Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Đánh giá tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế việt nam từ 1991-2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.75 KB, 80 trang )

GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN


CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP




ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1991-2005



GVHD : Trần Văn Hùng
SVTH : Khiếu Văn Công
Lớp : Kinh tế học – k29





TP. Hồ Chí Minh 5/2007

GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 2
LỜI MỞ ĐẦU


Tăng trưởng kinh tế là một trong những thước đo quan trọng nhất về thu
nhập và là điều kiện cần thiết để một quốc gia có thể đạt được sự phồn thịnh trong
tương lai. Bên cạnh mục tiêu tăng trưởng hàng năm, thì duy trì tốc độ tăng trưởng
cao trong dài hạn luôn là mục tiêu hàng đầu của chính sách phát triển kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng liên tục với tốc độ cao trong suốt
15 năm qua, nhờ đó Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế đã kéo dài nhiều
năm qua kể từ khi đất nước thống nhất, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
đã được cải thiện đáng kể, nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập với nền
kinh tế khu vực và toàn thế giới.
Cùng với chu kỳ lên xuống của kinh tế thế giới, trong 15 năm qua nền kinh
tế Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ khác nhau: tăng trưởng cao và liên tục (1991-
1995), tăng trưởng có chiều hướng giảm sút (1996-2000), và tăng trưởng phục hồi
(2001-2005). với tốc độ tăng trưởng như vậy Việt Nam vẫn là nước có tốc độ tăng
trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, đứng thứ hai Châu Á (sau Trung Quốc).
Những thành công trong tăng trưởng kinh tế đã góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng
cao mức sống người dân và cải thiện phúc lợi xã hội.
Trong 5 năm qua, nhìn trên mặt lượng, kinh tế Việt Nam dường như ngày
càng sáng sủa hơn, tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước, tuy nhiên
những dấu hiệu yếu kém, thậm chí giảm sút chất lượng kinh tế đang ngày càng rõ
rệt, với một xuất phát điểm thấp, nền kinh tế bị lạc hậu so với các nước trong khu
vực và thế giới thì sự phát triển của kinh tế Việt Nam vẫn còn dựa trên việc khai
thác các nguồn lực theo chiều rộng, hiệu quả súc cạnh tranh thấp, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế còn diễn ra châm chạp, mặt khác sự tăng trưởng kinh tế trong 15 năm
qua đã kéo theo sự gia tăng về bất bình đẳng xã hội, sự xuống cấp của môi trường
tự nhiên, và hậu quả là những tác động tiêu cực đang tác động trở lại quá trình tăng
trưởng kinh tế.

GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 3


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ
1.1: Khái niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.1.1: Khái niệm về tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế luôn là một trong những vấn đề mà tất cả các quốc gia
trên thế giới đều quan tâm, cùng với thời gian và sự phát triển kinh tế, thì việc
nghiên cứu và các quan niệm về vấn đề phát triển kinh tế ngày càng đi vào hệ
thống và hoàn thiện hơn.
Việc nhận thức đúng đắn về tăng trưởng kinh tế và sử dụng có hiệu quả
những kinh nghiệm về nghiên cứu, hoạch định chính sách tăng trưởng là hết sức
quan trọng đối với mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung.
Các nhà khoa học đều cho rằng tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu hàng
đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới và là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong
mỗi giai đoạn của một quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong khoảng
thời gian nhất định ( thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế còn thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác nhau, sự gia tăng thể hiện ở quy mô hay tốc độ tăng trưởng. Quy
mô tăng trưởng thể hiện hay phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ thì lại thể
hiện, phản ánh mang ý nghĩa so sánh tương đối nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
Ngoài ra tăng trưởng kinh tế còn được xem ở dưới góc độ số lượng và chất
lượng. Số lượng tăng trưởng thể hiện ở bên ngoài của sự tăng trưởng và thường
thông qua các chỉ tiêu đánh giá sự tăng trưởng kinh tế như: tổng thu nhập quốc nội
(GDP), thu nhập bình quân đầu người. Trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA)
thì các giá trị phản ánh sự tăng trưởng là: tổng giá trị sản suất (GO), tổng thu nhập
quốc dân (GNI) hoặc (GNDI), thu nhập quốc dân (NI)… trong đó GDP là chỉ tiêu
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 4
quan trọng và được chú ý nhiều nhất. Lượng tăng trưởng là thể hiện tốc độ tăng
trưởng của các chỉ tiêu nói trên.
Nếu các chỉ tiêu phản ánh trên cao thì có thể nói đó là biểu hiện tốt về mặt

lượng của tăng trưởng kinh tế.
1.1.2: Khái niện về phát triển kinh tế.
Các quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển kinh tế của mình. Phát triển
kinh tế được coi là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế, cả về mặt chất và
lượng, và là sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa hai vấn đề kinh tế và xã hội của một
quốc gia. Phát triển kinh tế là quá trình phát triển lâu dài và quyết định bởi các
nhân tố nội tại trong nền kinh tế. Nội dung của phát triển kinh tế được phát triển
theo 3 tiêu thức:
Phát triển kinh tế là phản ánh nền kinh tế có sự gia tăng về thu nhập và mức
thu nhập bình quân trên đầu người cùng gia tăng, đây là tiêu thức thể hiện sự biến
đổi về lượng của một nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất
của một quốc gia và thực hiện các mục tiêu phát triển khác.
Phát triển kinh tế là sự biến đổi theo đúng cơ cấu kinh tế mà quốc gia đang
theo đuổi, đây chính là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế của
quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn phát triển hay so sánh trình độ phát triển kinh
tế giữa các nước với nhau người ta thường dựa vào cơ cấu kinh tế ngành mà các
quốc gia đạt được.
Phát triển kinh tế chính là quan tâm đến các vấn đề xã hội, mục tiêu cuối
cùng của phát triển kinh tế là việc xóa đói, giảm nghèo, hạn chế suy dinh dưỡng,
nâng cao tuổi thọ bình quân đầu người. Khả năng tiếp can các dịch vụ y tế, nước
sạch, trình độ dân trí, giáo dục… đạt được các mục tiêu trên là sự thay đổi về chất
xã hội của phát triển kinh tế.
Ngày nay các nước trên thế giới không chỉ quan tâm đến vấn đề phát triển
kinh tế mà là quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế bền vững. Quan niệm này lần
đầu tiên được ngân hàng thế giới (WB) đề cập đến vào năm 1987:” …Sự phát triển
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 5
đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai”. Đây là quan niệm nhấn mạnh chủ yếu vào khía cạnh sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo môi trường sống của con

