chi phối,gây ảnh
hưởng của Nhà nước vẫn ở mức độ lớn (dưới các hình thức khác nhau,trực tiếp hay

gián tiếp).Do vậy trong nhiều doanh nghiệp đã CPH chưa thấy có những thay đổi
căn bản về tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh theo mô hình mới của một
công ty cổ phần thực thụ.Các doanh nghiệp này vẫn chưa có hay rất thiếu những cổ
đông mới có quyền lực mạnh,các cổ đông chiến lược mới.Việc Nhà nước còn nắm
cổ phần chi phối trong nhiều doanh nghiệp đã CPH cũng cho thấy Nhà nước còn
đầu tư dàn trải trên nhiều lĩnh vực và phạm vi hoạt động kinh doanh,chưa có sự tập
trung vốn cần thiết vào các lĩnh vực,các ngành hay các doanh nghiệp trọng điểm mà
ở đó cần có sự hiện diện của Nhà nước.
Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả ,có quy mô vốn lớn và một số tổng công ty đang CPH,nhưng nhìn chung
đại đa số các doanh nghiệp đã CPH đều có vốn Nhà nước quá nhỏ,điều này chứng
tỏ chúng ta mới chỉ CPH được các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ.Đó cũng là các
doanh nghiệp chủ yếu do các địa phương quản lý.Trên thực tế các doanh nghiệp này
không có vai trò đáng kể và không thể hiện được vai trò là những DNNN chủ đạo
trong nền kinh tế.Và như thế chúng ta mới thực hiện được phần dễ nhất trong toàn
bộ khối lượng công việc phải làm.
Số lượng các doanh nghiệp CPH có quy mô vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm tới
gần 60%,chỉ có 18,5% số doanh nghiệp CPH có quy mô vốn Nhà nước trên 10 tỷ
VNĐ.Điều đó dẫn đến tình trạng là về mặt số lượng DNNN đã CPH chiếm tới 53%
tổng số DNNN có tại thời điểm đầu năm 2001,nhưng về vốn mới chỉ chiếm hơn
10%.Như vậy là số vốn chưa được CPH còn rất lớn(khoảng 270.000 tỷ đồng).Số
vốn nay đang nằm trong các doanh nghiệp lớn.Việc tiến hành CPH các doanh
nghiệp này không hề đơn giản như đã làm trong thời gian qua vì vai trò,tầm quan
trọng và phạm vi kinh doanh,phạm vi ảnh hưởng của các doanh nghiệp này rất lớn
và phức tạp hơn nhiều.Rõ ràng để CPH thành công các doanh nghiệp này cần phải
có những giải pháp thích hợp
Những cản trở đối với quá trình CPH các DNNN trong thời gian qua : Chiến
lược,chính sách và cơ chế quản lý chưa phù hợp,rõ ràng,không có quy định ưu tiên
CPH đối với doanh nghiệp hay bộ phận kinh tế nào.Công tác chuẩn bị và hỗ trợ các
DNNN thực hiện CPH chưa làm tốt nên nhiều doanh nghiệp khi tiến hành CPH gặp

