Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Suy tim – Phần 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.46 KB, 4 trang )

Suy tim – Phần 2


3. Thuốc lợi tiểu:
Thuốc lợi tiểu là một trong số các thuốc không thể thiếu để điều trị suy tim, thuốc
lợi tiểu có nhiều nhóm, nhưng để điều trị suy tim hiện nay chỉ sử dụng những
nhóm thuốc lợi tiểu sau đây:
- Nhóm thiazide (hypothiazid, chlorothiazid, bendrofluazide, chlorthalidome ).
Hiện nay trên lâm sàng sử dụng phổ biến là hypothiazid loại 25mg, 50mg ´ 1-
4v/ngày uống sáng dùng trong 3-5 ngày/1 tuần. Thuốc gây hạ K+ máu nên cần bổ
sung kali bằng cách:
Kalicloride 600mg ´ 1-2v/ngày, hoặc panangin 2-4v/ngày.
- Nhóm thuốc lợi tiểu quai: có một số biệt dược khác nhau, dùng phổ biến hiện
nay là:
Furosemide 40mg ´ 1-4v/ngày, uống sáng dùng trong 3-5 ngày/trong một tuần;
hoặc lasix 20mg ´ 1-4 ống có thể tiêm bắp thịt hoặc tĩnh mạch.
Thuốc cũng gây giảm K+ máu nên cần bổ sung kali giống như dùng thuốc lợi tiểu
nhóm hypothiazid.
- Nhóm thuốc lợi tiểu không gây giảm K+ máu:
. Thuốc lợi tiểu đối kháng aldosterone: đại điện là spironolactone, aldactone 50mg,
100mg ´ 1-4v/ngày, có thể uống hàng ngày, hoặc kết hợp với thuốc lợi tiểu khác
cho đến khi đạt mục đích điều trị.
. Thuốc lợi tiểu giữ kali thuộc nhóm axit hữu cơ: triamterene 100mg ´ 2 lần/ngày,
hoặc amiloride 5-20mg/ngày.
Nhóm thuốc lợi tiểu không gây giảm K+ máu cần chú ý chống chỉ định đối với
những bệnh nhân có tăng K+ máu, đặc biệt là tăng K+ máu do suy thân cấp hoặc
mạn tính; cũng như thuốc lợi tiểu khác, liều sẽ tăng cao hơn nếu mức lọc cầu thân
giảm.
4. Thuốc giãn mạch:
Thuốc giãn mạch để điều trị suy tim được chia làm 3 loại:
+ Thuốc giãn động mạch và tiểu động mạch, với mục đích giảm áp lực hậu gánh,


gồm có:
Hydralazin, minoxidil, chẹn thụ cảm thể bêta giao cảm (propanolol) hoặc kết hợp
chẹn thụ cảm thể bêta giao cảm với chẹn thụ cảm thể alpha 1 giao cảm
(carvedilol).
+ Thuốc giãn tĩnh mạch và tiểu tĩnh mạch, với mục đích giảm áp lực tiền gánh,
gồm có:
Các thuốc thuộc nhóm nitrat và dẫn chất (mono-di-trinitrat): nitroglycerin, lenitral,
imdur,
+ Thuốc vừa có tác dụng giãn tĩnh mạch, vừa có tác dụng giãn động mạch (vừa
giảm áp lực tiền gánh, vừa giảm áp lực hậu gánh):
- Thuốc ức chế men chuyển dạng enzyme convertin: enalaprin, coversyl, captopril
(lopril)
Những thuốc này có thể dùng được từ suy tim độ 1 đến suy tim độ 4, nhưng có
một số chống chỉ định sau đây:
. Huyết áp thấp (chống chỉ định chung cho các thuốc dãn mạch).
. Hẹp khít lỗ van 2 lá, hẹp khít lỗ van động mạch chủ.
. Hẹp động mạch thân 2 bên.
. Hẹp eo động mạch chủ bẩm sinh.
. Giảm nặng phân số tống máu.
. Tăng kali máu.
. Không dung nạp thuốc, hoặc khi dùng thuốc có nhiều tác dụng không mong
muốn: ho, phù 2 chi dưới, dị ứng
5. Những phương pháp điều trị khác:
Được ứng dụng đối với suy tim khó hồi phục:
- Tạo nhịp tim đồng bộ nhĩ-thất: cấy máy tạo nhịp.
- Lọc máu chu kỳ.
- Ghép tim hoặc ghép đồng bộ tim-phổi.
Suy tim là hậu quả cuối cùng của các bệnh tim-mạch và một số bệnh khác, mặc dù
nhiều cơ chế bệnh sinh đã được sáng tỏ, phương pháp chẩn đoán và điều trị có
nhiều tiến bộ, nhưng cuối cùng vẫn kết thúc bằng tử vong. Do vậy, y học còn có

nhiều việc phải làm để nâng cao chất lượng sống và kéo dài tuổi thọ cho các bệnh
nhân suy tim.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×