người trong quá trình phát triển.
Ngày nay quan niệm về phát triển bền vững được đề cập đến một cách có hệ
thống và đầy đủ hơn, bên cạnh các yếu tố về môi trường, tài nguyên thiên nhiên, thì
yếu tố về môi trường xã hội cũng được đặt ra mang ý nghĩa không kém phần quan
trọng. Tại hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững đã xác định: phát
triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý giữa 3
mặt của sự phát triển gồm: tăng trưởng kinh tê, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo
vệ môi trường.
Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm về phát triển bền vững
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước đến năm 2020 “ phát triển
nhanh, hiệu quả, và bền vững”. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường “ gắn sự phát triển kinh tế với giữ vững ổn
định chính trị, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng.
1.1.3: các chỉ tiêu đo lượng tăng trưởng kinh tế:
Theo mô hình kinh tế thị trường thước đo sự tăng trưởng kinh tế được xác
định theo các chỉ tiêu của hệ thống tài sản quốc gia (SNA).
1.1 3.1: Tổng giá trị sản xuất (GO)
Tổng giá trị sản xuất là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ trên phạm
vi lãnh thổ của một quốc gia trong thời kỳ nhất định. Tổng giá trị sản xuất được
tính theo hai cách: thứ nhất là tổng doanh thu bán hàng thu được là các đơn vị, các
ngành trong toàn bộ nền kinh tế, thứ hai là tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm
chi phí trung gian và giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ.
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 6
1.1.3.2: tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) gồm tổng các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia và trong thời gian nhất
định (thông thường là 1 năm).
Có 3 cách tính GDP là từ sản xuất, tiêu dùng và phân phối.
 từ sản xuất:

GDP là giá trị gia tăng tính cho toàn bộ nền kinh tế, và được đo bằng tổng
giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị sản xuất thường trú trong nền kinh tế.
GDP = VA = Ĩ VA
i
(i=1;n)
Trong đó : VA là giá trị gia tăng của nền kinh tế.
VA
i
là giá trị gia tăng của ngành i.
VA
i
= GO
i
– IC
i

Trong đó: GO
i
tổng giá trị sản xuất ngành i
IC
i
chi phí trung gian ngành i
 Từ tiêu dùng:
GDP là tổng chi tiêu cuối cùng của hộ gia đình (C), chi tiêu của chính phủ
(G), đầu tư tích lũy tài sản (I), và xuất nhập khẩu ròng. NX=X - M
GDP = C + G + I + X - M
 Tiếp cận từ thu nhập (phân phối)
: GDP được xác định trên cơ sở sự hình thành thu nhập của người lao động
(trên long (W)), thu nhập từ việc cho thuê thuế kinh doanh T
i

, và cuối cùng là lợi
tức (Pr).
GDP = W + R + I
n
+ P
r
+ P
p
+ T
i

1.1.3.3: Tổng thu nhập quốc dân (GNI).
Tổng thu nhập quốc dân GNI thay cho GNP, về mặt ý nghĩa là như nhau,
song nếu sử dụng GNI là muốn nói đến cách tiếp cận từ thu nhập còn GNP nói theo
góc độ sản phẩm sản xuất.
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 7
GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân
của một nước tạo ra trong khoảng thời gian nhất định.
GNI bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân phối lại thu nhập lần
đầu, có tính đến các khoản nhận từ nước ngoài về và chuyển ra nước ngoài. Như
vậy, GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và được điều chỉnh theo
con số chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
GNI = GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
1. 1. 3. 4: thu nhập quốc dân (NI) National Income.
Là phần giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ mới sáng tạo ra trong khoảng
thời gian nhất định. NI chính là tổng thu nhấp quốc dân loại bỏ đi khấu hao vốn cố
định của nền kinh tế.
NI = GNI – Pp
1.1.3.5: Thu nhập quốc dân sử dụng: NDI (national disposable Income)

Là thu nhập của quốc gia mà để chi tiêu, tiêu dùng cuối cùng và tích lũy
thuần trong một thời gian nhất định.
Thực chất NDI là thu nhập quốc dân (NI) sau khi đã điều chỉnh các khoản
thu, chi về chuyển nhượng hiện hành giữa các đơn vị thường trú và không thường
trú, song xét trong toàn bộ nền kinh tế thì hai yếu tố này triệt tiêu lẫn nhau. Vì vậy
NDI là NI. Sau khi điều chỉnh các khoản chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài.
NDI = NI + chênh lệch về chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài(A)
A = Thu chuyển nhượng hiện _ chi chuyển nhượng hiện
hành từ nước ngoài hành ra nước ngoài
1. 1. 4 . Các chi tiêu đánh giá sự phát triển kinh tế.
Để phản ánh sự phát triển kinh tế người ta thường một số chỉ tiêu chính:
1.1.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế: đó là các chỉ số thu
nhập và thu nhập bình quân trên đầu người, như trình bày ở phần tăng trưởng kinh
tế.
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 8
1.1.4.2 Các chỉ tiêu phản ánh sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế có nghĩa là chỉ ra mối tương quan giữa các bộ phận trong nền
kinh tế, chỉ ra mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất
lượng giữa các bộ phận với nhau. Các chỉ số về cơ cấu kinh tế bao gồm:
 Chỉ số cơ cấu dưới góc độ ngành:
Chỉ số cơ cấu ngành phản ánh tỷ lệ giữa các ngành như nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ trong GDP. Tỷ lệ giữa công nghiệp và dịch vụ trong GDP càng cao
thì thể hiện nền kinh tế ngày càng phát triển.
 Chỉ số cơ cấu dưới góc độ lãnh thổ:
Cơ cấu kinh tế được nhìn nhận theo sự phân bố trí lực giữa các vùng, quá
trình chuyển dịch cơ cấu vùng cần bảo đảm sự phát triển can đối, hái hòa giữa các
vùng để bảo đảm tính bền vững trong quá trình phát triển.
 Chỉ số cơ cấu dưới góc độ sở hữu:
Là muốn nói đến có bao nhiêu loại hình kinh tế tồn tại và phát triển trong hệ

