Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Quá độ từ các hình thái kinh tế- xã hội trước Chủ Nghĩa Tư Bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.93 KB, 47 trang )

QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ
NGHĨA
SỰ LỰA CHỌN DUY NHẤT ĐÚNG TRÊN CON ĐƯỜNG TIẾN LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
MỤC LỤC
A. Mở đầu
B. Nội dung.
I. Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa-sự lựa
chọn tất yếu trên con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội và khả năng thực hiện ở
Việt Nam.
1. Tính tất yếu.
2.Khả năng thực hiện
II. Những nhiệm vụ chủ yếu trong thời kỳ quá độ.
1. Phát triển lực lượng sản xuất
2. Xây dựmg và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa
2.1. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với sức sản xuất.
2.2. Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước. Thực hiện phân phối theo
nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hội
2.3. Tạo điều kiện để kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo.
2.4. Phải tính đến yếu tố thời đại, mở cửa và hội nhập với quốc tế và khu
vực.
3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
4. Nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân.
5. Xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và bảo vệ tổ quốc.
1
III. Hai đặc trưng cơ bản nhất trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
1. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất.
1.1. Tính tất yếu của thực hiện đa dạng hoá sở hữu.
1.2. Các hình thức sở hữu ơ Việt Nam.


2. Thực hiện phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
2.1. Tính tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
2.2. Các loại hình kinh tế.
2.3. Ý nghĩa của việc sử dụng nhiều thành phần kinh tế.
IV. Thực trạng nền kinh tế- xã hội Việt Nam hiện nay.
1.. Những thành tựu sau 15 năm đổi mới.
2. Những tồn tại khó khăn cần khắc phục và những vấn đề nảy sinh cần giải
quyết.
V. Những giải pháp cụ thể trên con đường từng bước đi lên Chủ Nghĩa Xã
Hội ở Việt Nam.
1. Tiếp tục đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong nông
nghiệp.
2. Xây dựng nhận thức thống nhất và đầy đủ trong xã hội về vai trò, vị trí
của các loại hình kinh tế.
3. Tạo lập đông bộ các yếu tố thị trường, đối mới nâng cao hiệu lực quản lý
kinh tế nhà nước.
4. Tạo bước chuyển mạnh mẽ về phát triển nguồn nhân lực coi con người là
trung tâm.
5. Các giải pháp khác.
2
A. MỞ ĐẦU.
Mac nói rằng “ sự thay thế các hình thái kinh tế- xã hội là một quá
trình lich sử tự nhiên”. theo luận điểm này khuynh hướng phát triển xã hội
bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa không phải là kết quả của một sự lựa
chọn duy ý chí, chủ quan, mà một khuynh hướng phát triển khách quan, có
thực tiễn đời sống xã hội. Theo tư tưởng của Mac, chúng ta hiểu sự thay
thế xã hội Tư Bản Chủ Nghĩa bằng xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa tất yếu sẽ
xảy ra.
Vấn đề ở chỗ, nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn nhân loại thì lỉch

