Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tính chất hai mặt của toàn cầu hóa hiện nay với tương lai của chủ nghĩa tư bản và triển vọng của chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.1 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, là quá trình tất yếu. Nó diễn ra trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hóa
kinh tế thúc đẩy rất nhanh, rất mạnh sự phát triển và xã hội hóa các lực lượng sản
xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hóa tạo sự truyền bá và chuyển
giao trên quy mô ngày càng lớn những thành quả mới, những đột phá sáng tạo về
khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến
thức và kinh nghiệm đến với các quốc gia, dân tộc.
Trào lưu chủ nghĩa tự do mới ra đời (các đại diện tiêu biểu là R. Ri-gân và
M. Thát-chơ), trở thành căn cứ lý luận để chủ nghĩa tư bản (CNTB) lũng đoạn
quốc tế bành trướng ra toàn cầu. Sự bùng nổ mạng lưới các công ty xuyên quốc
gia và internet làm cho thị trường toàn cầu trở thành công xưởng toàn cầu, tạo cơ
sở vật chất to lớn để CNTB thực hiện tham vọng lũng đoạn, khống chế toàn cầu.
Các chủ trương của chủ nghĩa tự do mới được thực hiện mạnh mẽ đem lại một
bước phát triển mới trong CNTB, song những mâu thuẫn vốn có của nó lại bộc lộ
trầm trọng thêm.
Có thể nói, chủ nghĩa tư bản thực hiện được một bước phát triển thì cũng
tạo ra những gì không dung được với chính nó. Từ góc nhìn này, chủ nghĩa tư bản
toàn cầu hóa thực sự là "chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa tư bản", là "chủ nghĩa
tư bản hướng tới hậu tư bản, phi tư bản". Xu hướng vận động khách quan của
CNTB trong xu thế toàn cầu hóa tiếp tục chuẩn bị tiền đề không chỉ vật chất - kỹ
thuật, mà cả những nhân tố hợp lý trong thiết chế chính trị, nhà nước cho chủ
nghĩa xã hội.
Việt Nam là một nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN), nhờ quá trình toàn cầu hóa, chúng ta có lợi thế của nước đi sau để "đi
tắt, đón đầu” trong một số lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ. Chúng ta có điều kiện
thuận lợi để mở rộng thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và nguồn lực bên ngoài
nhằm phát triển các ngành sản xuất mà ta có lợi thế, qua đó, thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế. Cùng với những thuận lợi trên, toàn cầu hóa cũng đang có những
tác động xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội nước ta.
1


Với ý nghĩa đó, tôi chọn vấn đề: “tính chất hai mặt của toàn cầu hóa hiện
nay với tương lai của chủ nghĩa tư bản và triển vọng của chủ nghĩa xã hội” làm
đề tài tiểu luận hết môn của mình.
2
NỘI DUNG
Chương 1
TOÀN CẦU HÓA VÀ TÍNH CHẤT HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA
1.1. Quan niệm về toàn cầu hóa
Sau vài thập niên thảo luận, lịch sử toàn cầu hóa (TCH) dường như dài hơn,
khi thời điểm xuất hiện của nó được các nhà nghiên cứu xác định ngày càng lùi xa
hơn về quá khứ. Lúc đầu, toàn cầu hoá được hiểu là một hiện tượng mới của thế
giới hiện đại ra đời cùng với việc gia tăng kinh tế thương mại nhờ xuất hiện các
công ty đa quốc gia, liên quốc gia sau Chiến tranh thế giới II và từ lúc thuật ngữ
“toàn cầu hoá” được sử dụng phổ biến hơn sau những năm 60 của thế kỷ trước.
Sau đó, khi nhận ra nhiều nội dung của toàn cầu hoá đã có từ lâu trong quan niệm
về các vấn đề toàn cầu, hoặc về các thể chế quốc tế hoá, người ta nhận thấy việc
sử dụng vàng làm bản vị trao đổi (Gold Standard, 1870) giữa các loại tiền tệ cùng
với sự bành trướng của đế quốc Anh hồi thế kỷ XIX đã có ý nghĩa như một sự
khởi đầu TCH. Khi mở rộng quan niệm về toàn cầu hoá ra ngoài các nội dung
thương mại, người ta lại thấy cuộc vượt biển tìm ra châu Mỹ của Christopher
Columbus năm 1492, hay chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới của Ferdinand
Magellan năm 1522 cũng chính là những hình thức rất điển hình của toàn cầu hoá.
