Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Quá trình xây dựng lực lượng cách mạng do Đảng lãnh đạo (1930-1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.64 KB, 44 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.…………………………………………………………………….3
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….3
2. Mục đích nghiên cứu đề tài……………………………………………….4
3. Nhiêm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài…………………………………..4
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….4
5. Kết cấu đề tài……………………………………………………………...5
B. NỘI DUNG…………………………………………………………………..6
Chương I: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng…………………..6
I. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị 1930-1935……………….7
1. Hoàn cảnh lịch sử…………………………………………………..7
a. Tình hình thế giới….………………………………………..7
b. Tình hình trong nước………………………………………..7
2. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo xây dựng lực lượng
chính trị trong thời kỳ cao trào cách mạng 1930-1931…………….8
3. Thời kỳ vừa đấu tranh khôi phục các tổ chức Đảng và phong trào
cách mạng, vừa lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị 1932-
1935……………………………………………………………….13
II. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng trong cao trào cách mạng 1936-
1939…………………………………………………………….………..16
1. Hoàn cảnh lịch sử…………………………………………………16
a. Tình hình thế giới….………………………………………16
b. Tình hình trong nước………………………………………17
2. Chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng trong thời kỳ vận
động dân chủ 1936-1939………………………………………….18
Chương II: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng tiến tới vũ trang
khởi nghĩa giành chính quyền 1939-1945……………………………………21
1
I. Hoàn cảnh lịch sử………………………….…………………………..21
1. Tình hình thế giới…………………………………………………21
2. Tình hình trong nước……………………………………………..21


II. Chủ trương của Đảng trước tình hình mới…………………………...22
1. Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1939………………………..22
2. Hội nghị trung ương Đảng tháng 11/1940………………………..22
3. Hội nghị trung ương Đảng tháng 5/1941…………………………23
III. Đảng xây dựng lực lượng cách mạng………………………….…….24
1. Xây dựng căn cứ địa cách mạng………………………………….24
2. Xây dựng lực lượng chính trị……………………………………..25
3. Xây dựng lực lượng vũ trang……………………………………..27
IV. Kết quả trong Cách mạng tháng Tám 1945…………………………28
Chương III: Kinh nghiệm xây dựng lực lượng cách mạng………………...32
1. Từng thời kỳ, Đảng định ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, sát đúng để tập
hợp quần chúng, xây dựng lực lượng cách mạng……………………32
2. Lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với trình độ giác ngộ và khả năng
đấu tranh của các tầng lớp và các giai cấp…………………………...34
3. Kết hợp đúng đắn xây dựng lực lượng và lực lượng vũ trang……….36
4. Xây dựng và bố trí lực lượng đều khắp trên các địa bàn nông thôn và
thành thị………………………………………………………………38
5. Gắn xây dựng lực lượng với đấu tranh, thông qua đấu tranh để củng
cố, phát triển lực lượng………………………………………………40
C. KẾT LUẬN………………………………………………………………...42
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................44
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng
minh một điều rằng: để đánh thắng được kẻ thù xâm lược, giành lại nền độc lập
cho tổ quốc và cuộc sống tự do, hoà bình cho nhân dân, thì ngoài sức mạnh tinh
thần (lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc, yêu chuộng hoà bình…) không thôi thì
không thể đánh thắng được kẻ thù xâm lược. Điều đó đã được lịch sử chứng
minh bằng sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40-43) và

cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (248)… chống quân xâm lược phương bắc. Nên để
đánh thắng được kẻ thù xâm lược thì ngoài sức mạnh tinh thần cần có sức mạnh
lực lượng quần chúng nhân dân. Nếu kết hợp được sức mạnh của hai yếu tố đó,
thì chúng ta có thể đánh bại được bất kỳ kẻ thù xâm lược hung mạnh nào, điều
đó được chứng minh bằng sự thắng lợi của quân và dân nhà Trần trong ba lần
kháng chiến chống Mông - Nguyên thế kỷ XIII, khởi nghĩa Lam Sơn đánh thắng
quân Minh thế kỷ XV và cuộc đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh và Xiêm của
Quang Trung (Nguyễn Huệ) thế kỷ XVIII.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi mà hầu hết các dân tộc ở Châu Á,
Phi, Mỹ la tinh đều nằm dưới sự thống trị và bóc lột của các nước đế quốc chủ
nghĩa. Trong đó Việt Nam nằm dưới sự thống trị và bóc lột của thực dân Pháp.
Kể từ khi Pháp tiến hành xâm lược nước ta từ 1858, đã có rất nhiều phong trào
yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản nổ ra nhưng đều thất
bại. Bởi vì các phong trào yêu nước đó đều không có đường lối cách mạng đúng
đắn và phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân. Từ bài học kinh
nghiệm ấy và nhận ra được tầm quan trọng sức mạnh của quần chúng nhân dân
tức là sức mạnh của lực lượng cách mạnh đối với công cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam, thì ngay khi mới ra đời năm 1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương) đã chú trọng đến công tác xây dựng và phát
triển lực lượng cách mạng. Chính điều này là một trong những sự chuẩn bị và là
3
nhân tố quan trọng cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Vì vậy để hiểu
rõ hơn và làm sáng tỏ hơn quá trình xây dựng lực lượng cách mạng do Đảng
lãnh đạo (1930-1945), là điều rất cần thiết đối với mỗi chúng ta, đặc biệt là đối
với những nhà nghiên cứu lịch sử Đảng . để từ đó thấy rõ hơn tầm quan trọng
của việc xây dựng lực lượng cách mạng đối với thắng lợi của cuộc cách mạng
Tháng Tám 1945. Đồng thời rút ra những kinh nghiệm về xây dựng lực lượng
cách mạng trong giai đoạn về sau. Chính vì điều đó mà em tập trung nghiên cứu
đề tài này.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ hơn về công tác xây dựng lực
lượng cách mạng của Đảng trong giai đoạn 1930-1945. Giúp cho người nghiên
cứu cũng như người đọc có cái nhìn toàn diện, sâu sắc, đánh giá đúng hơn về
công tác xây dựng lực lượng cách mạng và về thắng lợi của cuộc tổng khởi
nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945. Đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm
cho giai đoạn cách mạng sau.
3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Với phạm vi nghiên cứu của một bài tiểu luận, trên cơ sở xác định mục
đích, nhiệm vụ của đề tài, thì đề tại tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn
đề cơ bản sau:
- Đường lối, chủ trương của Đảng.
- Xây dựng lực lượng chính trị.
- Xây dựng lực lượng vũ trang.
Phạm vi nghiên cứu đề tài tập trung chủ yếu 3 vấn đề nói trên, trải dài
trong khoảng 15 năm, từ khi Đảng ra đời 1930 đến thắng lợi của cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám 1945.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp
4
với việc thu thập và sử lý những tài liệu này giúp người nghiên cứu có cái nhìn
tổng quát và đúng đắn hơn về vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài
Kết cấu đề tài gồm 3 phần: mở đầu, nội dung gồm 3 chương (có ảnh minh
hoạ), kết luận và mục tài liệu tham khảo.
5
NỘI DUNG
Chương I: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng
1930-1939

