Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hội nghị Geneve về Đông Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.1 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Hội nghị Geneve về Đông Dương là hội nghị thương lượng hoà bình giữa
phe đế quốc gây chiến và phe dân chủ hoà bình. Họp tại Geneve (thủ đô của
Thuỵ Sĩ). Khuôn khổ của cuộc đàm phán ở Geneve phản ánh xu thế hòa hoãn
giữa hai bên. Hội nghị được triệu tập từ kiến nghị của phía Liên Xô, được các
nước phương Tây chấp thuận. Đây là hội nghị quốc tế đầu tiên với sự tham gia
của các nước lớn, ngoài cơ chế Liên Hợp Quốc, trong bối cảnh bước đầu tiên có
hoà dịu Đông Tây sau khi chiến tranh Triều Tiên đó lắng dịu và quõn đội viễn
chinh Pháp trong cơn nguy kịch.
Hội nghị tập trung giải quyết bốn vấn đề lớn trong một giải pháp kết thúc
chiến tranh:
Vấn đề đình chiến và khu vực tập kết
Vấn đề hoà bình, độc lập, thống nhất và dân chủ
Vấn đề quân sự, chính trị trong mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương
và giữa ba nước này với bên ngoài
Vấn đề quan hệ với nước Pháp
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1. Tình hình thế giới
Trên thế giới, vào năm1953 chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ ra
sức chuẩn bị chiến tranh, nhanh chóng triển khai chiến lược toàn cầu hoá phản
cách mạng của chúng. Đế quốc Mỹ áp dụng chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt’ và
chính sách ngoại giao “bên miệng hố chiến tranh” của Ai-xen-hao và Đa-lét
nhằm bao vây Liên Xô, Trung Quốc và các nước xó hội chủ nghĩa, ngăn chặn sự
phát triển của chủ nghĩa cộng sản, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, hũng
làm bỏ chủ thế giới. Lợi dụng chiến tranh Triều Tiên, đế quốc Mỹ pháp triển
quân đội Mỹ từ 1.400.000 người (năm 1949) lên 3.500.000 người vừa chống
Liên Xô ở châu Âu, vừa chống Trung Quốc ở châu Á. Chúng xúc tiến vũ trang
lại Tây Đức khôi phục lại chủ nghĩa phục thù Tây Đức, thành lập quân đội Tây


Âu (NATO), khôi phục lại chủ nghĩa quân phiệt Nhật ở châu Á.
Từ sau cỏch mạng Trung Quốc thành cụng, sự so sánh lực lượng trên thế
giới đang thay đổi có lợi cho cách mạng. Phe xó hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên
Xô, với liên minh Xô Trung làm nũng cốt, ngày một củng cố vững mạnh.
Cả Liên Xô và Trung Quốc đó đi vào thời kỳ kinh tế kế hoạch dài hạn.
Liên Xô đó có bom khinh khí (8.1953) và Trung Quốc sau chiến tranh Triêu
Tiên, đó trở thành một nước có lực lượng quân sự mạnh nhất Châu Á.
Liên Xô, Trung Quốc và phe xó hội chủ nghĩa đoàn kết nhất chí và gương
cao ngọn cờ chống đế quốc gây chiến, bảo vệ hoà bỡnh, ủng hộ phong trào giải
phóng dân tộc, nên có uy tín to lớn trên thế giới.
Song song với sự hình thành phe xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng
dân tộc tiếp tục phát triển mạnh mẽ ở Nam Á, Đông Nam Á, Trung Cận Đông
và châu Phi.
Xu hướng trung lập tích cực, không tham gia các liên minh quân sự với
các nước phương Tây, phát triển trong các nước mới dành được độc lập như 5
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước tham gia kế hoạch Colombo Ấn Độ, Miến Điện, Pa-ki-xtan, In-đô-nê-xi-a,
và chủ nghĩa dân tộc Nát-xe ở Ai Cập.
Hai phe đều tranh thủ tập hợp lực lượng và đấu tranh quyết liệt. Nhưng so
sánh lực lượng lúc bấy giờ, hai phe đó cú hòa hoãn với nhau ở mức thấp. Chấp
nhận định chiến tại Triều Tiên (1953) gần như nguyên trạng của cả hai bên ở vĩ
tuyến 38 và sau đó thoả thuận họp hội nghị Bá Linh (1.1954) để bàn giải quyết
hoà bình vấn đề Triều Tiên và bàn việc lập lại hoà bình ở Đông Dương. Đây là
hội nghị đầu tiên của bốn nước lớn kể từ năm 1949, sau những năm hết sức căng
thẳng của chiến tranh lạnh Đông Tây. Kết quả hội nghị này là hai phe đồng ý
triệu tập hội nghị Geneve vào ngày 26 thỏng 4 năm 1954 với sự tham dự của
Trung Quốc.
2.Tình hình Đông Dương
Ở Đông Dương, trải qua 8 năm kháng chiến, vào Thu-Đông năm 1953 lực