sử xã hội loài người đã phát triển qua một số hình thái kinh tế - xã hội nhất
đinh. Song, do đặc điểm về lịch sử, về không gian và thời gian, không phải
quốc gia nào cũng đi qua tất cả các hình thái kinh tế- xã hội có tính tuần tự
từ cộng sản nguyên thủy tới Tư Bản Chủ Nghĩa theo một sơ đồ chung.
Thực tế chứng tỏ rằng, trong khi một số quốc gia Tây Âu phát triển tuần tự
qua các hình thái kinh tế- xã hội điển hình thì đồng thời nhiều quốc gia
khác( úc, Mỹ, một số nước Tư Bản Mỹ La Tinh, một số nước châu Âu…)
lại phát triển theo con đường bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế xã hội
nào đó. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là vì sự vận động của xã hội thường
diễn ra không đồng đều giữa các quốc gia, các vùng. Trong lịch sử thường
xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, về kỹ
thuật, văn hoá… sự giao lưu hợp tác giữa các trung tâm đó làm xuất hiện
khả năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không
cần lặp lại tuần tự các quá trình đã qua của lịch sử nhân loại.
3
Dựa vào thực tế đó Mac và LeNin cho rằng : trong những điều kiện
nhất định, con đường phát triển của các dân tộc tiền Tư Bản Chủ Nghĩa
không nhất thiết phải diễn ra một cách tuần tự, mà con đường ấy có thể rút
ngắn để các dân tộc chậm phát triển đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội một cách
nhanh hơn. hay nói cách khác là có hai hình thức quá độ đi lên Chủ Nghĩa
Xã Hội
Một là, quá độ từ Chủ Nghĩa Tư Bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Loại
quá độ này phản ánh quy luật phát triển tuần tự của xã hội loài người.
Hai là, quá độ từ các hình thái kinh tế- xã hội trước Chủ Nghĩa Tư
Bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển
nhảy vọt của xã hội loài người.
Vậy bản chất của quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ qua chế độ Tư
Bản Chủ Nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng Tư Bản Chủ Nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ Tư Bản nhất là về khoa

học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nề kinh
tế hiện đại. Đồng thời từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, chống tư tưởng duy lực
lượng sản xuất, chủ nghĩa kỹ trị.
Tuy nhiên để thực hiện quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ qua chế độ
Tư Bản Chủ Nghĩa cần có đủ các điều kiện sau:
Điều kiện bên ngoài: phải có một nước giành thắng lợi trong cách
mạng vô sản, tiến lên xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Công cuộc xây dựng
Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước này là tấm gương và tạo điều kiện để giúp đỡ
cac nước lạc hậu tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ qua giai đoạn phát triểnTư
Bản Chủ Nghĩa.
4
Điều kiện bên trong: phải hình thành tổ chức đảng cách mạng vô sản,
phải giành được chính quyền về tay mình, xây dựng được các tổ chức nhà
nước mà bản chất là xô viết nông dân và xô viết những người lao động.
Trong văn kiện đại hội Đảng IX đã chỉ rõ con đường đi lên của Việt Nam
là sự phát trỉên quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ
Nghĩa.vậy lý do Việt Nam lựa chọn con đường này là:
B. NỘI DUNG.
I. Quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ
Nghĩa - sự lựa chọn tất yếu trong con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội
và khả năng thực hiện ở Việt Nam.
1. Tính tất yếu khách quan của quá độ lên Chủ Nghĩa Xã
Hội bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa ở Việt Nam.
Một là: Đặc điểm của thời đại ngày nay thời đại quá độ từ Tư Bản
Chủ Nghĩa lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Vì sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ, làm cho lực lượng sản xuất xản xuất thế
giới đã đạt đến trình độ phát triển cao, mở đầu là giai đoạn mới của quá
trình xã hội hoá sản xuất tạo ra cuộc cách mạngtrong lĩnh vực kinh tế, tạo
khả năng khách quan để Việt Nam tranh thủ về vốn, vật chất kỹ thuật, kinh