thống kinh tế, xem xét loại hình nào có tính chất quan trọng trong nền kinh tế ….
1.1. 4.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế bao gồm:
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động-năng suất lao động. Các chỉ
tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn-hệ số ICOR. Tốc độ tăng TFP và tỷ trọng đóng
góp của tăng trưởng TFP. Chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa gía trị sản xuất(GO)
và giá trị gia tăng (VA) – tỷ lệ chi phí trung gian (IC) trong sản xuất
1.1.4.4. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Bao gồm :khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước,
khả năh cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nươc, và năng lực cạnh tranh của
cả nền kinh tế nói chung.
1.1.4.5. Các chỉ tiêu phản ánh liên quan đến môi trường và xã hội:
Bao gồm các vấn đề như là:giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, tiến bộ
và công bằng xã hội, chất lượng môi trường, tài nguyên thiên nhiên…
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 9
1.2: Sơ lược các mô hình tăng trưởng kinh tế.
1.2.1: Các mô hình cổ điển về tăng trưởng kinh tế.
Adam Smith (1723 – 1790) được coi là người sáng lập ra kinh tế học với
việc xuất bản cuốn “của cải các nước”, “ đây là tác phẩm đầu tiên trình bày một
cách đầy đủ và có hệ thống nhất về kinh tế học. Nội dung của cuốn sách gồm 3
phần cơ bản:
Học thuyết về” giá trị lao động” Ông cho rằng chính lao động chứ không
phải đất đai, tiền bạc là nguồn gốc cơ bản để tạo ra của cải của đất nước.
Học thuyết “bàn tay vô hình” Ông cho rằng tự chính bản thân người lao động
sẽ hiểu rõ nhất cái gì có lợi cho họ, và một khi không bị chính phủ kiểm soát, chi
phối thì người lao động sẽ được lợi nhuận thúc nay họ sản xuất hàng hóa và dịch vụ
cần thiết thông qua thị trường tự do mà lợi ích cá nhân gắn liền với lợi ích xã hội.
Ong cho rằng “mọi cá nhân không có ý định thúc đẩy lợi ích công cộng, mà chỉ
nhằm vào mục đích riêng của mình. Và ở đây cũng như nhiều trường hợp khác,

người đó được bàn tay vô hình dẫn dắt để phục vụ mục đích không nằm trong ý
định của mình. Và ông đánh giá vai trò của chính phủ như sau “ Bạn nghĩ rằng bạn
đang giúp cho hệ thống kinh tế bằng những quản lý đầy ý định tốt đẹp và bằng
những hành động can thiệp của mình. Không xảy phải như vậy đâu hãy để mặc,
hãy để mọi sự việc ra, đừng nhúng tay vào. Dầu nhờn của lợi ích cá nhân sẽ làm
cho các bánh xe kinh tế hoạt động một cách gần như kỳ diệu, không ai cần kế
hoạch, không ai cần quy tắc, thị trường sẽ giải quyết tất cả”.
Ông cũng đưa ra lý thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc “Ai có gì
được nấy” tư bản có vốn thì được lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì được địa tô, công
nhân thì được tiền công. Ông cho rằng nguyên tắc phân phối này là công bằng, hợp
lý.
Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra kinh tế học thì David
Riacordo (1772-1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Ông thừa kế tư
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 10
tưởng của Adam Smith và một số nhà kinh tế cổ điển khác đã cho ra đời trường
phái kinh tế cổ điển.
Ông cho rằng nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, vì vậy ông nói
rằng các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn.
Trong từng ngành riêng biệt thì tỷ lệ này là khác nhau giữa các ngành và nó là một
tỷ lệ cố định. Vì vậy, theo quan điểm của ông thì đường đẳng lượng có hình chữ
“L”.
Hình 1: Đường đồng sản lượng có dạng chữ L












Trong ba yếu tố trên thì ông cho rằng đất đai là yếu tố quan trọng nhất và nó
cũng là giới hạn của tăng trưởng kinh tế. Vì ông lập luận rằng: “ tăng trưởng là kết
quả của tích lũy, tích lũy là hàm của lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí sản
xuất long thực, chi phí này lại phụ thuộc vào đất đai. Do đó đất đai là giới hạn của
tăng trưởng”.
Hình 2:Đường tăng trưởng của Ricardo:
đất đai là giới hạn của tăng trưởng