lượng ta trên chiến trường đó dành được chủ động tiến công trên chiến trương
chính. Ta đó liên tiếp mở bốn chiến dịch lớn thắng lợi: giải phóng Lai Châu ở
Tây Bắc (10.12.1953), tiến quân vào Thà Khẹt (25.12.1953) ở Trung và Hạ Lào,
giải phóng khu vực sông Nậm Rốm và Phong-sa-lỳ (26.11.1953) ở Thượng Lào
và giải phóng Comtum ở Tây Nguyên.
Vào mùa hè năm 1953, Pháp đó gặp nhiều khú khăn lớn ở Đông Dương.
Lực lượng Pháp tuy còn 45 vạn quân (so với khoảng trên 30 vạn của ta), song
phõn tỏn, làm nhiệm vụ chiếm đóng ở ba nước Đông Dương, thiếu quân cơ
động, nhiều nguỵ quân và tinh thần giảm sút.
Tướng Hăng-ri Na-va, là một nhà chiến lược xuất sắc ở Pháp, vừa được
cử sang làm tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương, lúc đó nhận xét rằng:
“Sau 7 năm chiến tranh, nhỡn chung so sánh các phương tiện của chúng ta
với đối phương đó trở nên bất tiện cho ta”. Và y báo cáo chính phủ pháp như
sau:
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
“Sự phân tán và tình trạng bất động của lực lượng chúng ta chỉ còn để lại
Bộ chỉ huy những khả năng hết sức hạn chế. Mọi cuộc hành quân chiến lược
tương đối lớn đều không thể tiến hành được trong tình trạng hiện nay.”
Để cứu vãn tình hình, chính phủ Pháp thông qua kế hoạch Na-va gồm hai
giai đoạn:
- 1953 – 1954: phũng ngự chiến lược ở miền Bắc Việt Nam, tấn công
chiến lược ở Nam vĩ tuyến 18 đi đôi vói viêc tăng cường quân cơ động bằng xây
dựng nguỵ quân và tăng viện từ Pháp sang.
- 1954 – 1955: tấn công chiến lược miền Bắc, giành lấy thắng lợi quân sự
to lớn, buộc ta phải đình chiến theo điều kiện của Pháp.
Đây là một kế hoạch đầy tham vọng, được Mỹ hết sức ủng hộ và viện trợ
thêm 385 triệu đô la để thực hiện.
Nhưng vỡ qua nhiều khú khăn, không thể đáp ứng hết yêu cầu xin tăng
quân của Na-va, Ngày 13.11.1953, Uỷ ban quốc phòng Pháp chỉ thị cho Na-va