Nhưng nếu công nhận Columbus hay Magellan là thủy tổ của hiện tượng toàn cầu
hoá, thì cũng tương tự như thế, người ta khó có thể phủ nhận, TCH phải chăng đã
bắt đầu từ khi các “thương nhân lạc đà” vào thế kỷ thứ 2 trước công nguyên khai
thông “con đường tơ lụa” với chiều dài khoảng 7000 cây số nối liền phương Đông
với phương Tây.
Quả thực, việc xác định thời điểm xuất hiện TCH ở hầu hết các nhà nghiên
cứu chuyên nghiệp đều có những lý lẽ khó bác bẻ. Nhưng nếu kéo lùi lịch sử TCH
đến tận “con đường tơ lụa” thì vấn đề sẽ trở nên kém ý nghĩa hoặc chuyển sang ý

nghĩa khác. Bởi vậy, tôi chú ý đến ý kiến của Thomas L. Friedman (dù chỉ là một
nhà báo, nhưng uy tín của ông khi phát ngôn về những vấn đề toàn cầu thì chính
3
học giả uyên bác Joseph E. Stiglitz cũng phải coi là có giá trị). Trong “Chiếc
Lexus và cây ôliu” 1999, Friedman chọn thời điểm bức tường Berlin sụp đổ năm
1989 và dùng hình tượng “thế giới tròn 10 tuổi” để chỉ TCH với sự mới mẻ của
nó. Trong “Thế giới phẳng: Tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI”, 2005, Friedman
tiếp tục khẳng định ý nghĩa của giai đoạn lịch sử hiện đại này bằng việc chọn thời
điểm năm 2000 với sự ra đời của Internet và thương mại điện tử làm mốc để đánh
giá. Theo Friedman, hiện thời thế giới đang ở trong giai đoạn TCH “ba chấm
không” (3.0). Nghĩa là, “chúng ta đang ở trong một hệ thống quốc tế mới. Hệ
thống này có logic, có quy luật, có áp lực và có động lực riêng của nó - nó đáng
được gọi bằng cái tên riêng - TCH” [6. tr. 26-27].
Như vậy, toàn cầu hóa đã bắt đầu từ khá sớm chứ không phải chỉ ở vài thập
niên gần đây. Cách đây 158 năm, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã viết: "Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thị trường
mà việc tìm ra châu Mỹ đã chuẩn bị sẵn. Thị trường thế giới thúc đẩy cho thương
nghiệp, hàng hải, những phương tiện giao thông tiến bộ phát triển mau chóng lạ
thường...". Đó chính là quá trình quốc tế hóa - giai đoạn trước của toàn cầu hóa.
Như vậy, toàn cầu hoá trước hết là một quá trình kinh tế và kỹ thuật - công
nghệ; đồng thời, là một quá trình kinh tế - xã hội và quá trình chính trị - xã hội,
vừa tạo ra những lợi ích chung, những thể chế phổ biến, vừa chứa đựng nhiều lợi
ích, khuynh hướng khác nhau, mâu thuẫn nhau giữa các chủ thể tham gia. Bởi vậy,
toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác rộng mở, vừa đấu tranh gay gắt, phức
tạp giữa các quốc gia, tập đoàn, cộng đồng, cá nhân... với nhau. Mặc dù không hề
mất đi cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nhưng “đặc điểm nổi bật trong
giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển
khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích
quốc gia, dân tộc”.
4

1.2. Tính chất hai mặt của toàn cầu hóa
Nếu nhìn tổng thể quá trình phát triển của nền kinh tế quốc tế, thì chính các
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ đóng vai trò to lớn làm tăng nhanh
chóng thu nhập thế giới, đồng thời thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI, thu nhập thế giới hàng năm chỉ hơi nhích lên,
nhưng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đã tăng khoảng 50%. Sau đó, trong một thế
kỷ (1850 - 1950) nó đã tăng gấp 3 lần. Và chỉ trong nửa cuối thế kỷ 20 (1950 -
2000) lại tăng gấp 3 lần nữa.
Thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, mọi hoạt động thương mại, tài chính,
tiền tệ, đầu tư đều tăng nhanh. Từ 1990 đến 1997, tăng trưởng khối lượng xuất
khẩu thế giới hàng năm đạt 7% đạt trong khi tăng trưởng GDP thế giới chỉ đạt 3%.
Lượng tiền trao đổi qua các giao dịch tài chính quốc tế hàng ngày trên thế giới
năm 1986 mới ở mức 200 tỉ USD thì đến năm 1996 đã lên tới 1.500 tỉ USD (nay
lên tới 3.500 tỷ USD). Từ năm 1991 đến 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng
tăng 10%. Năm 1990 tổng số các công ty xuyên quốc gia là 35.000 với 150.000
chi nhánh thì đến 1997 đã lên tới 53.000 công ty với 450.000 chi nhánh hoạt động
trên khắp thế giới.
Đấy là những nhân tố thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới,
tạo điều kiện ít nhiều thuận lợi cho các nước tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa
do sự phân công chuyên sâu trong hợp tác quốc tế.
Nhưng vì toàn cầu hóa mang tính chất tư bản chủ nghĩa rõ rệt "khi mà các
nước tư bản chủ nghĩa giàu có nhất, các công ty tư bản xuyên quốc gia đang nắm
trong tay những nguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động
lên toàn thế giới như vốn, kỹ thuật, công nghệ, các tổ chức và thể chế kinh tế, tài
chính, tiền tệ, thương mại quốc tế. Họ nắm cả những phương tiện hùng mạnh nhất
trong lĩnh vực sản xuất tinh thần và tác động tinh thần, cả những nguồn lực quan
trọng nhất về chất xám ....", thì rõ ràng quá trình toàn cầu hóa có nhiều bất lợi cho
các nước nghèo và đang phát triển.
Nếu như trước đây, sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới còn dựa trên
nguồn nguyên nhiên liệu, các nước nghèo và đang phát triển còn nhiều lợi thế đấu

5
tranh, thì ngày nay nhân tố tri thức, cùng phương tiện truyền thông ngày càng
đóng vai trò quan trọng lại nằm trong tay các nước phát triển giàu có.
Và toàn cầu hóa không những không tạo ra mức sống đồng đều cho mọi người,
mọi quốc gia, mọi khu vực mà ngược lại nó làm cho hố ngăn cách giàu nghèo
ngày càng sâu rộng, bất bình đẳng ngày càng lớn. Theo chương trình Liên hợp
quốc về phát triển (PNUD) thì cuối những năm 90, 85% thu nhập thế giới rơi vào
túi 1/5 số người giàu nhất (trong khi vào những năm 60 họ mới chiếm 70%), 1/5
số người nghèo nhất chỉ chiếm 1,4% (những năm 60 còn chiếm 2,3%).
Khóa họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc diễn ra ở Giơnevơ mới
đây đã kết luận "nghèo đói, sự không đồng đều và tình trạng mất an ninh đã tăng
lên trên thế giới kể từ khi toàn cầu hóa được khởi động". Cách đây 5 năm, số
người nghèo là 1 tỷ nay đã lên tới 1,2 tỷ. Các nước công nghiệp hóa giàu hơn các
nước nghèo nhất tới 74 lần. Trong 30 nước nghèo nhất, thu nhập bình quân thực tế
đầu người đã giảm đi trong 35 năm qua. Tài sản của 3 nước giàu nhất thế giới lớn
hơn tổng sản phẩm quốc dân nội địa của các nước kém phát triển nhất cộng lại với
số dân lên tới 600 triệu người. Còn theo báo cáo của Hội nghị Liên hợp quốc về
thương mại và phát triển (CNUCED), thì trong số 644 tỷ USD đầu tư quốc tế, 2/3
vào Mỹ và Liên minh châu Âu, tất cả các nước đang phát triển chỉ thu hút được
1/3, trong đó cả lục địa châu Phi chỉ nhận được 8,3 tỷ USD tức chỉ chiếm 1,3%.