K
K
b
K
a
L
a
L
b
L

R
R
o
Y

GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 11






Tương ứng với các yếu tố tăng trưởng RiCardo chia xã hội thành ba nhóm
người: địa chủ, tư bản và công nhân. Sự phân phối thu nhập các nhóm người này
phụ thuộc vào quyền sở hữu các yếu tố sản xuất, địa chủ thì được địa tô, công nhân
thì nhận tiền công, tư sản thì nhận được lợi nhuận. Do đó thu nhập của xã hội =tiền
công + lợi nhuận + địa tô.
Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng thị trường với sự linh hoạt của giá cả và
tiền công có khả năng tự điều chỉnh những mất cân đối của nền kinh tế và xác lập
nên những cân đối mới.
1. 2. 2: Mô hình của K Marx về tăng trưởng kinh tế.
a> Các yếu tố tăng trưởng kinh tế.
Theo Marx các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai, lao động,
vốn và tiến bộ kỹ thuật. Marx đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc
sản xuất giá trị thặng dư. Marx xem sức lao động đối với các nhà tư bản là một loại
hàng hóa đặc biệt, giống như mọi hàng hóa khác. Nó được các nhà tư bản mua trên
thị trường và tiêu thụ trong quá trình sản xuất. Nhưng hàng hóa sức lao động khác
với hàng hóa khác là nó có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, giá trị đó
bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Về yếu tố kỹ thuật, Marx phân tích: Mục đích của nhà tư bản là giá trị thặng
dư, họ tìm mọi cách để tăng thời gian làm việc của công nhân, giảm tiền lương hay
nâng cao năng suất lao động bằng cải tiến kỹ thuật. Do hai phương pháp trên đều
có giới hạn nên nhà tư bản chủ yếu dựa vào cải tiến kỹ thuật.
b> Sự phân chia giai cấp trong xã hội.
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 12
Cũng như Ricardo và các nhà kinh tế cổ điển, Marx chia xã hội ra làm ba
nhóm người: địa chủ, nhà tư bản, công nhân và hưởng ứng với thu nhập của ba
nhóm người này là đại tô, lợi nhuận và tiền công. Nhưng Marx cho rằng sự phân
phối này là không hợp lý mà ông cho rằng sự phân phối này mang tính chất bóc lột.
Do vậy Marx chia ba nhóm người này thành hai giai cấp là giai cấp bóc lột và giai
cấp bị bóc lột.
c> Các chi tiêu phản ánh tăng trưởng.
Marx chia hoạt động của xã hội ra làm hai lĩnh vực: Lĩnh vực sản xuất vật
chất và lĩnh vực phi sản xuất vật chất. Và Marx nói rằng chỉ có lĩnh vực sản xuất
vật chất mới tạo ra sản phẩm xã hội. Ngoài ra dựa vào thuộc tính hai mặt của lao
động Marx chia sản phẩm xã hội thành hai hình thái: hiện vật và giá trị.
Theo Marx thì lao động cụ thể thì tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa, lao động
trìu tượng là lao động tạo ra giá trị của hàng hóa. Marx nói: lao động cụ thể giữ
nguyên giá trị tư liệu sản xuất được sử dụng và chuyển vào giá trị hàng hóa mới
được sáng tạo ra (C) và lao động trìu tượng tạo ra giá trị mới (V+m). Về mặt hiện vật,
Marx chia thành hai bộ phận dựa vào công cụ của sản phẩm là: những sản phẩm
được sản xuất ra trong một giai đoạn sản xuất, rồi lại tiếp tục đi vào giai đoạn sản
xuất khác, được gọi là tư liệu sản xuất. Những sản phẩm sản xuất ra để trực tiếp phục
vụ đời sống con người gọi là tư liệu tiêu dùng.
Dựa vào sự phân chia như vậy Marx đưa ra khái niệm tổng sản phẩm XH và
thu nhập quốc dân để đánh giá hoạt động của nền kinh tế. Tổng sản phẩm xã hội là
toàn bộ sản phẩm được sản xuất ra trong một thời gian nhất định bao gồm tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng (về mặt hiện vật). Về mặt giá trị bao gồm: tư bản bất
biến, tư bản khả biến và giá trị thặng dư (C+V+m). Thu nhập quốc dân là phần còn
lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi đã trừ đi các chi phí trong sản xuất và toàn bộ
tư liệu tiêu dùng. Về mặt giá trị bao gồm: tư bản khả biến và giá trị thặng dư (V+m)
tức là tiền công, lợi nhuận và địa tô.
d> chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế.
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 13
Marx bác bỏ lý thuyết cổ điển về “cung tạo nên cầu” theo Marx nguyên tắc
cơ bản của sự vận động tiền và hàng trên thị trường là phải bảo đảm sự thống nhất
giữa giá trị và hiện vật, lưu thông hàng hóa phải bảo đảm sự phù hợp giữa khối
lượng hàng hóa mua và bán. Nếu khối lượng hàng hóa cần bán và sức mua không
phù hợp thì thường dẫn đến sự khủng hoảng, Marx cho rằng ở đây là khủng hoảng
thừa vì do thiếu số cầu tiêu thụ, do sự tích lũy cơ bản làm gia tăng số người vô sản,
tạo ra nhân khẩu thừa tương đối và làm giảm tiền công của công nhân xuống tới
mức đủ sống. Trong khi đó mức tiêu thụ của nhà tư bản cũng bị giới hạn bởi khát
vọng tích lũy tư bản. Theo Marx, khủng hoảng là một giải pháp nhằm khôi phục
thế thăng bằng đã bị rối loạn. Sau khủng hoảng nền kinh tế trở nên tiêu điều, để
thoát khỏi tình trạng này các nhà tư bản phải tiến hành đổi mới trên một quy mô
lớn để cho nền kinh tế được phục hồi, hưng thịnh và phát triển kinh tế đi vào chu
kỳ. Và vì vậy để giúp các nhà tư bản phục hồi nhanh chóng thì chính sách kinh tế
của nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặc biệt là chính sách kích cầu.
1.2.3: Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế.
Hàm sản xuất cobb – donglas.
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng
trưởng kinh tế thông qua các hàm sản xuất. Các hàm số này nêu nên mối quan hệ
giữa sự tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động,
tài nguyên và khoa học công nghệ.
Y = f(K, L, R, T)
Trong đó Y : đầu ra (GDP)
K : vốn sản xuất
L : lao động
R : nguồn tài nguyên
T : khoa học – công nghệ
Ta có thể phân tích theo hàm có dạng sau.
Y = T . K