nghiệm quản lý cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh
tế, trên cơ sở thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá hợp tác kinh tế. Trong
điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sỏ vật chất- kỹ thuật, xã
hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao
hơn- văn minh kinh tế tri thức. Do đó quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội là con
đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau Chủ Nghĩa Tư Bản nhất
định phải là một xã hội tốt đẹp hơn- đó là chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Với
5
xu thế lịch sử như vậy đã xuất hiện con đường bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ
Nghĩa tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội.
Hai là: xuất phát từ đặc điểm lịch sử Việt Nam từ 1930 - nay phong
trào cách mạng Việt Nam trải qua các thời kỳ khác đã trở thành một phong
trào hiện thực. Xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, giành độc lậpdân tộc,
tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội, không chấp nhận chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa.
Đó là sự lựa chọn chính trị tự nguyện của tuyệt đại bộ phận nhân dân và
dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam phù hợp
với xu thế thời đại.
Với thành quả lịch sử như cách mạng tháng 8/1945, thắng lợi của
cuộckháng chiến chống thựcdân Pháp và đế quốc Mỹ, Việt Nam đã nêu
lên một nguyên lý mới của thời đại: Chủ Nghĩa Tư Bản có thể bị đánh bại
tại vùng ngoại vi trước khi nó bị đánh bại tại chính quê hương của nó. Hơn
ai hết nhân dân Việt Nam hiểu rõ thực chất của Chủ Nghĩa Tư Bản nên
không thể tìm kiếm con đường phát triển đất nước bỏ qua chế độ đó. Bao
nhiêu thành quả mà nhiều thế hệ con người Việt Nam đã phải đánh đổi
bằng xương máu mới giành được không thể đem trao vào tay lực lượng
đưa đất nước đi vào con đường Tư Bản Chủ Nghĩa rồi tự mình quay lại
thân phận những người bị áp bức bóc lột.
Ba là: sau hơn nửa thế kỷ tôi luyện và thử thách khuynh hướng chính
trị bỏ qua chế độ Tư Bản, tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội đã trở thành một sức
mạnh vật chất bám rễ sâu trong xã hội Việt Nam. Yừu tố chính trị này có

vai trò quyết định trong việc thu hút và chuyển hoá nhân tố thời đại thành
nguồn lực bên trong để xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, ngay cả khi không
còn Chủ Nghĩa Xã Hội ở Liên Xô và Đông Âu.
Bốn là: cơ sở kinh tế kỹ thuật mà chúng ta giành lại được quyền làm
chủ từ tay các thế lực xâm lược, cùng với những gì đã xây dựng được do
6
sự giúp đỡ của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa trước đây là những tiền đề
kinh tế kỹ thuật. Tuy còn ít nhưng cho phép nước ta quá độ lên Chủ Nghĩa
Xã Hội bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa.
Năm là: Việt Nam là nước có thể kế thừa những kinh nghịêm trên
thế giới trong phát triển kinh tế nhưng thực hiện theo định hướng Xã Hội
Chủ Nghĩa và phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Tóm lại trên đây là 5 cơ sở khoa học cho phép tin tưởng rằng con
đường quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa ở
Việt Nam là tất yếu khách quan. Vậy Việt Nam có khả năng thực hiện theo
con đường này không ?.
2. Khả năng thực hiện.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac- LeNin đã chỉ ra 3 điều kiện
quan trọng để thực hiện sự phát triển ‘rút ngắn’ đối với các nước tiền Tư
Bản Chủ Nghĩa đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội là:
- Phải có được tấm gươngcủa một cuộc cách mạng vô sản thắng lợi
- Phải có được sự giúp đỡ, ủng hộ tích cực của các nước tiên tiến và
giai cấp vô sản nước đó
- Phải có một chính đảng vô sản đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo đất
nước tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội.
Với những điều kiện trên xét trong tình hình của bối cảnh quốc tế
hiện thời, Việt Nam hoàn toàn có đủ điều kiện và khả năng thực hiện sự
phát triển ‘rút ngắn’ để đi tới Chủ Nghĩa Xã Hội trong tương lai vì:
Thứ nhất: nếu các nhà kinh điển cho rằng đối với các nước tiền Tư
Bản Chủ Nghĩa cần phải có được một tấm gương của một cuộc cách mạng