Thực chất "các nhà đầu tư quốc tế chủ yếu đến từ các nước phát triển và
động cơ của họ là lợi nhuận kinh tế chứ không phải là giúp các nước đang phát
triển tăng trưởng bền vững”.
Những năm 90, toàn cầu hóa có giúp cho tuổi thọ trung bình tăng lên và nạn
mù chữ giảm đi phần nào. Nhưng những người mắc bệnh Aids lại tăng gấp đôi chỉ
trong thời gian từ 1990 - 1997. Đến năm 1997 vẫn còn 850 triệu người lớn tuổi
không biết đọc, biết viết; 1/3 tỷ người vẫn không được sử dụng nước sạch; 1/7 trẻ
em ở độ tuổi đi học vẫn không được đến trường; 160 triệu trẻ em bị suy dinh
dưỡng và số trẻ em phải làm việc nặng nhọc còn nhiều hơn thế.
Gánh nặng nợ nần chồng chất cũng làm cho các nước nghèo và kém phát

triển khó tranh thủ được những thuận lợi của toàn cầu hóa. Sự mở cửa biên giới do
hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa còn có nguy cơ làm gia tăng tình trạng buôn
6
lậu vũ khí, ma tuý và làm trôi nổi số nhân công có tay nghề cao. Chẳng hạn, năm
1998 hơn 250.000 lao động châu Phi tay nghề cao sang làm việc tại châu Âu và
Hoa Kỳ (10), và nếu tính toàn bộ các nước đang phát triển thì con số đó phải lên
tới hàng triệu. Nạn chảy máu chất xám này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
hội nhập và phát triển của các nước nghèo và đang phát triển.
Toàn cầu hóa cũng tác động mạnh đến việc hoạch định chính sách quốc gia
của từng nước vì các Nhà nước sẽ khó khăn hơn trong việc thiết kế chính sách
kinh tế xã hội của mình dưới con mắt xoi mói của các thị trường kinh tế và tài
chính đã được toàn cầu hóa. Các nước chịu sức ép lớn buộc phải đặt các thoả
thuận đa phương lên trên chính sách quốc gia.
Chính vì thế mà toàn cầu hóa diễn ra với "bao nhiêu mâu thuẫn đủ loại, cực
kỳ phức tạp, đan xen. Đó là mâu thuẫn giữa một bên là quyền lực và lợi ích chi
phối, thao túng của những thế lực tư bản quốc tế, các nước tư bản chủ nghĩa với
một bên là chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đó là mâu thuẫn ngay trong
lòng các nước tư bản chủ nghĩa, giữa các tập đoàn tư bản với nhau. Đó là mâu
thuẫn giữa tăng trưởng của cải với phân phối không công bằng dẫn tới phân cực
giàu nghèo ngày càng tăng giữa các quốc gia và trong mỗi nước, giữa trung tâm
với ngoại vi, giữa Bắc với Nam. Đó là mâu thuẫn giữa kinh tế tăng trưởng với văn
hóa, đạo đức xã hội suy đồi do tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường toàn cầu
hóa. Đó là mâu thuẫn giữa hợp tác và đấu tranh. Là mâu thuẫn giữa xã hội với
thiên nhiên biểu hiện ở hiểm hoạ ngày càng tăng và mâu thuẫn cho đời sống con
người do tàn phá môi trường sinh thái.
Tóm lại, toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu và những lợi ích mà nó mang
lại là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đặt ra muôn vàn khó
khăn, thách thức và mâu thuẫn cho các quốc gia đặc biệt là các nước nghèo và các
nước đang phát triển.
7

Chương 2
TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY VỚI TƯƠNG LAI CỦA CHỦ NGHĨA
TƯ BẢN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Toàn cầu hóa hiện nay với tương lai của chủ nghĩa tư bản
2.1.1. Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, xét về không gian tồn tại của nó, là
sự tiếp tục quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng cách
mở rộng kiểu sản xuất tư bản chủ nghĩa ra toàn cầu.