rất nhiều khó khăn , nhất là vấn đề giải quyết các tồn tại của DNNN trước đây hay
giải quyết vấn đề người lao động dư thừa khi CPH.Hơn nữa nhiều doanh nghiệp
đang gặp khó khăn nếu không có sự trợ giúp thì rất khó chuyển
thành công ty cổ phần.Một số nội dung,cơ chế chính sách đưa ra chưa thực sự bám
sát đời sống doanh nghiệp.
Tiến hành CPH DNNN là một giải pháp cải cách mang tính chất triệt để nhất,cương
quyết nhất,cho nên rất cần phải có văn bản pháp luật có tính pháp lý cao làm cơ sở
vững chắc cho việc triển khai thực hiện.Nhưng trên thực tế vẫn còn thiếu một hệ
thống các văn bản pháp quy có tính pháp lý cao như luật,pháp lệnh về CPH.
Đội ngũ cán bộ chỉ đạo đổi mới DNNN chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.Số lượng
cán bộ kiêm nhiệm còn nhiều nên ít chú trọng,thiếu chủ động và kiên quyết trong
việc tổ chức triền khai và đẩy nhanh CPH.Công tác giám sát và đôn đốc của ban chỉ
đạo TW đối với công tác CPH ở các cấp cơ sở chưa được tốt.
Cuối cùng là vai trò của các doanh nghiệp.Dường như vấn đề CPH vẫn chưa phải là
nhu cầu tự thân,nhu cầu nội tại của các DNNN,thậm chí còn là sự miễn
cưỡng.Trong thực tế thực hiện,hầu hết các chương trình hay kế hoạch CPH đều là
của các bộ,ngành,hay chính quyền địa phương,chưa có (hoặc nếu có thì cũng rất ít)
doanh nghiệp chủ động đề xuất đưa tên mình vào chương trình hay kế hoạch
đó.Điều này chỉ có thể lý giải là đối với các doanh nghiệp,CPH không hấp dẫn
họ.Hầu hết các DNNN vẫn không muốn,hay né tránh,hoặc tìm cách né tránh thực
hiện CPH vì muốn được an toàn hơn và không muốn bị mất đi lợi ích hay lợi thế
đang có.Một trong những lợi thế đang mang lại quá nhiều lợi ích-lợi nhuận siêu
ngạch đó là sự độc quyền hoặc những ưu đãi mà các doanh nghiệp vẫn nghĩ chỉ là
DNNN mới có được.ở đây Nhà nước và các DNNN chưa có cùng một suy nghĩ và
hành động.Do vậy nếu còn có sự khác nhau về thái độ và quyết tâm đối với CPH và
khi các DNNN vẫn còn e ngại và nghi ngờ,chưa quyết tâm thì vẫn còn nhiều trở
ngại cho quá trình CPH.
3.Nguyên nhân
Những nguyên nhân dẫn đến những vấn đề trên được khái quát như sau:
Môi trường kinh doanh đang tiếp tục gặp khó khăn do ảnh hưởng của cuộc

khủng hoảnh tài chính tiền tệ trong khu vực.Các DNNN đều thiếu vốn nghiêm
trọng,công nợ nhiều,kỹ thuật công nghệ,thiết bị lạc hậu,lao động dư thừa,sản phẩm
làm ra không có thị trường tiêu thụ,sức cạnh tranh kém.Sự hiểu biết về CPH,về
chứng khoán trong công chúng tuy có được cải thiện song vẫn còn nhiều hạn chế,do
nước ta chưa hình thành đầy đủ các loại thị trường và nền kinh tế nước ta đang
trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường.Do đó người lao động,các nhà đầu tư ít hào hứng mua cổ phần tại các doanh
nghiệp CPH.
Việc lựa chọn các doanh nghiệp CPH ở các bộ ngành,các địa phưong chưa được
nhận thức đúng.Nhiều địa phương,bộ ngành chọn các doanh nghiệp kinh doanh khó
khăn,hiệu quả thấp,thậm chí không hiệu quả,tình hình tài chính chưa lành mạnh,lao
động dôi dư nhiều,nợ phải trả lớn,nợ phải thu khó đòi lớn hoặc không đủ hồ
sơ,thiếu tài sản vật tư,ứ đọng,kém,mất phẩm chất,lạc hậu về kỹ thuật để CPH dẫn
đến một số doanh nghiệp không hấp dẫn nhà đầu tư và bị vướng mắc ngay khi triển
khai thực hiện CPH.
Vấn đề quyền lợi của các cán bộ quản lý,thu nhập,việc làm của người lao động,đặc
biệt là vị trí của người quản lý trực tiếp tại DNNN là những vấn đề gay cấn đã làm
cho một số cán bộ chủ chốt chần chừ,ngại CPH,thậm chí không muốn CPH.
Đến ngay khung pháp lý vẫn chưa đầy đủ để tạo lập một môi trường kinh
doanh,cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế dẫn tới nhiều doanh nghiệp
còn do dự ,so sánh thiệt hơn khi chuyển từ DNNN sang hình thức công ty cổ phần.
III.một số giải pháp nâng cao hiệu quả của quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước ở
việt nam
Mặc dù đã có nhiều đổi mới quan trọng,có nhiều bước tiến đáng kể trong nhiều lĩnh
vực nhưng hiện tại CPH DNNN còn gặp phải nhiều khó khăn.Thực tiễn đòi hỏi phải
đẩy mạnh CPH nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.Để hoàn thành chỉ tiêu CPH
cho các năm tiếp theo,tránh vấp phải một số vấn đề không đang có trong quá trình
CPH,để chương trình cải cách DNNN đạt kết quả tốt,em xin nêu một số giải pháp.
1.Nhận thức đúng đắn về CPH DNNN
Mục tiêu của đẩy mạnh tuyên truyền cổ động cho CPH là làm cho các cấp các