. L

. R

GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 14
g = t + k + l + r
Trong đó: g: tốc độ tăng trưởng của GDP
k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t: phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học – công nghệ
1.1.2.4:lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại
Kinh tế học hiện đại quan niệm về sự cân bằng kinh tế dựa theo mô hình của
Keynes, nghĩa là sự cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết phải ở mức sản
lượng tiềm năng, mà thường ở dưới mức sản lượng tiềm năng. Trong điều kiện hoạt
động bình thường nền kinh tế vẫn có thất nghiệp và lạm phát. Sư cân bằng của nền
kinh tế được xác định tại giao điểm của tổng cung và tổng cầu. Tổng cung (AS) là
khối lượng hàng hóa mà các ngành kinh doanh sẽ sản xuất và bán ra trong điều
kiện gía cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất đã được xác định. Tổng cầu (AD)
là khối lượng hàng hóa mà người tiêu dùng, các doanh nghiệp và chính phủ sẽ sử
dụng trong điều kiện giá cả, mức thu nhập đã được xác định.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cũng thống nhất với cách xác định của
mô hình kinh tế tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất. Họ cho rằng mức
cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là lao
động, vốn sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và khao học công nghệ Y=(K, L, R, T)
và họ cung thồng nhất với cách phân tích của Cobb-Douglas về sự tác động của các
yếu tố đến tăng trưởng:
Y = T . K

. L


. R

g = t + k + l + r
Trong đó: g: tốc độ tăng trưởng của GDP
k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t: phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học – công nghệ
Samuelson gọi những yếu tố này là nguồn gốc của sự tăng trưởng. Ông cho
rằng một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện đại là “kỹ thuật công
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 15
nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó vốn là cơ sở để phát
huy tác dụng của các yếu tố khác, vốn là cơ sở để tạo ra việc làm để co công nghệ
tiên tiến. Vì vây, trong tính toán kinh tế ngày nay, hệ số ICOR vẫn được coi là cơ
sở để xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
t t n
I K
k
Y Y

 

 
trong đó :k –hệ số ICOR (tỷ số gia tăng vốn và đầu tư)
s-tỷ lệ tiết kiệm
g- tốc độ tăng trưởng
Samuelson cũng đề cập đến các yếu tố tác động đến tổng mức cầu như cách
đề cập của Keynes:
Y=f(C, G, I, NX)
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cho rằng thị trường là yếu tố cơ bản
điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng cung và tổng cầu

tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm, tỷ lệ thất nghiệp, mức giá, tỷ lệ lạm
phát, đó chính là cơ sở để giải quyết ba vấn đề cơ bản của kinh tế học.
Theo Samuelson, trong nền kinh tế hỗn hợp hiện đại, chính phủ có bốn chức
năng cơ bản: thiết lập khuôn khổ pháp luật, xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ
mô, tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế, thiết lập các
chương trình tác động với việc phân phối thu nhập. Theo ông chính phủ cần tạo ra
môi trường ổn định để các doanh nghiệp và các hộ gia đình có thể tiến hành sản
xuất và trao đổi hàng hóa một cách thuận lợi, chính phủ cần đưa ra những định
hướng cơ bản về phát triển kinh tế và những hướng ưu tiên cần thiết cho từng thời
kỳ và sử dụng các công cụ như thuế quan chương trình tín dụng, trợ giá để hướng
dẫn các ngành, các doanh nghiệp hoạt động. Chính phủ phải thường xuyên duy trì
công ăn việc làm luôn ở mức cao bằng cách đưa ra các chính sách thuế, chi tiêu và
tiền tệ hợp lý, mặt khác chính phủ phải khuyến khích một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
vững chắc chông lạm phát và giảm ô nhiễm môi trường, cần thực hiện phân phối lại
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 16
thu nhập giữa các doanh nghiệp và các hộ gia đình thông qua thuế thu nhập, thuế
tài sản và các biện pháp khác. Chính phủ cũng thực hiện các hoạt đọng phúc lợi
công cộng như cung cấp phúc lợi cho người già, người tàn taath và những người
thất nghiệp.
1.3: Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế chịu tác động của nhiều nhân tố, song chủ yếu ta chia ra
làm hai nhóm có tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế là: nhân tố kinh tế và nhân tố
phi kinh tế
1.3.1: Nhân tố kinh tế.
Các nhân tố kinh tế tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, bao gồm các
nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung và các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng
cầu:
1.3.1.1: Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung:
Các yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến tổng cung của nền kinh tế bao

gồm 4 yếu tố cơ bản là: vốn (V), lao động (L), tài nguyên- đất đai (R) và công nghệ
kỹ thuật (T) theo hàm sản xuất:
Y = F (K, L, R, T)
- Vốn (K): Đây là yếu tố vật chất ban đầu quan trọng và có tác động trực tiếp
đến tăng trưởng kinh tế, đứng trên góc độ vĩ mô thì vốn ở đây có liên quan trực tiếp
đến tăng trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ không phải dưới
dạng tiền (giá trị), nó bao gồm toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền
kinh tế bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng…và các trang thiết bị
được sử dụng như những yếu tố đầu vào trong sản xuất.
- Lao động (L): Đây là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất, trước
đây người ta chỉ quan niệm rằng lao động chỉ là một yếu tố đầu vào giống như vốn
và được xác định bằng số lượng lao động của mỗi quốc gia (tính bằng đầu người
hay thời gian lao động). Tuy nhiên những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 17
đây đã chỉ ra các khía cạnh phi vật chất của lao động là vốn con người, lao động có
kỹ năng, lao động có thể vận hành máy móc trang thiết bị phức tạp, lao động có
sáng tạo và những phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Hiện nay kinh tế các
nước đang phát triển được đóng góp bởi quy mô lao động, còn yếu tố con người
chiếm vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng nguồn nhân lực hạn chế.
- Tài nguyên, đất đai (R): Đây là yếu tố quan trọng trong việc sản xuất nông
nghiệp và là yếu tố không thể thiếu trong việc bố trí các cơ sở kinh tế thuộc các
ngành công nghiệp, dịch vụ. Tài nguyên thiên nhiên được chia làm: tài nguyên vô
hạn và không thể thay thế, tài nguyên có thể tái tạo và tài nguyên không thể tái tạo.
Các nguồn tài nguyên dồi dào và phong phú được khai thác nhằm tạo điều kiện
tăng sản lượng đầu ra đối với các nước đang phát triển. Các tài nguyên được đánh
giá về mặt kinh tế và được tính giá trị như các đầu vào khác trong quá trình sử dụng.
Ngày nay người ta tìm cách thay thế để khắc phục mức độ khan hiếm các tài
nguyên, đất đai trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy tài nguyên thiên nhiên
và đất đai vẫn là yếu tố không thể thiếu của quá trình sản xuất nhất là các nước