Quá trình xã hội hóa LLSX tư bản chủ nghĩa, trên bình diện không gian
kinh tế có hai trình độ là quốc tế hóa và toàn cầu hóa hiện nay. Ở thế kỷ XIX,
những cuộc cách mạng trong sản xuất và quá trình công nghiệp hóa lần thứ nhất,
những phát kiến địa lý và sự mở rộng thị trường của chủ nghĩa tư bản… đã thúc
đẩy và làm cho LLSX định hình rõ tính chất quốc tế. Lần này, từ giữa thế kỷ XX
và cả những năm xắp tới của thế kỷ XXI, cuộc cách mạng công cụ sản xuất mà
nòng cột là những thành tựu khoa học và công nghệ mới đang thâm nhập và làm
cho LLSX của nhân loại đại tới một trình độ mới. Quá trình liên kết, phụ thuộc lẫn
nhau trong hoạt động sản xuất, mậu dịch, tài chính tiền tệ giữa các nước tăng vọt;
nguyên tắc kinh tế thị trường chi phối hầu hết nền kinh tế; mức độ tham gia phân
công lao động quốc tế và khả năng chiếm lĩnh thị trường thế giới đang là những
yếu tố xác định vị thế kinh tế của mỗi nước trong toàn cầu hóa kinh tế.
2.1.2. Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang có sự lặp lại những logic của
quốc tế hóa ở những thế kỷ trước, song với một trình độ cao hơn và cũng đặt ra
những vấn đề chính trị - xã hội gay gắt hơn với chủ nghĩa tư bản.
Hiện nay, công nghệ thông tin với chức năng trợ lực, khai phóng… năng
lực tư duy cho con người cùng với các thành tựu khoa học và công nghệ khác chắc
chắn sẽ tạo ra một tiền đề rộng lớn cho phát triển lực lượng sản xuất. Hệ dẫn
truyền của nó hiện nay gồm những nguyên tắc của kinh tế thị trường và những
thiết chế kinh tế - xã hội còn mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề là ở
chỗ hệ dẫn truyền ấy liệu có phù hợp cới toàn cầu hóa kinh tế hiện đại.
8
Toàn cầu hóa hiện nay, cũng như ở các thế kỷ trước, trước tiên là một hiện

tượng kinh tế nhưng không thuần túy kinh tế, mà xen vào đó, chi phối nó là nhiều
yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội nhưng có nội dung, hình thức mức độ, xu hướng
khác. Trên phương diện chính trị - xã hội, toàn cầu hóa kinh tế đang là sự phát
triển mới của LLSX hiện đại lấy chủ nghĩa tư bản làm “hệ dẫn truyền”, điều này
đồng nghĩa với sự bành trướng kiểu sản xuất – trao đổi – tiêu thụ hàng hóa tư bản
chủ nghĩa ra toàn cầu. Lưu thông kinh tế toàn cầu, phân công lao động toàn cầu
đang diễn ra với nhiều quốc gia đang có chế độ chính trị - xã hội khác nhau; song
về cơ bản những nguyên tắc điều phối quan hệ kinh tế quốc tế đang dựa trên
những thiết chế và chế định của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Ba chủ thể lợi ích nổi
bật hiện nay là các nhà nước – dân tộc (mà chủ yếu là các nước tư bản lớn); các
công ty xuyên quốc gia và các thiết chế kinh tế toàn cầu như WTO, WB, IMF…
đang chi phối toàn cầu hóa kinh tế và làm nên phương diện chính trị - xã hội của
nó. Hiệu quả kinh tế và hệ quả xã hội của quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay
không chỉ phụ thuộc vào tầm vóc, công năng của nó mà còn bị chi phối sâu sắc
bởi phương diện này.
