Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Phân tích tình hình tài chính của công ty Cổ phần bao bì Biên Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.31 KB, 76 trang )

1


LỜI MỞ ĐẦU
W  X
1. Lý do chọn đề tài:
Với bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay đang vận hành theo cơ chế thị trường
và trong xu thế hội nhập, cạnh tranh diễn ra ngày càng quyết liệt hơn. Do hạn chế về
khả năng và nguồn lực, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế buộc phải hợp tác với
nhau trong quá trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng nh
ư nghiên cứu
phát triển mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu [9]. Nhưng trước khi quyết định đầu
tư, các nhà đầu tư cần phải có được bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính và kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tác.
Nhìn chung, các nhà quản trị doanh nghiệp và các bên liên quan đến doanh
nghiệp đều muốn biết tình hình tài chính của doanh nghiệp như thế nào? hiệu quả sản
xuất kinh doanh, khả nă
ng sinh lời, khả năng thanh toán... Để có câu trả lời cho các
vấn đề nêu trên họ phải thực hiện việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp [9].
Hơn thế nữa, một doanh nghiệp trong cơ chế thị trường muốn phát triển bền vững
và cạnh tranh lành mạnh, trước hết phải có được cơ cấu tài chính phù hợp và đảm bảo
được khả năng thanh toán [9]. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải
thường xuyên ti
ến hành công tác phân tích tài chính và không ngừng hoàn thiện công
tác này, trên cơ sở đó, định hướng cho các quyết định nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực tiễn đã chứng
minh, nếu các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm đúng mức tới công tác phân tích tài
chính thì họ sẽ có những quyết định đúng đắn và có nhiều cơ hội thành đạt trong kinh
doanh, ngược lại họ sẽ khó tránh khỏi những quyết
định tài chính sai lầm và thất bại.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính, em quyết định


chọn đề tài “Phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần bao bì Biên Hòa”
làm chuyên đề tốt nghiệp của em. Tuy nhiên, với thời gian tiếp cận thực tế chưa nhiều
nên bài luận không tránh những sai sót. Em rất mong nhận được được sự giúp đỡ và ý
kiến đóng góp chân thành của quý thầy cô, các cô chú, anh chị trong công ty.




2
2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu của đề tài:
Tài chính là khâu rất quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, bởi vì tài
chính bao gồm các quá trình liên quan đến việc huy động vốn, sử dụng vốn và làm thế
nào để đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp được sử dụng có hiệu quả [9]. Tài chính
không chỉ tác động bên trong doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến tài chính quốc gia.
Nó không những là nguồn thu ngân sách mà còn là nguồn chi chủ yếu cho các ngành
kinh tế
[7]. Phân tích tình hình tài chính là nhiệm vụ thường xuyên và không kém phần
quan trọng đối với các nhà quản trị, các nhà đầu tư, các chủ nợ và cơ quan quản lý nhà
nước trong việc đưa ra các quyết định kinh tế [9].
Phân tích tài chính cung cấp cho nhà quản lý cái nhìn tổng quát về thực trạng của
doanh nghiệp hiện tại, dự báo các vấn đề tài chính trong tương lai, cung cấp cho các
nhà đầu tư tình hình phát triển và hiệu quả hoạt động, giúp các nhà hoạch định chính
sách đưa ra biện pháp qu
ản lý hữu hiệu.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về việc phân tích tình hình tài chính, song việc
phân tích tài chính của mỗi doanh nghiệp qua mỗi năm lại mang một ý nghĩa khác
nhau. Mặt khác, qua tìm hiểu tại đơn vị thực tập, em thấy có rất nhiều đề tài được sinh
viên chọn để nghiên cứu như: “Kế toán Chi Phí Sản Xuất Và Tính Giá Thành Sản
Phẩm”, “Kế toán xác định kết quả kinh doanh và phân phối lợi nhuận, “Công tác quản
lý và sử

dụng tài sản cố định”, “Tổ chức hạch toán kế toán nguyên vật liệu”, “Kế toán
tiền lương”…Nhưng các đề tài này vẫn chưa làm rõ được thực trạng tài chính của
doanh nghiệp, nên khi thực hiện đề tài “Phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ
phần bao bì Biên Hòa”, em sẽ phân tích và làm rõ từng bộ phận cấu thành các chỉ tiêu
tài chính, và mối quan hệ giữa các chỉ tiêu. Qua đó, thấy được thực trạng tài chính của
doanh nghiệp, đồng thời đề ra những giải pháp giúp doanh nghiệp cải thiện tình hình
tài chính nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập số liệu các báo cáo và tài liệu liên quan của công ty cổ phần bao bì
Biên Hòa.
- Sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp số liệu và đánh giá số liệu
về số tuyệt đối và số tương đối. Từ đó đưa ra nhận xét về
thực trạng tài chính của
doanh nghiệp.
3