đang phát triển.
-Công nghệ – kỹ thuật (T): Sự tiến bộ kỹ thuật, côn nghệ là nhân tố tác động
ngày càng mạnh đến sự tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế ngày nay. Yếu tố
công nghệ-kỹ thuật cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng:
Thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức, có nghĩa là phải nắm bắt được
những kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải
tiến sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật.
Thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực
tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất, Marx nói rằng yếu tố công
nghệ được coi là: “chiếc đũa thần tăng thêm sự giàu có của cải xã hội”, Solow thì
cho rằng “ tất cả các tăng trưởng bình quân đầu người trong dài hạn đều thu được
nhờ tiến bộ kỹ thuật”.
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 18
1.3.1.2: Các nhân tố tác động đến tổng cầu:
Các yếu tố liên quan trực tiếp đến đầu ra của nền kinh tế chính là khả năng
chi tiêu, sức mua và năng lực, tức là tổng cầu (AD) của nền kinh tế. Bốn yếu tố trực
tiếp cấu thành tổng cầu bao gồm:
Chi cho tiêu dùng cá nhân (C): bao gồm các khoản chi cố định, chi thường
xuyên và các khoản chi tiêu khác. Chi tiêu cá nhân phụ thuộc vào thu nhập khả
dụng (DI) và khuynh hướng tiêu dùng biên (MPC).
Chi tiêu chính phủ (G): bao gồm chi mua hàng hóa và dịch vụ của chính phủ,
chi tiêu của chính phủ phụ thuộc vào thu ngân sách bao gồm chủ yếu là thuế và lệ
phí.
Chi tiêu đầu tư (I): Đây thực chất là các khoản chi tiêu cho các nhu cầu đầu
tư của doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư
vốn lưu động. Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết kiệm từ các khu vực
của nền kinh tế, trong đó đầu tư khôi phục tức là đầu tư bồi đắp giá trị hao mòn
được lấy từ quỹ khấu hao, còn đầu tư thuần túy được lấy từ các khoản tiết kiệm của
khu vực nhà nước, các hộ gia đình và doanh nghiệp.

Chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khẩu: (NX =X – M) giá trị xuất khẩu là
các khoản phải chi tiêu cho các yếu tố nguồn lực trong nước, còn giá trị nhập khẩu
là giá trị của các loại hàng hóa sử dụng trong nước nhưng lại không phải bỏ ra các
khoản chi phí cho các yếu tố nguồn lực trong nước nên chênh lệch kim ngạch xuất
và nhập khẩu (NX) chính là khoản chi phí ròng phải bỏ ra cho quan hệ thương mại
quốc tế.
Dưới sự tác động của thị trường các yếu tố của tổng cầu thường xuyên biến
đổi, nếu tổng cầu bị giảm sút sẽ giây ra lãng phí rất lớn các yếu tố nguồn lực, còn
ngược lại nếu tổng cầu quá caosẽ làm cho mức thu nhập của nền kinh tế tăng nhưng
giá cả các yếu tố nguồn lực trở nên đắt đỏ sẽ đẩy mức giá chung của nền kinh tế lên.
Và chính phủ căn cứ vào tính chất này để có các chính sách điều tiết tổng cầu sao
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 19
cho bảo đảm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế tương ứng với yêu cầu ổn
định giá.
1.3.2: Nhân tố phi kinh tế.
Khác với các nhân tố kinh tế, các nhân tố phi kinh tế như, văn hóa – xã hội,
chính trị, thể chế, dân tộc, tôn giáo… có tác động gián tiếp tăng trưởng kinh tế và
không thể lượng hóa cụ thể được ở mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế.
Các nhân tố phi kinh tế không tác động một cách riêng lẻ, mà mang tính chất tổng
hợp, đan xen…, tạo nên tính chất đồng thuận hay không đồng thuận trong quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tê.
1.3.2.1: Văn hóa – xã hội:
Đây là nhân tố quan trọng có tác động nhiều đến quá trình phát triển kinh tế
đất nước, văn hóa – xã hội bao trùm nhiều mặt từ kiến thức phổ thông đến những
tích lũy tinh hoa của văn minh nhân loại về khoa học, công nghệ, lối sống, phong
tục, tập quán. Trình độ văn hóa cac đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và kinh tế
quốc gia phát triển. Trình độ văn hóa của mỗi dân tộc là nhân tố để tạo nên chất
lượng lao động, kỹ thuật, trình độ quản lý.
1. 3. 2. 2: Thể chế chính trị – kinh tế – xã hội.