Nổi lên trong đời sống chính trị - xã hội quốc tế hiện đại là những vấn đề
chính trị - xã hội mà toàn cầu hóa kinh tế đang đặt ra. Trên thực tế. toàn cầu hóa
kinh tế hiện nay đang trong trạng thái không bình thường mà giới nghiên cứu diến
đạt tính chất ấy bằng nhiều cách khác nhau, như “tính đồng đẳng”, “ngoài vòng
kiểm soát”… Bản chất của những hiện tượng ấy là mất bình đẳng về lợi ích giữa
các nước phát triển (mà chủ yếu là nhóm G7) với các nước đang phát triển; sự can
thiệp thô bạo của chủ nghĩa đế quốc vào chủ quyền quốc gia, dân tộc độc lập, bản
sắc văn hóa của những nước “đang chuyển đổi” nền kinh tế theo hướng hội nhập
toàn cầu hóa kinh tế; mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và chất lượng
của phát triển xã hội chưa được giải quyết hài hòa. Những vấn đề chính trị - xã hội
đó khách quan đặt ra nhu cầu là toàn cầu hóa kinh tế cần có một môi trường, một
hệ điều tiết chính trị - xã hội khác để nó phát triển trong bình đẳng và tiến bộ.
Không giải quyết được những vấn đề này, chính bản thân quá trình bành trướng
LLSX theo bề rộng cũng bị cản trở. Các hiện tượng “phản toàn cầu hóa” là ví dụ
điển hình.

9
Trong hai mươi năm tới, quá trình bành trướng theo bề rộng của LLSX
TBCN với sức mạnh như là “một cơn hồng thủy” sẽ cuốn hút theo tiến trình của
nó nhiều quốc gia đang trong “quá trình chuyển đổi”. Có hai sức mạnh tạo nên lực
cuốn hút này, một là logic của quá trình xã hội hóa LLSX, và hai là sức mạnh kinh
tế mang nhiều tính cưỡng bức của những nước tư bản chủ nghĩa phát triển đang cố
gắng “tạo ra một thế giới theo hình ảnh của nó”. Hai sức mạnh đó tạo nên hai
chiều hướng phát triển khác nhau sau đây:
Thứ nhất: quá trình xã hội hóa LLSX là tất yếu của tiến bộ xã hội, của văn
minh; nó không chấp nhận thái độ đầy mâu thuẩn của các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển (mà đứng đầu là Mỹ); vừa muốn các nước đang phát triển đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa thông qua quá trình toàn cầu hóa kinh tế, lại vừa không
muốn họ trở thành đối thủ cạnh tranh mới của mình. Thực tế cũng không chấp
nhận mô hình phát triển theo kiểu “chủ nghĩa quốc gia”, “đóng cửa”, “tự lực – tự
cường”, hoặc tư duy phi biện chứng trong nhận thức một thời; đối lập tuyệt đối
với những thành quả văn minh được tạo ra trong CNTB. Sứ mệnh lịch sử thế giới
của giai cấp công nhân mang bản chất quốc tế và nó không hề xa lạ với những
hiện tượng quốc tế phản ánh tiến bộ xã hội. Chủ động hội nhập quá trình toàn cầu
hóa kinh tế không chỉ là một tiền đề để phát triển kinh tế mà còn là một tiến trình
hợp với logic phát triển.
Thứ hai: đối với các nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đặt ra thách thức nhiêu hơn là cơ hội. Các nước đang
phát triển theo định hướng XHCN tham gia phân công lao động quốc tế, hội nhập
quốc tế với trình độ thấp hơn rất nhiều, lại phải chấp nhận những ‘luật chơi” hiện
còn đậm dấu ấn tư bản chủ nghĩa, sẽ phải trả một giá không rẻ nếu để chệch
hướng trong khi hội nhập kinh tế thế giới. Chệch hướng lớn nhất đối với CNXH
hiện thực khi tham gia toàn cầu hóa hiện nay là quên mất vai trò lịch sử trao cho là
tạo nên một kiểu phát triển mới thông qua toàn cầu hóa kinh tế. Chủ nghĩa xã hội
phải tham gia chủ động và tích cực vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế vì triển
vọng phát triển của nó và vì tương lai của toàn cầu hóa trên chất lượng mới; bình

đẳng giữa các quốc gia và không còn chế độ người bóc lột người. Giá trị thực tiễn
lớn nhất mà chủ nghĩa xã hội hiện thực mang lại là tham gia vào một quá trình
10

×