Vận dụng học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh và lực lượng vũ trang vào
điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời kế thừa tư tưởng quân sự trong truyền thống
đánh giặc cứu nước của nhân dân ta, chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng
đắn vấn đề xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang trong nhân dân
cách mạng. Người cho rằng: bạo lực cách mạng ở Việt Nam là bạo lực cách
mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm hai lực lượng cơ
bản: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang; với hai hình thức đấu
tranh cơ bản: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Lực lượng chính trị theo
người là lực lượng là lực lượng đông đảo của nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo của Đảng, là lực lượng cơ bản, là nền tảng của cách mạng và là cơ sở để xây
dựng, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, là nguồn tiếp sức vô tận cho phát
triển quân đội nhân dân. Do đó, muốn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
cách mạng, phải xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh. Người khẳng định:
muốn có quân đội vũ trang, trước hết phải có quân đội tuyên truyền vân động,
đội quân chình trị, nên phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng
đông, ngày càng mạnh. Phải có quần chúng giác ngộ chính trị, tự nguyện vác
sung thì mới thắng lợi được. Trên đây là đôi nét của tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng lực lượng cách mạng và đây cũng chính là tư tưởng xuyên suốt trong
đường lối xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng.
Kể từ khi thức dân Pháp nổ súng tiến hành xâm lược nước ta từ giữa thế
kỷ XIX, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa
nửa phong kiến với hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với đế quốc Pháp và bè lũ tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân lao động (chủ
6
yếu là nông dân) với địa chủ phong kiến. Kể từ đó đã có rất nhiều phong trào
yêu nước nổ ra nhằm đánh đuổi thực dân Pháp để giành lại độc lập, tự do cho
dân tộc nhưng đều thất bại. Vì các phong trào yêu nước đó đều không có đường
lối cách mạng đúng đắn và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc.
Để giải quyết được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc này cần
có một tổ chức cách mạng có khả năng đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với

nguyện vọng của nhân dân và xu thế của thời đại. Với sự chuẩn bị về tư tưởng
chính trị và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc, đầu năm 1930, Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời. Cùng lúc đó thì mặt trận dân tộc thống nhất cũng ra đời và trong
suốt quá trình cách mạng, việc xây dựng lực lượng tập hợp trong mặt trận dân
tộc thống nhất là bộ phận hữu cơ trong đường lối chiến lược của Đảng.
I. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị 1930-1935
1. Hoàn cảnh lịch sử
a. Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 nổ ra trong hệ thống các
nước tư bản chủ nghĩa, tàn phá nền kinh tế các nước này, đẩy lùi sản xuất về nửa
thế kỷ XIX. Giai cấp tư sản ở các nước đế quốc trút gánh nặng khủng hoảng lên
vai nhân dân trong nước và nhân dân các nước thuộc địa, nửa thuộc địa. Mâu
thuẫn giữa nhân dân với tư bản, giữa nông dân với địa chủ, giữa các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa với các nước đế quốc, giữa các nước đế quốc với nhau trở
nên gay gắt.
Trong lúc này, Liên Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên phát triển
nhanh chóng về kinh tế, xã hội và văn hoá và quốc phòng. Tính ưu việt của chế
độ xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước
tư bản vùng lên đấu tranh.
b. Tình hình trong nước
Ở Đông Dương trong đó có Việt Nam, thực dân Pháp chống đỡ những tai
hoạ của cuộc khủng hoảng bằng cách tăng cường bóc lột nhân dân. Công nhân
7
và nông dân là những nạn nhân trực tíêp và chịu nhiều tai hoạ nhất, Công nhân
thất nghiệp ngày càng đông, nông dân bị bần cùng, nạn đói xảy ra trầm trọng.
hang vạn người phải rời bỏ làng xã, thợ thủ công bị phá sản, nhà buôn nhỏ đóng
cửa, viên chức bị sa thải hang loạt, nhiều nhà tư sản dân tộc và tư sản nhỏ không
tránh khỏi sa sút và phá sản. Mâu thuẫn giữa nhân dân với thực dân Pháp và tay
sai ngày càng gay gắt.
Giữa lúc đó thì Đảng Cộng sản Việt nam ra đời lãnh trách nhiệm thúc đẩy

phong trào quần chúng phát triển thành cao trào cả nước.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo xây dựng lực lượng
chính trị trong cao trào cách mạng 1930-1931
Mùa xuân năm 1930, từ ngày 6/1 đến 7/2 Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản họp ở Cửu Long (Hương Cảng- Trung Quốc) dưới sự chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc, với sự tham gia của hai đại biểu Đông Dương cộng sản Đảng
và hai đại biểu của An Nam cộng sản Đảng và hai đại biểu nước ngoài. Hội nghị
đã nhất trí thành lập một Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày
3/2/1930)
1
.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và cao trào cách mạng 1930-1931 đã hình
thành trên thực tế khối liên minh công nông, tạo nên nền tảng vững chắc cho sự
phát triển của cách mạng Việt Nam.
Ngay sau khi Đảng ra đời, thì công tác xây dựng lực lượng cách mạng đã
được chú trong xây dựng từng bước. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng 1930, Đảng đã chỉ ra sự phát triển của cách mạng Việt Nam là độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế chung của thời đại và nguyện vọng
của đông đảo quần chúng trong nhân dân, mở ra khả năng lớn để tập hợp và và
thống nhất các lực lượng yêu nước trong nhân dân.
Cương lĩnh đã chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong
kiến, mở đường cho đất nước tiến lên xã hội cộng sản, “chủ trương làm tư sản
1
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết định lấy ngày 3/2/1930 là ngày kỷ niệm
thành lập Đảng.
8
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
2
. Trong
đó nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc tự do cho