ngành,từng doanh nghiệp và từng người lao động nhận thức sâu sắc về CPH như
một xu thế tất yếu và sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho cả Nhà nước lẫn cá nhân.Từ đó
tích cực,yên tâm thực hiện CPH,đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương quan trọng
này của Đảng và Nhà nước.Tăng cường giáo dục cho cán bộ Đảng viên trong các cơ
quan Nhà nước và nhân dân hiểu rõ chủ trương của Đảng,Nhà nước và lợi ích của
CPH DNNN.Đây là một công việc rất quan trọng nhưng từ trước đến nay chưa
được quan tâm đúng mức.
Làm cho các cấp, các ngành, các DNNN quán triệt sâu sắc và có nhận thức đúng
đắn về chủ trương,chính sách và các giải pháp đổi mới và phát triển DNNN.CPH
DNNN không thể làm chệch hướng của nước ta lên CNXH.
2.hoàn thành cơ chế chính sách
Nhà nước cần xem xét,soạn thảo và sớm ban hành một văn bản pháp lý cao về CPH
để thể chế chủ trương CPH với các quy định rõ ràng,cụ thể về các vấn đề,cổ phần
khống chế,tiến trình định giá,chế độ hỗ trợ doanh nghiệp được CPH,chế độ chính
sách đối với người lao động để doanh nghiệp yên tâm triển khai CPH.Sửa đổi và
hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách phục vụ cho hoạt động CPH doanh
nghiệp,nâng cao năng lực pháp lý của hệ thống chính sách có liên quan đến hoạt
động chuyển đổi sở hữu DNNN,tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động chuyển
đổi sở hữu và đa dạng hóa doanh nghiệp.Để có căn cứ pháp lý cho việc CPH
DNNN trên diện rộng,Chính phủ cần xúc tiến nghiên cứu trình Quốc hội ban hành
đạo luật về CPH DNNN.
3.Tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương CPH DNNN
3.1.Lựa chọn doanh nghiệp CPH
Việc lựa chọn DNNN sang công ty cổ phần phải tính đến khả năng tham gia của các
cá nhân và các tổ chức có vốn.Họ là người đầu tư tài chính vì mục tiêu lợi nhuận
.Vì vậy không ai mua cổ phiếu ở các doanh nghiệp thua lỗ.Do đó trước mắt phải
nhằm CPH các doanh nghiệp làm ăn có lãi và tương đối có uy tín trong kinh doanh.
Việc lựa chọn DNNN để CPH còn liên quan đến điều kiện kinh tế xã hội hiện nay
của đất nước.Việc CPH các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là phù hợp với
điều kiện thực tế hiện nay.Trong thời gian tới cần tiến hành CPH các doanh nghiệp

có quy mô lớn hơn.
3.2Tổ chức thực hiện kế hoạch CPH
3.2.1.Tăng cương công tác chỉ đạo
Thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Nhà Nước với vai trò chủ sở hữu ,với những biện
pháp quyết liệt hơn,khẩn trương hơn,có lộ trình cụ thể.Tiến hành mở nhanh những
vùng,lĩnh vực kinh doanh đang còn độc quyền hay mang tính độc quyền,tạo cơ hội
cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia .Cùng với
đó tập trung chỉ đạo thực hiện nhanh và kiên quyết việc CPH các DNNN lớn,chiếm
giữ một lượng vốn lớn của Nhà nước,đang nắm nhiều lợi thế độc quyền nhưng
chậm đổi mới.Đối với các doanh nghiệp này,thực hiện CPH còn phải được xác định
là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ban lãnh đạo,quản lý doanh
nghiệp.Họ phải có trách nhiệm thực hiện những chủ trương đổi mới và cải
cách,những chiến lược của chủ đầu tư- của Nhà nước.Chỉ có thực hiện thành công ở
các doanh nghiệp này thì mới hoàn thành sự nghiệp CPH các DNNN.
Tổng điều tra đánh giá hiệu quả thực tế các doanh nghiệp sau CPH để rút ra những
kinh nghiệm về thành công và chưa thành công của các doanh nghiệp.Qua đó làm
cho mọi doanh nghiệp thấy được lợi ích rõ ràng,những bài học cụ thể từ CPH.Điều
nay sẽ có tác động làm thay đổi nhận thức ,tạo những hiểu biết tốt hơn,từ đó tạo
niềm tin và động lực từ bên trong của doanh nghiệp.Đồng thời có chiến lược hỗ trợ
một cách có hiệu quả về đào tạo nâng cao năng lực trước,trong và sau CPH.
Nhanh chóng thực hiện những biện pháp giải quyết dứt điểm những vướng mắc
hiện nay về vấn đề đất đai,tài sản và những vướng mắc về lao động và đảm bảo lợi
ích cho người lao động (không để CPH làm thiệt hại đến lợi ích của người lao động
trong doanh nghiệp).Đặc biệt cần sớm chấm dứt trên thực tế ( không phải chỉ trên
giấy tờ văn bản) sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau,nhất là các DNNN đã CPH.Điều này rất quan trọng và
sẽ là một nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp tiến hành CPH có hiệu quả.
Chính phủ cần tăng cường công tác chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra tiến độ
triển khai CPH của các bộ.địa phương và các tổng công ty để kịp thời tháo gỡ khó
khăn,vướng mắc cho các doanh nghiệp.Đông thời biểu dương những đơn vị làm