vô sản đã thắng lợi để làm hình mẫu cho việc rút ngắn con đường đi lên
Chủ Nghĩa Xã Hội, thì đối với Việt Nam, cho đến hôm nay, tấm gương
7
của các cuộc cách mạng vô sản rất phong phú có thể nêu ra được những
tình huống và những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến
trình cách mạng.
Thứ hai: nếu các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac - LeNin chỉ ra
rằng cần phải có sự giúp đỡ tích cực của các nước tiên tiến và giai cấp vô
sản các nước đó thì các nước tiền Tư Bản Chủ Nghĩa mới có thể rút ngắn
được con đường tới Chủ Nghĩa Xã Hội, thi ở Việt Nam hiện nay thấy rằng,
Đảng và Nhà nước ta hơn bao giờ hết đã có đủ kinh nghiệm và bản lĩnh
trong việc thu hút sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước phát triển
cũng như của giai cấp vô sản quốc tế để xây dựng đất nước theo định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Ba là : nếu như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac -LeNin luôn
luôn nhấn mạnh vai trò Đảng cua giai cấp vô sản trong việc lãnh đạo cách
mạng nói chung và trong việcthựchiện quá trình rút ngắn ở các nứơc tiền
Tư Bản nói rỉêng. Thì ở Việt Nam Đảng Cộng Sản Việt Nam rõ ràng là
một nhân tố có vai trò quyết định đối với việc đâỷ mạnh sự phát triển của
đất nước. Đảng nắm vai trò lãnh đạo, đưa ra các chiến lược sách lược,
chính sách nhằm định hướng đúng, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi
trường và điều kiện hợp tác đầu tư và phát triển kinh tế
Thứ tư là: cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển hết sức
mạnh mẽ ảnh hưởng sâu sắc tới tốc độ phát triển kinh tế của đất nước.
Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, làm thay đổi cơ cấu
kinh tế cơ cấu tổ chức fs, nâng cao trình độ xã hội hoá và chi phối sự biến
đổi cơ bản về quan hệ sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện
đó cho phép và buộc Việt Nam phải tận dụng, khai thác, sử dụng tất cả
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên
Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta.

8
Thứ năm: Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, truyền thống lao
động cần cù, thông minh, tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý
thuận lợi, tiềm lực ban đầu về cơ sở vật chất- kỹ thuật, đội ngũ cán bộ
khoa học, kinh tế, công nhân lành nghề, kết cấu hạ tầng… là những yếu tố
hết sức quan trọng để mở rộng sự hợp tác, tạo điều kiện cho nước ngoài
đầu tư và là thế mạnh cho tăng trưởng kinh tế nhanh. Để khai thác, phát
huy thế mạnh đó đòi hỏi phải có đường lối chính sách đúng đắn cùng với
cơ chế quản lý thích hợp.
II. Những thành tựu trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã
Hội ở Việt Nam .
1.phát triển lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất và tác
động lẫn nhau trong một phương thức sản xuất xã hội. Chính sự thống nhất
và sự tác động đó đã hình thành nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch
rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, cũng như sự tác động trở lại của quan hệ sản
xuất đối với lực lượng sản xuất trong quá trình sản xuất và phát triển xã
hội. Thực tiễn cho thấy ở giai đọan đầu của thời kỳ quá độ khi kinh tế Xã
Hội Chủ Nghĩa chưa chiếm vị trí độc tôn, khi các thành phần kinh tế khác
còn nhiều khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển thì một số yếu tố
trong quan hệ sản xuất hướng vào việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật ban
đầu. Tuy nhiên không phải vì yếu tố tiên tiến của quan hệ sản xuất mãi
mãi là tiền đề thúc đẩy sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Đại hội Đảng lần thứ VI đã chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm
9
không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ
sản xuất phát triển không đồng bộ có những yếu tố đi quá xa so với trình
độ của lực lượng sản xuất.