toàn thể đồng bào.
Cương lĩnh đã vạch ra những nguyên tắc chiến lược, sách lược nhằm xây
dựng một đội quân vững mạnh của Đảng.
Cương lĩnh chỉ rõ: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục
cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm sao cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng… thu phục được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân
cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”
3
.
Ở Việt Nam lúc này giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất chiếm
90% dân số, nhưng đời sống lại rất khổ cực do bị đế quốc và phong kiến áp bức
nặng nề, nên trong cách mạng giải phóng dân tộc này họ là lực lượng tích cực
nhất chống đế quốc và phong kiến. Mặc dù vậy, nhưng giai cấp nông dân lại
không thể lãnh đạo được cách mạng vì họ không đại diện cho phương thức sản
xuất tiến bộ nào, không có hệ tư tưởng và vị trí chính trị độc lập. Vì vậy, trong
cuộc cách mạng này họ chỉ có thể đi theo giai cấp công nhân và chịu sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân thì giai cấp nông dân mới được giải phóng nên Đảng
phải thu phục cho được nông dân đi theo mình, thì mới xây dựng được đội quân
chính trị đông đảo được.
Giai cấp công nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp (1897-1914), xuất thân chủ yếu từ nông dân, nên giữa công nhân và
nông dân có mối quan hệ khăng khít tự nhiên. Để tăng thêm sức mạnh của mình,
giai cấp công nhân phải biết dựa vào sức mạnh của giai cấp nông dân, người bạn
đồng minh tin cậy, có tinh thần cách mạng và lực lượng to lớn. Ngược lại giai
cấp nông dân chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình nếu như liên minh
với giai cấp công nhân và chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Trong cuộc cách mạng này công nông là lực lượng chủ yếu trong đội quân
đông đảo quần chúng cách mạng. Vì vậy, muốn xây dựng được một đội quân
2
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 2.

3
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 4.
9
chính trị đông đảo hung mạnh thì Đảng cần thắt chặt được mối quan hệ giữa giai
cấp công nhân và giai cấp nông dân, để thực hiện được các nhiệm vụ và mục
tiêu của cách mạng.
Trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc giai cấp, Đảng có nhận định đúng
đắn nhằm củng cố và mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân trong sự
nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định giải
quyết vấn đề ruộng đất ở Việt Nam chỉ là: “Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ
nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo”
4
; “quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền
và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng An Nam chia cho dân
nghèo”
5
. đảng chỉ rõ, bọn địa chủ phản cách mạng là bọ địa chủ giàu ôm chân đế
quốc, có quyền lợi gắn liền với quyền lợi của đế quốc. Đó là đối tượng cách
mạng cần đánh đổ. “Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An
Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng ít lâu mới làm cho học
đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng lập hiến…) thì
phải đánh đổ”
6
.
Còn đối với giai cấp tiểu tư sản, trí thức, học sinh phải kéo họ vào phe vô
sản giai cấp, vì họ có tinh thần yêu nước, rất hăng hái cách mạng và nhạy cảm
với thời cuộc.
Còn giai cấp tư sản thì ngay từ khi mới ra đời đã phân hoá làm hai bộ phận:
tư sản mại bản có quyền lợi gắn chặt với với đế quốc Pháp, là kẻ thù của dân
tộc. Còn tư sản dân tộc do bị đế quốc và tư sản mại bản chèn ép nên họ có tinh