tốt,phê phán những đơn vị triển khai không tích cực.Kiên quyết xử lý đối với những
cán bộ được giao nhiệm vụ CPH nhưng còn chần chừ,do dự hoặc có hành vi cản trở
tiến trình CPH.Chính phủ cần kiện toàn và củng cố bộ máy chỉ đạo thực hiện
CPH.Phải tạo được nhận thức và xác định vai trò quản lý của Nhà nước đối với
công ty cổ phần.
3.2.2 Tạo lập một môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển công ty cổ
phần .
ổn định tiền tệ,giảm tốc độ lạm phát là điều kiện quan trọng nhất.Tiền tệ ổn định là
điều kiện quan trọng cho sự ra đời của của công ty cổ phần,tiền tệ là yếu tố tác động
đến nền kinh tế.Trong nền kinh tế thị trường,tiền tệ là vật ngang giá chung,có vai
trò nối liền tất cả các loại thị trường và nó chỉ phát huy được chức năng khi có sự ổn
định tiền tệ.Sự ổn định tiền tệ sẽ thúc đẩy sự ra đời các doanh nghiệp mới trong đó
có công ty cổ phần.bên cạnh đó,về thực chất người mua cổ phiếu là đầu tư tài chính
với mục đích lợi nhuận cao hơn và đều có yêu cầu chung là phải an toàn trong
khoản đầu tư đó.Nếu lạm phát họ sẽ không sẵn sàng mua cổ phiếu của công ty cổ
phần.Lạm phát cao còn hạn chế khả năng phát hành cổ phiếu,trái phiếu của doanh
nghiệp vì lợi tức cổ phiếu,trái phiếu cao doanh nghiệp không chịu nổi.Do đó lạm
phát thấp sẽ thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển của thị trường vốn trong
nước.Đồng thời nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu,trái phiếu và
cả những người đầu tư lĩnh vực này.
Thứ hai,hình thành thị trường chứng khoán để tác động tích cực góp vốn đầu tư
phát triển công ty cổ phần.Khi chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần khu vực tư
nhân được mở rộng,luật doanh nghiệp được ban hành .Theo luật này công ty cổ
phần được phát hành trái phiếu và cổ phiếu là những mặt hàng cung cấp cho thị
trường chứng khoán,nên thị trường chứng khoán được tổ chức thì việc mua bán
chứng khoán được dễ dàng sẽ đưa vốn vào sản xuất tốt hơn.Thị trường chứng khoán
và công ty cổ phần có tác dụng hỗ trợ tích cực cho nhau,thị trường chứng khoán là
"chợ trao đổi hàng hóa cổ phần" cho công ty cổ phần.Công ty cổ phần là tiền đề đáp
ứng hàng hóa cổ phần cho yêu cầu của thị trường chứng khoán.Như vậy qua thị
trường chứng khoán người dân có điều kiện được thông tin đầy đủ hơn để xác định