Do đó ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất là sự lựa chọn đúng quy
luật, lựa chọn đúng mắt xích quan trọng nhất của tiến trình đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng kém phát triển muốn vậy Việt Nam phải:
1.1. Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất gồm người lao động( lực lượng sản xuất cơ bản
và quyết định), tư liệu sản xuất và khoa học trong đó nhân tố con người là
quan trọng và quyết định, có con người thì mới có tư liệu sản xuất mới có
khoa học. Muốn phát huy nhân tố con người của nền sản xuất xã hội,
không thể không đầu tư để phát triển, trước hết là giáo dục đào tạo. Phải
tiến hành cải cách giáo dục, đào tạo nhân lực. Không ngừng tìm tòi
phương thức giáo dụcđào tạo mới. Trong đó hướng mạnh vào hệ thống tri
thức liên ngành, phương pháp tư duy biện chứng nhằm tạo ra khả năng tự
học và sáng tạo trong thực tiễn.Đây là nguồn nội lực cơ bản nhất và là
tiềm năng giàu có của một quốc gia. Sự phát triển lên không ngừng của
đội ngũ công nhân, tri thức và khoa học- công nghệ là cơ sở bền vững nhất
của tăng trưởng kinh tế trong cạnh tranh. Ngày nay tiêu chí đánh giá một
quốc gia văn minh là ở các chỉ số phát triển con người( HDI) của Liên
Hợp Quốc và tỷ trọng tầng lớp trung lưu trong dân cư. Vì vậy trong hoạt
động lãnh đạo quản lý kinh tế- xã hội, sự thống trị của chủ nghĩa hành
chính quan liêudang kết thúc và đã mở ra thời kỳ của vận dụng khoa học -
xã hội và chủ nghĩa thông tin ở cấp quản lý vĩ mô và vi mô.
Tiếp nữa là những vấn để động viên người lao động như tuyển dung,
sử dụng vàquản lý, chính sách đaĩ ngộ… nhằm xây dựng được đội ngũ cán
10
bộ quản lý và cán bộ khoa học công nghệ không chỉ giỏi về chuyên môn
mà còn có tâm với nghề.. nghĩa là theo phương châm từ con người, do con
người và vì con người.
1.2. Thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước coi
đây là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ.
Trong thời kỳ quá độ thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền

kinh tế quốc dân là nhiệm vụ trung tâm, nhằm phát triển kinh tế, công
nghệ, xây dựng cơ sởvật chất kỹ thuật của Chủ Nghĩa Xã Hội. Đồng thời
từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý hiệu quả.
Khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá vai trò của khoa học
công nghệ là yếu tố quan trọng hàng đầu. Vì chỉ có khoa học công nghệ
mới tạo ra được những bước phát triển nhảy vọt trong tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ xã hội. Thực tế cho thấy nước có nhịp độ phát triển nhanh
không nhất thiết phải là nước có nhiều tàinguyên thiên nhiên, có nguồn lực
dồi dào mà nước có khả năng đón được hướng đi mới của công nghệ, phát
hiện ra những ngành mũi nhọn, chọn được chỗ đứng tạo ra được tiềm năng
ứng dụng lớn và cải tiến nhanh và riêng đối với Việt Nam, là một nứơc
chậm phát triển tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá phù hợp nhất là
theo hướng lựa chọn những ngành nào thích hợp để phát triển có lợi nhất,
thích nghi dần với môi trường công nghệ mới, tập trung vào phát triển
những ngành mũi nhọn sở trường, những ngành đòi hỏi nhiều chất xám
nhưng hiệu quả cao, phù hợp với hoàn cảnh đất nước và thuận với xu thế
của thời đại.
Hơn nữa trong thời đại ngày nay sức ép của thời gian đối với quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngày càng lớn.nếu như thời gian hoàn
thành công nghiệp hoá đợt đầu tiên là khoảng 120 năm, thì nay chỉ còn
11
khoảng 30 năm. Sở dĩ như vậy là vì các nước đi sau biết sử dụng những
thành tựu về khoa học công nghệ, về kinh nghiệm quản lý của các nước đi
trước và phát huy được lợi thế về kinh tế, chính trị của mình. Những nước
tiến hành công nghiệp hoá thất bại cũng là do nguyên nhân này ở mặt
ngược lại. Do vậy nhiệm vụ của Việt Nam hiện nay là phải ý thức được
sức mạnh và sức ép của thời gian, mà nhân tố đầu tiên tác động tới việc rút
ngắn thời gian là cách mạng khoa học- công nghệ, ‘khoa học đã trở thành
một lực lượng sản xuất trực tiếp’, triển vọng của sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá ngày nay phụ thuộc vào thái độ đối với lực lượng sản