thần dân tộc. Đảng phải biết lợi dụng họ hoặc ít ra làm cho họ trung lập, dần dần
kéo họ về phía vô sản để chống kẻ thù chung. Đây là một sách lược hết sức đúng
đắn của đảng để huy động sức mạnh dân tộc cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Như vậy, ngay từ khi ra đời, đảng đã đề ra chủ trương hợp lý để liên minh
các giai cấp , tầng lớp nhằm thực hiện mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Mặc dù vậy, đảng cũng chỉ rõ: “trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn
4
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 3.
5
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 16.
6
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 4.
10
thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con
đường thoả hiệp”
7
.
Chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng đã thu hút đông đảo các tầng
lớp tham gia cách mạng, dấy lên một cao trào đấu tranh chưa từng có mà đỉnh
cao là cao trào với sự ra đời của Xô Viết Nghệ -Tĩnh. Trong cao trào, khí thế của
quần chúng công nông lên cao đã lôi cuốn phú nông, nhiều địa chủ vừa và nhỏ ở
các “làng đỏ” gia nhập các hội; lôi cuốn các tầng lớp nhân dân từ miền xuôi đến
miền ngược, từ Bắc đến Nam, các dân tộc thiểu số và đa số.
Bức tranh Xô Viết Nghệ Tĩnh, vẽ năm 1958 , hiện đang lưu giữ
trong Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Cũng qua cao trào, giúp đảng nhìn nhận và đánh giá đúng năng lực phản
đế cuả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội như giai cấp địa chủ, tư sản mại bản và
giai cấp tiểu tư sản.
Từ ngày 14-30/10/1930 Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương
Đảng họp tại Hương Cảng, do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã nhận thấy

tầm quan trọng và tính cấp thiết của cuộc vận động, tập hợp lực lượng quần
chúng. Án nghị quyết và vấn đề phản đế được hội nghị thông qua nhận định: Ở
Đông Dương có nhiều lực lượng phản đế mà hiện nay cần phải liên hiệp lại
thành một phong trào cách mạng thống nhất để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mưu
giải phóng cho xứ Đông Dương. Phê phán những nhận thức sai, xem nhẹ các
“đoàn thể phản đế”. Từ nhận định đó, nghị quyết chỉ rõ: “Việc tổ chức phản đế
là một nhiệm vụ cần kíp của Đảng, thế mà từ trước đến giờ, không có một cái kế
hoạch cho xác đáng để tổ chức hội ấy”.
7
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2002, trang 4.
11
Mục đích của Hội phản đế là đoàn kết các lực lượng phản đế để đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa, mưu việc hoàn toàn độc lập cho các xứ Đông Dương và bênh
vực phong trào giải phóng thuộc địa và bán thuộc địa. Làm cho Hội ấy có tính
chất quần chúng, hoạt động công khai, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh
hang ngày của công nông.
Nghị quyết về vấn đề phản đế của Đảng tại Hội gnhị trung ương tháng
10/1930, những phác hoạ cụ thể đầu tiên về xây dựng mặt trận dân tộc thống
nhất nhằm tập hợp lực lượng toàn dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cho
nên không tránh khỏi những sai lầm thiếu sót. “Luận cương chính trị” đánh giá
các giai cấp, tầng lớp có một số quan điểm khác với Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng. Luận cương chính trị khẳng định vai trò cách mạng của công
nông, coi công nông là động lực chính của cách mạng và phong trào giải phóng
dân tộc phải diễn ra với sức mạnh của chính khối liên minh công nông. Còn các
giai cấp, tầng lớp khác, Đảng có nhận thức, đánh giá khác với Cương lĩnh chính
trị đầu tiên.
Còn đối với tư bản thương mại, tư bản công nghiệp, khi phong trào quần
chúng nổi lên cao thì bọn này sẽ theo đế quốc. Còn tiểu tư sản có nhiều hạng:
thủ công nghiệp đối với phong trào cách mạng vô sản, hang này cũng có ác
cảm… rất do dự. Bọn thương gia không tán thành cách mạng. Trí thức, tiểu tư