công ty cổ phần hay doanh nghiệp CPH làm ăn lành mạnh,có hiệu quả để tích cực
tham gia mua cổ phiếu góp vốn vào sản xuất kinh doanh cho yêu cầu ích nước lợi
nhà.
Cuối cùng để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN,cần tạo sự bình đẳng giữa các khu
vực kinh tế,giữa đầu tư trong nước và nước ngoài,xóa bỏ bao cấp cho kinh tế quốc
doanh dưới mọi hình thức để không còn chỗ dựa tạo đặc quyền,đặc lợi như trước
đây.
3.2.3Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính như miễn thuế lợi tức,thuế
thu nhập trong thời gian đầu của doanh nghiệp CPH để kích thích các thành phần
kinh tế tham gia mua cổ phiếu.
Theo điều 13 NĐ 44/1998/NĐ-CP về chuyển DNNN thành CPH,khi CPH DNNN
được hưởng 6 ưu đãi chính:
- DNNN chuyển thành CPH là hình thức đầu tư mới,được hưởng ưu đãi theo NĐ
của luật khuyến khích đầu tư trong nước.Nếu không đủ điều kiện trên thì được giảm
50% thuế lợi tức trong 2 năm liên tiếp từ sau khi chuyển sang hoạt động theo luật
doanh nghiệp.
- Được miễn thuế tước bạ đối với việc chuyển nhượng tài sản thuộc quyền quản lý
và sử dụng của DNNN CPH thành sởhữu của công ty cổ phần.
- Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại,công ty tài chính
- Được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hóa theo các chế độ quy định hiện hành đối với
DNNN trước khi CPH.
- Được duy trì và phát triển phúc lợi dưới dạng hiện vật
- Các khoản chi phí thực tế,hợp lý và cần thiết cho quá tình chuyển DNNN thành
công ty cổ phần được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước theo mức quy
định của Bộ Tài chính.
Thực tế tiến hành CPH DNNN cho thấy ưu tiên trên là hợp lý và phù hợp với thực
tiễn của công tác CPH và được sự đồng tình của các doanh nghiệp.
3.2.4Các giải pháp khác
3.2.4.1.Nhà nước cần có chính sách giúp đỡ để công nhân viên chức có khả năng
mua cổ phiếu ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa

Nhà nước cho công nhân viên chức vay tín dụng với l•i suất thấp,thời hạn dài,tương
tự như Nhà nước cho nông dân vay vốn để sản xuất.Đây là kinh nghiệm tốt mà một
số nước đã thực hiện trong quá trình CPH DNNN.
Đối với người lao động thì 2 vấn đề đáng quan tâm lo ngại khi CPH là việc làm và
thu nhập.Khi DNNN chuyển sang công ty cổ phần rồi họ có bị thải hồi không?Thu
nhập trong công ty cổ phần có bằng hợc cao hơn trong DNNN không?
Về quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp CPH,điều 14 NĐ
44/1998/NĐ-CP quyết đinh được hưởng nhiều ưu đãi:
- Được Nhà nước bán với giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp tùy
theo năm công tác của từng người.Mỗi năm làm việc cho nhà nước được tối đa mua
10 cổ phần với mức giá giảm 30% so với các đối tượng khác.
- Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp.
- Người lao động nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần theo giá ưu đãi thì
được hoàn trả trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức và trả dần tối đa trong 10 năm
không chịu lãi suất.Số cổ phần mua trả dần dành cho người lao động nghèo không
vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi quy định tại khoản 1
điều này.Người sở hữu cổ phần phải trả dần không được chuyển nhượng khi chưa
trả hết tiền cho Nhà nước.
- Doanh nghiệp sau 12 tháng kể từ khi DNNN chuyển thành công ty cổ phần,nếu do
nhu cầu tổ chức lại hoạt động kinh doanh thay đổi công nghệ dẫn đến người lao
động mất việc làm thì chính sách đối với người lao động này được giải quyết theo
quyết định thực hành của Chính phủ.
3.2.4.2.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nhân dân,đặc biệt là những người lao
động làm cho họ hiểu rõ mục tiêu CPH là giúp họ có cơ hội làm chủ doanh nghiệp
thông qua việc mua cổ phần.
3.2.4.3Nâng tổng giá trị ưu đãi cho người lao động ở những DNNN có vốn nhà
nước nhỏ,số lượng lao động lớn để đảm bảo ưu đãi cho người lao động theo quy
định.
3.2.4.4.Các chính sách giải quyết lao động đã dư trước và sau CPH như:khuyến