xuất này.
2.Xây dựng và hoàn thiện quân hệ sản xuất Xã Hội Chủ
Nghĩa.
Đây là yêu cầu khách quan là nền tảng cơ bản của chế độ Xã Hội Chủ
Nghĩa, là thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá để tạo ra lực lượng sản
xuất cần thiết xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước. Về mặt lý luận rõ ràng khi lực
lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao và hiện đại thì đòi hỏi tất
yếu phải xác lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Nhưng để đạt tới trình độ đó phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài,
vì vậy cái chính là làm thế nào để cải biến dần quan hệ sản xuất, phát triển
từ thấp đến cao theo tính chất và trình độ đạt được của lực lượng sản xuất.
Trong điều kiện lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các
ngành, các vùng và ngay trong nội bộ từng ngành, vùng thì việc còn tồn tại
nhiều trình độ khác nhau trong quan hệ sản xuất với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Muốn vậy Việt
Nam phải:
12
2.1. Làm cho quan hệ sản xuất phù hợp vói các thành phần
kinh tế, đồng thời đẩy manh cải cách môi trường thể chế nhằm
thực hiện các mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước.
Sự phù hợp tức là thiết lập từng bước quan hệ sản xuất Xã Hội Chủ
Nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Muốn vậy trước
hết cần nhận thức rõ bản chất nội dung, phạm vi và các hình thức biểu hiện
của từng thành phần kinh tế. Cần thấy rằng đặc trưng kết cấu các thành
phần kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới là một cơ cấu động. Do vậy
trong quá trình phát triển phải thừa nhận những bước tiến hoặc lùi trong

việc hoàn thiện quan hệ sản xuất ở mỗi thành phần kinh tế là một tất yếu
khách quan. Theo hướng đó việc phát triển các thành phần kinh tế cần chú
ý tới các vấn đề sau.
Đối với kinh tế tự nhiên tự túc tự cấp phải chuyển nhanh xang kinh tế
hàng hoá. Đối với sản xuất hàng hoá nhỏ, cần đẩy mạnh các hình thức liên
kết, tổ chức quản lý và định hướng sự phát triển nhằm phục vụ các mục
tiêu chung. Đối với kinh tế tiểu chủ và tư bản tư nhân cần tạo điều kiện để
phát huy hết tiềm lực của họ, đồng thời đấu tranh khắc phục những biểu
hiện tiêu cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế
này. Trong điều kiện mới của quan hệ kinh tế quốc tế, một mặt phải phát
huy tối đa các nguồn lực bên trong, mặt khác phải hết sức tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài thông qua việc phát triển mạnh thành phần kinh tế tư
bản nhà nước để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất mới, trên cơ sở đó
cho phép hoàn thiện quan hệ sản xuất, rút ngắn thời gian trong tiến trình
13
thực hiện. Đối với kinh tế nhà nước cần xắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước cho phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có và vai trò của nó trong
nền kinh tế thị trường sao cho kinh tế nhà nước thực sự phải là thành phần
kinh tế chủ đạo làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết
những vấn đề xã hội, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Đối với kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã cùng với kinh tế
nhà nước tạo nên nền tảng của quan hệ sản xuất Xã Hội Chủ Nghĩa do vậy
phải những chính sách để phát huy vai trò của thành phần kinh tế này
trong cơ chế thị trường phát triển theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Đồng thời với việc đổi mới sở hữu, để hoàn thiện bộ mặt của quan hệ
sản xuất, phải chú ý nâng dần trình độ tổ chức quản lý và hoàn thiện các
quan hệ phân phối một cách thích ứng trong các thành phần phù hợp với
điều kịên của nền kinh tế vận hành theo cơ chế mới.
Trong quá trình vận động chuyển hoá giữa các thành phần kinh tế có
khả năng xẩy ra tình trạng tự phát theo sự điều tiết của thị trường. Vì vậy,