sản, học sinh… đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư sản bản xứ.
Về nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư sản dân quyền: là đánh đổ phong
kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp. Hai mặt đó có quan hệ mật thiết, trong đó vấn đề ruộng đất là cái cốt của
cách mạng tư sản dân quyền. Như vậy, Luận cương đã nhấn mạnh vấn đề đấu
tranh giai cấp, không thấy được kẻ thù cần tập trung đánh đổ là thực dân Pháp,
phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu.
Với nhận thức trên “Luận cương tháng 10” chỉ bó hẹp lượng cách mạng
trong phạm vi công nông, còn các giai cấp, tầng lớp khác, bị đẩy ra xa cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Vì vậy, Đảng đã không phát huy được mọi nhân tốc
12
dân tộc dân tộc, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chung là đế quốc, phong kiến để
giành lại độc lập, tự do.
Những quan niệm của Đảng trong “Luận cương tháng 10” và án nghị
quyết xuất phát từ nhận thức chưa chính xác, giáo điều do không hiểu biết đầy
đủ về tình hình, đặc điểm giai cấp, xã hội, chưa đánh giá hết động lực to lớn của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam… của một số lãnh đạo Đảng, nhất là do ảnh
hưởng tả của Quốc tế cộng sản lúc đó.
Thực tiễn sinh động của cao trào 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ
Tĩnh là chất liệu được phản ánh trong chỉ thị của Ban thường vụ trung ương
Đảng về vấn đề thành lập Hội phản đế đồng minh ngày 18/11/1930.
Chỉ thị nhắc lại những quan điểm đúng đắn của chánh cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt: cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương đã phân tích rõ giai
cấp công nhân không đồng minh với nông dân thì không đánh đổ được đế quốc
Pháp. Mặt khác, không tổ chức được toàn dân lại thành lựclượng thật, thật kín
thì cuộc cách mạng khó mà thành công.
Trên cơ sở nhận thức trên, thường vụ trung ương Đảng quyết định thành
lập Mặt trận phản đế đồng minh “hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản
dân tộc… cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp.
Hội nghị Trung ương tháng 3/1931 đã phê phán những sai lầm như cưỡng

bức dân chúng đi đấu tranh trong khi họ chưa được giác ngộ. Hội nghị đã đề ra
nhiệm vụ tiếp tục phát triển các tổ chức nông hội, công hội đỏ… để thu hút quần
chúng nhưng lại không đề cập phải rtanh thủ các tầng lớp khác như địa chủ, phú
nông… có tinh thần dân tộc chống đế quốc, phong kiến.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã góp phần hình thành trên thực tế khối
liên minh công nông, phong trào của các tầng lớp nhân dân. Đó chính là nền
tảng cho sự ra đời của mặt trận dân tộc thống nhất Đông Dương.
3. Thời kỳ vừa đấu tranh khôi phục các tổ chức Đảng và phong trào
cách mạng, vừa lãnh đạo xây dựng lực lượng chính trị (1932-1935)
13
Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang dâng cao. Sauk hi Xô
viết Nghệ Tĩnh ra đời, đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp hòng dập tắt
phong trào cáchmạng Việt Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hàng chục vạn chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước đã bị bắt và giết
hại. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở trung ương và địa phương lần lượt bị phá
vỡ. Toà án của thực dân Pháp mở các phiên toà đặc biệt để xét xử những người
cách mạng.
Đi đôi với khủng bố, tàn sát, thực dân Pháp tìm cách lừa bịp, mị dân: tăng số
đại biểu người Việt ở các viện dân biểu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, ở Hội đông
quản hạt Nam Kỳ và các hội đồng thành phố, đề ra cải cách giáo dục, cho địa
chủ lớn và tư sản mại bản một số quyền lợi.
Sự khủng bố và lừa bịp của thực dân Pháp không làm cho những chiến sĩ
cách mạng và quần chúng yêu nước từ bỏ con đường cách mạng, rất nhiều cuộc
đấu tranh của công nhân, nông dân vẫn nổ ra.
Các đảng viên cộng sản trong nhà tù Hoả Lò (Hà Nội), Kham Lớn (Sài
Gòn), Hải Phòng, Côn Đảo, Kon Tum… đã thành lập các chi bộ Đảng để lãnh
đạo đấu tranh chống chế độ nhà tù hà khắc, đòi cải thiện đời sống và tổ chức học
tập, biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng.
“Biến được cái rủi thành cái may, các đồng chí đã lợi dụng được những ngày
tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng

chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù… nó rèn luyện cho người cách
mạng càng them cứng rắn mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”
8
.
Mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố tàn bạo, một số tổ chức Đảng ở Cao
Bằng, Hải Phòng, Nam Định… đã bám chắc quần chúng để hoạt động. Các
đồng chí vượt tù đã tích cực tham gia khôi phục các tổ chức Đảng, lãnh đạo
quần chúng đấu tranh.
Năm 1932 theo chỉ thị của quốc tế cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và
một số đồng chí cán bộ chủ chốt tổ chức ban lãnh đạo trung ương Đảng. Tháng
8
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, NxbCTQG, HN, 2000, trang 3-4.
14
6/1932, ban lãnh đạo trung ương đã ra bản chương trình hành động củ Đảng
Cộng sản Đông Dương được Quốc tế cộng sản công nhận. Chương trình hành
động của Đảng đặt vấn đề phải lợi dụng hết thảy các hình thức đấu tranh công
khai hợp pháp, nửa hợp pháp, gấp rút tổ chức quần chúng đấu tranh bằng nhiều
hình thứuc khác nhau. Chương trình cũng đưa ra những yêu cầu cụ thể về kinh
tế- chính trị- xã hội cho mỗi giai cấp, tầng lớp, các tổ chứ đoàn thể nhằm đấu
tranh đòi những quyền lợi thiết thân hàng ngày, từng bước tiến tới dẫn dắt quần
chúng tiến tới đấu tranh đòi những yêu cầu cao hơn.
Từ thực tiễn cách mạng những năm qua, đã giúp đảng nhìn nhận, đánh giá
đúng các giai cấp, tầng lớp nhân dân. Tư sản mại bản và đại địa chủ là những kẻ
tôi tớ trung thành của đế quốc, đó là đối tượng cần đánh đổ. Tư sản dân tộc, địa
chủ nhỏ bị chèn ép có tinh thần chống đế quốc. Giai cấp tư sản hoang mang, dao
động, nhưng họ luôn có tinh thần yêu nước. Nếu được động viên giáo dục, tổ
chức họ sẽ hăng hái tham gia cách mạng.
Năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng được thành lập, các xứ uỷ Trung
Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ được lập lại. Nhiều cơ sở Đảng được phục hồi, hệ thống
tổ chức Đảng được khôi phục. Phong trào quần chúng lại được tiép tục vươn lên.

Tháng 3/1935, đại hội lần thứ nhất của Đảng họp ở Macao (Trung Quốc) đã
nhận định sức mạnh của Đảng là dựa trên uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong
quần chúng. Đại hội nhấn mạnh công tác tranh thủ rộng rãi quần chúng là nhiệm
vụ quan trọng nhất. Đại hội đã thông qua nghị quyết về vận động công nhân,
nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ… Điều đó chứng tỏ đảng tiếp tục chú ý
xây dựng lực lượng cách mạng, lấy đó làm cơ sở để đảng khôi phục và phát
triển,chuẩn bị phát động phong trào đấu tranh mới.
Đại hội đã ra quyết định thành lập tổ chức phản đế liên minh. Đay là tổ chức
tập hợp tất cả các lực lượng phản đế ở Đông Dương, bao gồm tất cà những đảng
phái, đoàn thẻ, tổ chức, lớp, nhóm có tính chất cách mạng kể cả những phần tử
lẻ tẻ, với những hình thức và biện pháp đấu tranh phong phú.
15
Đối với các đảng pháỉ cải lương, phản động thì tổ chức mặt tận phản đế bên
dưới với các đoàn thể của tiểu tư sản có thể thống nhất bên dưới, vừa thống nhất
bên trên.
Trong khi thành lập được Mặt trận thống nhất phản đế, Đảng phải đưa ra
khẩu hiệu tối thiểu, đề ra những sang kiến lãnh đạo mặt trận,với những chủ
trương trên cho thấy đường lối của Đảng về thành lâpk phản đế liên minh đã có
sự linh hoạt, mềm dẻo hơn.
Đảng đã chủ trương liên minh với tất cả các Đảng cải lương, những phần tử
phản cách mạng lẻ tẻ để tăng cường lực lượng phản đế. Điều đó cho thấy Đảng
đã có bước tiến mới trong việc xây dựng lực lượng cách mạng.
Từ Hội phản đế đồng minh (1930) đến tổ chức phản đế liên minh (1935)
được hình thành cả hai tổ chức đó đều đã góp phần quan trọng trong việc xây
dựng và tập hợp lực lượng quần chúng đấu tranh trong cả nước và là sự chuẩn bị
lực lượng cách mạng cần thiết cho cách mạng tháng tám sau này.
II. Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng trong cao trào cách mạng 1936-1939
1. Hoàn cảnh lịch sử
a. Tình hình thế giới
Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và nguy cơ của một