khích người lao động tự nguyện thôi việc,khuyến khích thành lập các trung tâm đào
tạo và tuyển dụng lại lao động đã dư.Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ cho các
hoạt động này.
3.2.4.5.Thay đổi các tiêu chí về lương thưởng đối với người lãnh đạo,cán bộ quản lý
doanh nghiệp cũng như chính sách phân bổ quỹ lương,quỹ phúc lợi.
3.2.4.6.Mở rộng chủ trương huy động vốn trong toàn xã hội,bao gồm cả các nhà đầu
tư trong ngoài nước,những người có khả năng góp vốn và năng lực quản lý với
những doanh nghiệp mà Nhà nước không nên khống chế số lượng cổ phần của các
pháp nhân,cá nhân.
3.2.4.7.Việc định giá doanh nghiệp cần chi tiết và cụ thể hơn dựa trên nguyên tắc thị
trường
Thủ tục định giá cần gọn nhẹ và các tiêu chí rõ ràng,khách quan,tránh tình trạng áp
đặt theo ý kiến chủ quan của các chuyên gia định giá doanh nghiệp.Muốn vậy cần
phải có chính sách công khai tài chính doanh nghiệp,có hệ thống hạch toán kế toán
theo thông lệ quốc tế để đảm bảo tính minh bạch,rõ ràng trong các báo cáo tài chính
doanh nghiệp.
3.2.4.8.Có chính sách yêu cầu các doanh nghiệp CPH báo cáo két quả hoạt động
kinh doanh của mình để làm cơ sở đánh giá kết quả CPH và tạo lòng tin cho các
doanh nghiệp khác.
3.2.4.9.cuối cùng cần có chính sách và chương trình trong việc sử dụng tiền bán cổ
phần tránh để l•ng phí vốn "chết" tại kho bạc vì theo quy định hiện hành tiền bán cổ
phần của Nhà nước khi thực hiện CPH được nộp đầy đủ vào kho bạc Nhà nước nơi
doanh nghiệp đóng trụ sở chính.Công ty cổ phần không được sử dụng số tiền này
vào bất cứ việc gì,gây nên tình trạng vốn "chết" tại kho bạc.Quyết định số
177/1999/QĐ- TTg ngày 30/08/1999 đã hướng dẫn cụ thể về sử dụng cụ thể nguồn
thu này,nhờ vậy một số vấn đề như lao động dư thừa,đào tạo,đã bước đầu được giải
quyết.
Kết luận
Doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng có vai trò nòng cốt trong hệ
thống kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.Tuy nhiên trong nền

kinh tế thị trường có sự điều tiết cua Nhà nước,nhiều doanh nghiệp Nhà nước với
hình thức cũ đã không còn phù hợp,hoạt động sản xuất kinh doanh chậm chạp,trì
trệ,kém hiệu quả.CPH một bộ phận DNNN là một trong những biện pháp có tầm
chiến lược,là một trong nhũng hướng quan trọng của quá trình cải cách DNNN.CPH
nhằm thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý và đổi mới cơ cấu hệ thống DNNN.CPH còn
là biện pháp quan trọng tách Nhà nước ra khỏi doanh nghiệp,làm cho sản xuất kinh
doanh ngày càng phát triển,có hiệu quả,góp phần thực hiện nhiệm vụ công nghiệp
hóa,hiện đại hóa đất nước.CPH là một vấn đề lớn của Đảng và Nhà nước ta,nhưng
đây cũng là một vấn đề phức tạp,nó động chạm đến tình cảm rất thiêng liêng của
con người Việt Nam chúng ta đã gắn với các DNNN trong mấy chục năm qua,cho
nên chuyển đổi được một hình thức kinh tế,cũng là một quá trình chuyển đổi về ý
thức,nhận thức của con người.Do đó phải tiến hành từng bước chắc chắn,có sức
thuyết phục.Xử lý vấn đề này,đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc,có trách nhiệm cao
và có trình độ tổ chức thực hiện tốt.Báo chí có vai trò quan trọng trong việc tuyên
truyền và hướng dẫn dư luận nâng cao nhận thức cho cán bộ,nhân dân hiểu rõ về
CPH doanh nghiệp và tích cực ủng hộ,thực hiện thành công quá trình này.Làm sao
để CPH thực sự đem lại sức mạnh mới cho các DNNN.Đó là điều mà toàn dân
mong muốn và chờ đợi.
Tài liệu tham khảo
1.Tạp chí "Nghiên cứu Kinh tế" số 333 – tháng 2/2006
2.Tạp chí "Phát triển kinh tế" tháng 4-2004
3.Tạp chí cộng sản số 10 (tháng 5 năm 2006)
4.Lý luận chính trị số 9-2005
5.Bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Khoa Điềm tại hội thảo "Cổ phần hóa doanh
nghiệp Nhà nước : thực trạng và giải pháp",tổ chức tại Hà Nội ngày 19/8/2004
6.Tạp chí "kinh tế và dự báo" số 9 năm 2001

×