phải tăng cường vai trò định hướng của nhà nước. Để thực hiện điều đó
quan trọng là phải tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, cải cách môi
trường thể chế tạo thuận lợi cho việc phát triển mạnh mẽ các thành phần
kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển kinh
tế theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở nước ta.
2.2. Nâng cao hiệu lực điều tiết của nhà nứơc, thực hiện phân
phối theo nguyên tắc kinh tế thị trường, đẩy mạnh phúc lợi xã hội.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa hình thức sở hữu đang
làm nảy sinh những quan điểm mới về quan hệ phân phối. Quan hệ phân
phối trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải kết hợp chặt chẽ
14
những nguyên tắc phân phối của Chủ Nghĩa Xã Hội và kinh tế thị trường
như phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ
phúc lợi xã hội… Trong đó nguyên tắc phân phối theo lao động là chính.
Sự kết hợp đó tạo ra sự cùng tồn tại nhiều hình thức, nhiều cơ chế phân
phối và phân phối lại thu nhập. Đối với phân phối thu nhập, một mặt đòi
hỏi nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch
giữa người giàu và người nghèo, mặt khác phải có chính sách, biện pháp
nâng cao thu nhập chính đáng cho mọi người. Việc điều tiết phân phối thu
nhập được thực hiện theo hai kênh. Thứ nhất, nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa
là chủ thể ! tiến hành tổ chức điều tiết phân phối lại trên phạm vi toàn xã
hội đảm bảo công bằng và bình đẳng phúc lợi cho toàn xã hội. Thứ hai là,
điều tiết phân phối thu nhập theo những nguyên tắc của thị trường, cơ chế
thị trường có sự quản lý nhà nước.
Mục tiêu của việc phân phối là phải đảm bảo cho đới sống người lao
động từng bước được nâng cao góp phần xoá đói giảm nghèo. Khuyến
khích động viên mọi người từ quần chúng đến đảng viên tạo nhiều việc
làm và làm giàu chính đáng. Nghiêm cấm những hành vi làm giàu bất
chính, bòn rút của công, hà hiếp quần chúng lao động làm giảm sút lòng
tin của nhân dân và triệt tiêu động lực của người lao động.

Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu độc lập
và đan xen sẽ tạo ra rất nhiều hình thức phân phối, tỷ lệ phân phối khác về
nguôn lực và sản phẩm.
Quan hệ đối với tài sản bao gồm nhiều quyền khác. Do vậy cần phân
biệt rõ ràng các quyền này và gắn chúng với việc hưởng lợi trong phân
phối kết quả và sản xuất kinh doanh.
15
Phân phối vật phẩm tiêu dùng phải căn cứ vào lao động giản đơn và
lao động phức tạp, khuyến khích nâng cao tay nghề của lao động giản đơn,
chú ý tới lao động của những nhà khoa học và quản lý.
Phân phối dựa trên nguyên tắc thị trường không tránh khỏi sự bất
bình đẳng trong thu nhập, vì vậy phải có sự điều tiết trong phân phối.ở đây
sự điều tiết của nhà nước là hết sức quan trọng thông qua thuế thu nhập và
phúc lợi xã hội. Vì vậy đi liền với cải cách chế độ phân phối, cần tiếp tục
đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng tăng cường khả
năng điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm điều hoà thu nhập, đảm bảo phúc
lợi giữa các tầng lớp dân cư.
2.3. Điều kiện để thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm
vai trò chủ đạo, đồng thời phải đảm bảo tính bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế.
Nền kinh tế hiện nay của Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần,
đang trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế này đan xen lẫn
nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau, luôn vận động và có sự chuyển
hoá trong quá trình phát triển. Định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa tức là phải
tạo điều kiện để kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác trở thành nền tảng và
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thực tế hiện nay các doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta chưa đáp ứng được vai trò này cả về hiệu quả sản xuất
kinh doanh, về trình độ tổ chức quản lý và phương thức phân phối. Vì vậy
muốn thực hiện được vai trò chủ đạo, các doanh nghiệp nhà nước cần phải
tiếp tục xắp xếp lại, phát triển doanh nghiệp nhà nước một mặt phải đặt