Thể chế chính trị – kinh tế – xã hội được thừa nhận tác động đến quá trình
phát triển kinh tế, theo khía cạnh tạo dựng hành lang phát ly và môi trường xã hội
cho các nhà đầu tư.
Thể chế được thực hiện như một sự ràng buộc, một lực lượng đại diện cho ý
chí cộng đồng, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ về kinh tế, chính trị để phục vụ
lợi ích chung cộng đồng
Một thể chế – chính trị – xã hội ổn định và mền dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi
mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế tạo
ra tốc độ và phát triển nhanh chóng. Ngược lại một thể chế không phù hợp sẽ gây
ra cản trở, mất ổn định, đôi khi sẽ làm phá vỡ những quan hệ xã hội cơ bản làm cho
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 20
nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng hoặc gây ra các xung đột
chính trị, xã hội.
Nền tảng của nền kinh tế thị trường là dựa trên trao đổi giữa các cá nhân và
các nhóm người với nhau, vì vậy nếu không có thể chế thì các hoạt động này không
thể diễn ra bởi vì người này không thể tương tác với người kia mà không có chế tài
nào đó ngăn cản người kia hành động tùy tiện và ngược lại với thỏa thuận.
Một thể chế phù hợp với sự phát triển hiện đại mang trong minh những đặc
trưng: có tính năng động, nhập cảm và mean dẻo, luôn thích nghi được với những
biến đổi phức tạp do tình hình trong nước và quốc tế xảy ra. Bảo đảm sự ổn định
của đất nước, khắc phục được những mâu thuẫn xung đột có thể xảy ra trong quá
trình phát triển, tạo điều kiện cho nền kinh tế mở một sự hoạt động có hiệu quả,
nhằm tranh thủ vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của thế giới, tạo được đội ngũ
người lao động có năng lực quản lý, có trình độkhoa học kỹ thuật tiên tiến đủ sức
lựa chọn và áp dụng thành công các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào trong sản
xuất trong nước cũng như đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tạo được sức mạnh kích
thích mọi nguồn lực trong nước hướng vào đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu.
Tuy vậy, chúng ta cần lưu ý rằng dù là quan trọng nhưng yếu tố thể chế-kinh
tế-chính trị cũng chỉ tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sẽ là sai lầm nếu

dùng thể chế thay đổi tất cả.
1.3.2.3: Vấn đề dân tộc – tôn giáo và cộng đồng.
Trong một quốc gia có các dân tộc khác nhau, các tôn giáo khác nhau cùng
sống chung với nhau, quốc gia nào càng đa dạng về thành phần dân tộc và tôn giáo
thì quốc gia đó càng tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, bạo loạn chính trị, kinh tế, xung đột
dân tộc, tôn giáo. Những xung đột này có thể dẫn đến các xung đột về bạo lực, nội
chiến… dẫn đến tình trạng lãng phí các nguồn tài nguyên, nguồn lực con người và
kìm hãm sự thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Sự phát triển tổng thể của nền kinh tế có thể đem đến những lợi ích cho dân
tộc, tôn giáo này. Song, lại bất lợi cho những dân tộc và tôn giáo khác, điều này sẽ
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 21
dẫn đến nảy sinh xung đột giữa các dân tộc, tôn giáo với nhau. Do đó, ta phải lấy
tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, tôn giáo và đồng thời phải
bảo tồn bản sắc riêng của mỗi dân tộc…điều này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ngoài ra sự tham gia của cộng đồng cũng là yếu tố hết sức quan trọng, dân
chủ và phát triển là hai vấn đề có tác động tương hỗ lẫn nhau. Sự phát triển là điều
kiện làm tăng thêm năng lực thực hiện quyền dân chủ của cộng đồng. Ngược lại sự
tham gia của cộng đồng là nhân tố bảo đảm tính chất bền vững và nâng cao động
lực nội tại cho phát triển kinh tế, xã hội.
1.3.2.4: Vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế.
Đã có nhiều trường phái đánh giá, xem xét vai trò của nhà nước đối với nền
kinh tế, theo trường phái cổ điển và tân cố điển thì vai trò của nhà nước đối với nền
kinh tế là rất mờ nhạt, theo trường phái của Keynes (1936) thì lại cho rằng nhà
nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Ngày nay nhà nước là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế, nhà nước và khuôn khổ pháp lý không chỉ là yếu tố đầu vào mà còn là yếu
tố đầu ra trong quá trình sản xuất, cơ chế chính sách của nhà nước có sức mạnh
kinh tế thực sự, bởi chính sách đúng có thể sinh ra vốn, tạo thêm nguồn lực cho

tăng trưởng kinh tế và ngược lại, chính sách sai lầm cộng với sự quản lý yếu kém…
sẽ gây ra tổn hại cho nền kinh tế, kìm hãm sự phát triển.
Như vậy, ta có thể thấy rằng năng lực của bộ máy nhà nước có ảnh hưởng
mang tính quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Điều
này thể hiện ở sự quản lý hiệu quả qua các chỉ tiêu ổn định vĩ mô, ổn định chính trị,
xây dựng thể chế và hiệu lực của hệ thống luật pháp. Cơ chế chính sách minh bạch,
rõ ràng, tăng trưởng kinh tế duy trì liên tục, bền vững, bộ máy nhà nước ít quan liêu,
tham nhũng và tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của công
dân.

GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 22






CHƯƠNG II: TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 1991-2005.
2.1: Đánh giá về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1991-2005.
2.1.1: Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1991-2005.
2.1.1.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là vấn đè hết sức quan trọng đối với Việt Nam, từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ sản xuất còn yếu kém thì tăng trưởng kinh tế
nhanh là điều kiện để đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế, kém phát
triển, mà còn là tiêu đề cho chúng ta xây dựng mục tiêu kinh tế xã hội như chống
lạm phát, giảm thất nghiệp, cải thiện cán can thanh toán, tăng thu ngân sách, phát
triển giáo dục, y tế, văn hóa, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của nhân dân
cả về vật chất và tinh thần.