phải sử dụng các lực lượng hiện có, phát triển tối đa quân nguỵ và xác định mục
tiêu hành động của Pháp ở Đông Dương là làm sao cho đối phương “nhận thấy
không thể giành được một quyết định quân sự.
Để thực hiện kế hoạch trên, trong Hè – Thu năm 1953, Na-va liên tiếp mở
hàng chục cuộc càn quét ở vùng chúng chiếm đóng ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên và
Nam Bộ, nhẩy dự tập kích Lạng Sơn (7,1953), tăng cường biệt kích thổ phỉ ở
Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, mở cuộc tấn công lớn gọi là chiến dịch Hải Âu vào
vùng Nho Quan ( Ninh Bình), tuyên bố đó dành được chủ động chiến trường.
Nhưng bị tổ thất nặng chúng phải rút khỏi Nho Quan.
Trước việc ta tiến quân lên hướng Tây Bắc, Na-va cho quân nhảy dù
xuống Điện Biên Phủ (20.11.19530 nhằm mở rộng địa bàn của chúng ở Tây Bắc
và bảo vệ Lào mà Pháp mới trao trả độc lập chưa đầy một tháng (22.10.1953).
Lực lượng của địch lúc đầu có 6 tiểu đoàn. Ngày 3.12 tướng Na-va quyết
định tăng cường lực lượng cho Điện Biên Phủ và tiếp nhận cuộc chiến đấu với
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lực lượng chủ lực của ta ở Điện Biên Phủ và Điện Biên Phủ trở thành tập đoàn
cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Trước khi ta đánh Điện Biên Phủ, ngày 20.11.1954, Na-va mở chiến dịch
“Át-lăng-tơ’ (Atlante) đổ bộ lên Tuy Hoà, Phú Yên, đánh chiếm vùng tự do liên
khu 5. Sau mấy chiến dịch lớn của ta Na-va cho rằng ta không đủ sức tấn công
nữa, càng không thể đánh Điện Biên Phủ được, Vỡ vậy, ngày 12.3.1954, Pháp
đổ bộ lên chiếm Quy Nhơn, tiếp tục chiến dịch Atlante.
Ngày 13.3.1954, ta mở cuộc đại tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ và sau 55 ngày đêm chiến đấu, ta tiêu diệt hoàn toàn Điện Biên Phủ, 16.000
quân địch gồm 21 tiểu đoàn bị tiêu diệt và bị bắt làm tự binh.
Nhìn chung, trong Đông – Xuân 1953 – 1954 địch bị thiệt hại 112.000
tên, tức ¼ lực lượng vũ trang của địch tại Đông Dương. Những thắng lợi đó đó
đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ hình thái phản công cục bộ tiến lên
hình thái phản công lớn, từ tư thế chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ

tiến lên giành chủ động trên chiến trường cả nước.
3.Tình hình nước Pháp
Nước Pháp bị kệt quệ trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, phải nhờ
vào viện trợ của Mỹ ngày càng nhiều và do đó càng bị lệ thuộc vào Mỹ và chắc
chắn sẽ bị Mỹ hất cẳng.
Trước sự thất bại ngày càng lớn ở Đông Dương, Pháp rất lúng túng:
không tăng viện cho Đông Dương thì quân đội viễn chinh Pháp có nguy cơ bị
tiêu diệt, mà tăng viện từ Pháp hoặc lấy quân từ Bắc Phi sang, sẽ làm yếu lực
lượng ở châu Âu, có nguy cơ Mỹ sẽ đẩy nhanh việc phục hồi quân đội phát xít
Đức ở châu Âu trong cái gọi là phũng thủ chõu Âu: CED, là một hiểm hoạ
truyền thống của nước Pháp, và không đủ lực lượng đối phó vói phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Bắc Phi.
Vấn đề cứu vãn quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương trở thành cấp
bách đối với Pháp không những để duy trì quyền lợi của chúng ở Đông Dương
mà còn đối với cả quyền lợi của Pháp ở châu Âu và Bắc Phi.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trên đất Pháp, phong trào nhân dân Pháp đũi chấm dứt cuộc chiến tranh
bẩn thỉu ở Đông Dương ngày càng phát triển mạnh. Giai câp tư sản Pháp phân
hoá thành hai lực lượng chủ hoà và chủ chiến đối lập nhau.
Trong chính phủ Pháp, phái chủ chiến là bọn Laniel, thủ tướng và Bidault,
bộ trưởng ngoại giao cầm đầu, bọn này đại diện cho tập đoang Nhà băng Đông
Dương có nhiều quyền lợi ở Viễn Đông gắn liền với Mỹ. Phái chủ hoà có Paul
reynaud, phó thủ tướng, Edgảe Fảue, bộ trưởng bộ tài chính, M.Mitterand, bộ
trưởng trước kia phụ trách các vấn đề Châu Âu và Jacquinot, Bộ trưởng Pháp
quốc hải ngoại, đại biểu cho quyền lợi của Pháp ở Bắc Phi.
Trong quốc hội Pháp, ngoài các nghị sĩ cộng sản trước sau vẫn kiên quyết
chống chiến tranh Đông Dương, cũn cú một bộ phận Đảng xó hội cấp tiến
Mendes France cầm đầu, đại biểu lợi ích cho tập đoàn gang thép Scheider, và
dệt Pousste, một bộ phận của nhóm dân chủ xã hội đề nghị kháng liên minh

(UDSR do Francois Mitterand cầm đầu, đại biểu cho lợi ích của tập đoàn Ngân
hàng Lassale, bọn này liên hiệp với các nghị sĩ cánh tả của Đảng xã hội và Cộng
hoà bình dân).