cuộc khủng hoảng kinh tế mới làm mâu thuẫn xã hội ở các nước tư bản chủ
nghĩa them sâu sắc. Các nước đế quốc Đức, Italia, Nhật Bản thiết lập chế độ
phát xít, chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới và từ 1935 tiến hành xâm lược
một số nước. Mâu thuẫn giữa phát xít Đức, Italia, Nhật Bản và Anh, Pháp, Mỹ
trở nên gay gắt. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc đối với Liên Xô cũng rất sâu
sắc, phong trào đầu tranh chống phát xít, chống chiến tranh nổi lên ở nhiều
nước.
Tháng 7/1935, đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản được triệu tập tại
Matxcơva. Đoàn đại biểu của đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí lê Hồng
Phong dẫn đầu đến tham dự đại hội.
16
Đại hội xác định ke thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới lúc
này chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chúng mà là chủ nghĩa phát xít, nhiệm
vụ trước mắt của giai cấp công nhân chưa phải là đấu tranh chống lại toàn bộ
chủ nghĩa tư bản mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh,
giành dân chủ, hoà bình, bảo vệ Liên Xô. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, cần phải
thành lập mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân và thiết lập mặt trận thống
nhất rộng rãi chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải
thiện đời sống.
Ở Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập do Đảng Cộng
sản Pháp làm lòng cốt đã giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 4/1936,
thành lập chính phủ phái tả gồm những người thuộc đảng Xã hội và Đảng cấp
tiến. đối với các nước thuộc địa, cương lĩnh của mặt trận nhân dân Pháp nêu ra
việc thả tù chính trị, cử các phải đoàn điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt là ở
Đông Dương, thi hành một số cải cách cho giới lao động.
b. Tình hình trong nước
Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và cuộc khủng bố
trắng kéo dài sau cao trào 1930-1931 cùng với những thủ đoạn vơ vét, bóc lột
nặng nề của thực dân Pháp, cuộc sống của các giai cấp và tầng lớp nhân dân, kể
cả những tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ rất khó khăn. Nguyện vọng của

nhân dân lúc này là đòi quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình.
Trong khi đó bọn cầm quyền ở Đông Dương đã phát xít hoá bộ máy chính
quyền, chúng ra sức bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, kéo dài chính sách
khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Tình hình trên đây làm cho nhân dân ta bao gồm nhiều giai cấp, tuy có
quyền lợi khác nhau, càng thêm căm thù bè lũ thực dân, tư bản độc quyền Pháp
và đều có nguyện vọng chung trước mắt về quyền lợi dân sinh dân chủ, trừ một
nhòm tư sản mại bản chỉ cam tâm làm tôi tớ cho bọn cướp nước. Vì thế, yêu cầu
cải cách và cải thiện đời sống nhân dân là một đòi hỏi bức thiết đối với mọi giai
cấp và tầng lớp xã hội, kể cả bộ phận lớp trên.
17

×