Trong giai đoạn 1991-2005 những thành tựu và tăng trưởng kinh tế mà
chúng ta đạt được là rất đáng mừng, so với thời kỳ 1976-1985 tốc độ chỉ đạt
khoảng 2, 0%/năm, giai đoạn 1986-1990 đạt xấp xỉ 3, 9%/năm thì giai đoạn 1991-
2005 chúng ta đạt được 6, 7%/năm trong đó giai đoạn 1991-1995 là 8, 2%/năm;
1996-2000 đạt 6, 7% và 2001-2005 là 7, 5%. Đây là tốc độ tăng trưởng cao so với
các nước trong khu vực và trên thế giới, với tốc độ tăng trưởng cao như vậy chúng
ta chỉ đứng sau Trung Quốc.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam 1991-2005
Đơn vị tính:%
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 23
năm Tốc độ
tăng
trưởng
kinh tế
năm Tốc độ
tăng
trưởng
kinh tế
năm Tốc độ
tăng
trưởng
kinh tế
1991 5. 81 1996 9. 34 2001 6. 89
1992 8. 70 1997 8. 15 2002 7. 08
1993 8. 08 1998 5. 76 2003 7. 34
1994 8. 83 1999 4. 77 2004 7. 79
1995 9. 54 2000 6. 79 2005 8. 43
TB thời
kỳ

8. 2 TB thời kỳ 7. 0 TB thời kỳ 7. 5
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 3:Tốc độ tăng trửơng kinh tế Việt Nam, 1991-2005

0
2
4
6
8
10
12
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005


Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn qua đồ thị ta thấy rằng từ năm 1991 đến nay nền kinh tế trải qua ba thời
kỳ khác nhau :
Giai đoạn 1991-1995:
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 24
Đây là giai đoạn mà kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, khu
vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển nhanh và mạnh mẽ, đóng góp lớn vào tăng
trưởng kinh tế, đạt đỉnh cao vào năm 1995(9, 54%). Sự tăng trưởng nhanh trong
giai đoạn này là do tác động của nhiều cải cách lớn: ban hành và sửa chữa những
bộ luật liên quan đến ngân sách nhà nước, doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc
doanh, tín dụng và ngân hàng, khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài, mở
rộng các quan hệ thương mại và tài chính với cộng đồng quốc tế thông qua các
cuộc đàm phán và tự do hóa cao hơn. Ngoài ra chính nguồn vốn ODA đã giúp Việt
Nam điều chỉnh những cơ cấu quan trọng. Tóm lại: trong những năm đầu của giai
đoạn chuyển đổi đã tạo nền móng cho sự phát triển những năm sau đó.

Giai đoạn 1996-2000:
Trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng kinh tế của việt nam có phần giảm
xuống do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới (1997)
đây có thể coi là thách thức đầu tiên đối với nền kinh tế non trẻ của việt nam tuy
không ảnh hưởng nhiều do mức kiểm soát tài khoản vốn của Việt Nam cao, nhưng
việc ngồn vốn FDI suy giảm và sự cạnh tranh ngày càng khóc liệt trên các thị
trường xuất khẩu thực sự tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng
trong giai đoạn này là 8, 2%/năm 1997 xuống còn 7%/năm, thấp hơn so với kế
hoạch năm đề ra.
Giai đoạn 2001-2005:
Trong giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam lại chứng kiến đà tăng trưởng trở
lại của mình. Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á đã lắng xuống cộng với
sự cải cách hướng vào cải tổ nền kinh tế bao gồm thúc đẩy phát triển khu vực ngoài
quốc doanh, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, tăng cường huy động vốn
trong nhân dân.
Khu vực kinh tế nông nghiệp và nông thôn cũng có bước chuyển biến mạnh
mẽ dưới tác dụng của chính sách khuyến khích kinh tế trang trại và cải cách phân
phối sản phẩm. Tất cả những thay đổi này đã đưa nền kinh tế tăng trưởng trở lại từ
GVHD: TRẦN VĂN HÙNG CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
SVTH:KHIẾU VĂN CÔNG 25
6, 8% năm 2000 lên 8, 4% năm 2005, tốc độ tăng trưởng bình quân của thời kỳ là 7,
5%.
2.1.1.2: Tốc độ tăng trưởng của các ngành trong nền kinh tế.
a> Nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Trong giai đoạn 1991-2005 giá trị nông, lâm, ngư nghiệp và thủy sản của
Việt Nam liên tục tăng nhanh. Giá trị xuất khẩu của ngành tăng bình quân 4,
5%/năm trong giai đoạn 1991-1995; 5, 7%/năm trong giai đoạn 1996-2000, vượt
mức kế hoạch (4, 5-5%) trong giai đoạn 2001-2005. Mặc dù nước ta chịu nhiều ảnh
hưởng của thiên nhiên như hạn hán, bão lụt, dịch cúm gia cầm lan rộng, gây thiệt
hại cho nông nghiệp và nền kinh tế lên đến hàng trăm tỷ đồng. Nhưng nhờ thủy sản

tăng khá nhanh, nên tính giá trị ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản đạt bình quân 5,
4%/năm.
Bảng 2 : tốc độ tăng trưởng các nhóm ngành kinh tế Việt Nam năm 1991-
2005
Đơn vị:%
Năm Tăng trưởng GO
của ngành Nông,
Lâm nghiệp và
thủy sản
Tăng trưởng GO
của ngành Công
nghiệp và Xây
dựng
Tăng trưởng GDP của
ngành Dịch vụ
1990 1. 6 3. 1 10. 2
1991 2. 7 10. 4 7. 4
1992 8. 4 17. 1 7. 6
1993 6. 6 12. 7 8. 6
1994 4. 9 13. 7 9. 6
1995 6. 9 14. 5 9. 8
1996 6. 5 14. 2 8. 8
1997 7. 0 13. 8 7. 1

×