trong mối tương quan với nguồn lực của nhà nước, mặt khác phải đặt trong
mối quan hệ với các thành phần kinh tế khác. Về tổ chức quản lý phải chặt
chẽ hơn, phải có chế độ phân phối hợp lý để vừa nâng cao mức sống của
16
người lao động vừa đảm bảo tái sản xuất của các fs, phải củng cố và nâng
cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước cũng có nghĩa là
phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước đối với các
doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước. Chính điều đó sẽ củng cố tính
chất Xã Hội Chủ Nghĩa trong thành phần kinh tế này trên tất cả các mặt
của quan hệ sản xuất để tạo điều kiện cho nó giữ nhanh chóng vị trí chủ
đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Đồng thời với
việc thiết lập vai trò chủ đạo cho thành phần kinh tế nhà nước, hoàn thiện
quan hệ sản xuất phải đảm bảo tính dân chủ và bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế.
Dân chủ giữa các thành phần kinh tế được biểu hiện ở mối quan hệ
lợi ích và nghĩa vụ của các thành phần với nhau và với nhà nước. Dân chủ
trong kinh tế đó là quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản, quyền
hưởng thụ kết quả kinh doanh và nghĩa vụ đóng góp với nhà nước. Dân
chủ trong kinh tế đòi hỏi phải được thể chế hoá bằng pháp luật, cơ chế và
dân chủ phải đảm bảo tính tập trung. Trong nền kinh tế nhiều thành phần
việc ưu tiên, ưu đãi không áp dụng theo thành phần kinh tế mà theo mục
tiêu, theo lĩnh vực, theo ngành. Nhà nước cần có chính sách tài trợ cho
một số lĩnh vực, mặt hàng sản phẩm khuyến khích hoặc đáp ứng yêu cầu
thực hiện mục tiêu kinh tế- xã hội. Việc tài trợ này không phân biệt thành
phần kinh tế, thành phần nào làm được thì được ưu đãi.
Bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tức là tạo điều kiện phát huy
đầy đủ năng lực và vị trí của mỗi thành phần kinh tế, hình thành một hệ
thống kinh tế quốc dân thống nhất. Trong điều kiện nước ta hiện nay, nền
kinh tế chỉ có thể phát triển bền vững nếu các doanh nghiệp và các thành
phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng có hiệu quả, có sức phát triển

và cạnh tranh cao. Điều này cần được thể hiện trong việc hoạch định chính
17
sách của nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc hai mặt: Đối xử công bằng
đối với mọi thành phần kinh tế để đảm bảo công bằng theo chiều ngang và
đối xử khác đối với các thành phần để thực hiện công bằng theo chiều
dọc.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của nhà nước có một ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc tác động chi phối tới các thành phần kinh tế.
Thông qua luật pháp và các công cụ chính sách mang tính điều tiết của nhà
nước có thể hướng hoạt động của các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ
đạo của mình. Do vậy việc cải cách bộ máy nhà nước hoàn thiện môi
trường luật pháp cho kinh doanh, tạo những điều kiện cần thiết cho đầu tư
và phát triển của các doanh nghiệp là nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định hiện
nay.
2.4. Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phải tính đến
yếu tố thời đại mà đặc trưng cơ bản của nó là quá trình mở của và
hội nhập với khu vực và quốc tế.
Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế hiện nay không một
quốc gia nào đóng cửa mà có thể phát triển bình thường. Thông qua mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế các nước có thể tranh thủ nguồn lực của nước
ngoài tạo ra những bước nhảy vọt đột biến trong sự phát triển rút ngắn của
mình.
Việt Nam là một nước nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển việc mở
cửa để thu hút nguồn lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nước
ngoài lại càng có ý nghĩa quan trọng. Những nguồn lực huy động từ bên
ngoài sẽ góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động cao
hơn đảm bảo cho sự phát triển thắng lợi của đất nước. Về mặt quan hệ sản
xuất điều đó có nghĩa là rút ngắn sự phát triển có tính chất tuần tự theo tiến
trình lịch sử, đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế theo định hướng
18

×