6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 2: DIỄN BIẾN HỘI NGHỊ
1.Thành phần hội nghị
Hội nghị Geneve về Đông Dương có 9 đoàn đại biểu tham dự, ngoài 5
nước lớn: Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ còn có các đoàn của Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu, của Quốc Gia Việt Nam do
Nguyễn Quốc Bình dẫn đầu, của Vương Quốc Lào do Phoui Sanaikone dẫn đầu,
của Vương Quốc Campuchia do Nhiếp Tiêu Long dẫn đầu.
Hội nghị có hai đồng chủ tịch là Liên Xô và Anh.
Các đoàn đại biểu Pathet Lào và Khơme Issarak đều có mặt tại Geneve.
Đoàn đại biểu của ta ngay từ đầu đó yêu cầu hội nghị mời họ tham gia. Nhưng
Liên Xô thỡ nộ trỏnh cũn Trung Quốc đó cụng nhận tớnh hợp phỏp cảu Chính
phủ Vương quốc Campuchia,Vương quốc Lào, cho nên họ không ủng hộ việc
Pathet Lào và Khơme Issarak tham dự hội nghị.
2. Diễn biến hội nghị
Hội nghị Geneve về Đông Dương diễn ra từ ngày 8 tháng 5 đến 21 tháng
7 năm 1954. Cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán cũng như bên lề hội nghị diễn ra
gay gắt, ta có thể khái quát thành 3 thời kì.
a. Thời kì từ 8 -5 -1954 đến 19-6-1954
Nội dung chính của thời kì này là các bên trình bày lập trường, cách giải
quyết của mình về vấn đề kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Tại hội nghị phía ta yêu cầu bàn song song giữa vấn đề quân sự và chính trị còn
Pháp, Mỹ thì yêu cầu bàn riêng từng vấn đề một.
Trong phiên họp đầu tiên, trưởng đoàn đại biểu Pháp Bidault trình bày lập
trường của Pháp.

- Tập kết quân đội hai bên vào vùng quy định.
- Giải giáp lưc lượng dân quân du kích.
- Trao trả tự quân sự và dân sự.
- Kiểm sóat quốc tế.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Đình chỉ chiến sự.
Phiên thứ hai Nguyễn Quốc Định đại biểu Quốc gia Việt Nam đề nghị ưu
tiên giải quyết vấn đề thả tù binh bị thương ở Điện Biên Phủ, Phạm Văn Đồng
tuyên bố chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà sẵn sàng để Pháp nhận tù
nhân bị thương, nhưng đại diện hai Bộ tổng tư lệnh sẽ thảo luận cụ thể các biện
pháp cần thiết.Vấn đề này phía Pháp đồng ý ngay.
Sau đó Phạm văn Đồng nêu lên lập trường của Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà trên cơ sở: Hoà bình, độc lập, thống nhất và dân chủ đồng thời trình bày 8
điểm cho việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và Đông
Dương:
* Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lĩnh thổ của Việt Nam,
Lào và Campuchia.
* Kí một hiệp định rút quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam, Lào và
Campuchia trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định. Trước khi rút quân,
đạt thoả thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt Nam trong một số
khu vực hạn chế.
* Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong ba nước nhằm thành lập chính phủ
duy nhất cho mỗi nước.
* Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện
gia nhập Liên hiệp Pháp và những điều kiện của việc gia nhập đó.Các chính phủ
Lào và Campuchia cũng tuyên bố tương tự.
* Việt Nam Dõn chủ Cộng Hoà, Campuchia và Lào thừa nhận các quyền
lợi kinh tế, văn hoá của Pháp trong ba nước. Sau khi chính phủ duy nhất được
thành lập, quan hệ kinh tế và văn hoá được giải quyết theo đúng nguyên tắc

bỡnh đẳng và cùng có lợi.
* Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương
trong thời gian chiến tranh.
* Trao trả tự binh.
8

×