4. Mục tiêu nghiên cứu:
Vận dụng những lý luận về phân tích tình hình tài chính nhằm thấy rõ xu hướng,
tốc độ tăng trưởng và thực trạng tại chính của Doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, đề xuất
những giải pháp và kiến nghị giúp cải thiện tình hình tài chính để doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả hơn.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: thông tin, số li
ệu, các chỉ tiêu thể hiện tình hình và kết
quả tài chính được tổng hợp trên báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần bao
bì Biên Hòa.
- Phạm vi nghiên cứu: tập trung nghiên cứu về tình hình tài chính của toàn
Doanh nghiệp trong năm 2007, 2008.
- Không gian nghiên cứu: Công ty Cổ phần bao bì Biên Hòa.

6. Những đóng góp mới của đề tài:
- Làm rõ được thực trạng tài chính cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong năm 2008.
- Đề ra những giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp c
ải thiện tình hình tài chính
trong tương lai.
7. Kết cấu nội dung:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu gồm 3 chương:
×
Chương 1
: Cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính
×
Chương 2
: Phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần bao bì Biên
Hòa.
×
Chương 3:
Một số nhận xét & giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài
chính tại doanh nghiệp


4
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH
1.1. Ý NGHĨA, NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU CỦA PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH:
1.1.1, Ý NGHĨA:
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Ngược lại, tình hình tài chính tốt hay xấu đều có tác động

thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh [3].
Các báo cáo tài chính phản ánh kết quả và tình hình các mặt hoạ
t động của
doanh nghiệp bằng các chỉ tiêu kinh tế. Những báo cáo này do kế toán soạn thảo định
kỳ nhằm mục đích cung cấp thông tin về kết quả và tình hình tài chính của doanh
nghiệp cho những người cho những người có nhu cầu sử dụng các thông tin đó [3].
Qua phân tích tình hình tài chính mới đánh giá đầy đủ, chính xác tình hình phân
phối, sử dụng và quản lý các loại vốn, vạch rõ khả năng tiềm tàng về vốn của doanh
nghiệp, trên c
ơ sở đó đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn [9].
Phân tích tình hình tài chính là công cụ không thể thiếu phục vụ cho công tác
quản lý của cơ quan cấp trên, cơ quan tài chính, ngân hàng như: đánh giá tình hình
thực hiện các chế độ, chính sách về tài chính của Nhà nước, xem xét việc cho vay vốn
[9].
1.1.2, NHIỆM VỤ:
Đánh giá tình hình sử dụng vốn, nguồn vốn, tài sản: như xem xét việc phân bổ
nguồn vốn có hợp lý không? Xem xét mứ
c độ đảm bảo vốn cho nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh, phát hiện những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thừa, thiếu vốn.
Đánh giá tình hình thanh toán, khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Đánh giá tình hình chấp hành các chế độ, chính sách tài chính, tín dụng Nhà
nước.
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
5


Phát hiện những khả năng tiềm tàng, đề ra các biện pháp động viên, khai thác các
khả năng tiềm tàng nhằm nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn [9].
1.1.3, MỤC TIÊU:
Các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính được chia thành hai nhóm chính: các đối

tượng bên trong doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp [4].
Các nhà quản trị nội bộ doanh nghiệp sử dụng phân tích báo cáo tài chính nhằm
đạt mục tiêu cuối cùng là bảo toàn và phát triển vốn đầu tư c
ủa chủ sở hữu doanh
nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên, các nhà quản trị nội bộ doanh nghiệp quan tâm đến
khả năng thanh toán ngắn hạn; khả năng sinh lợi; khả năng thanh toán dài hạn; khả
năng tạo ra đủ tiền qua các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài trợ;
khả năng gia tăng giá trị cổ phiếu trên thị trường chứng khoán đố
i với các công ty cổ
phần [4].
Các chủ nợ cung cấp tín dụng bằng các hình thức như bán chịu, thương phiếu,
trái phiếu để hưởng tiền lời. Họ mong đợi các khoản tín dụng sẽ được hoàn trả theo
các điều khoản tín dụng. Các nhà đầu tư mua cổ phiếu để hy vọng nhận được cổ tức và
giá trị cổ phiếu gia tăng. Cả hai nhóm đối tượng này đều đố
i diện với những rủi ro.
Các chủ nợ đối diện với rủi ro là các con nợ sẽ không có khả năng trả nợ. Các nhà đầu
tư lại đối diện với rủi ro là cổ tức sẽ bị cắt giảm hoặc không được chi trả hoặc thị giá
của cổ phiếu sẽ giảm. Đối với cả hai nhóm, mục tiêu đều là đạt được một khoản lợ
i
nhuận để bù đắp những rủi ro xảy ra. Nói chung, rủi ro càng lớn thì lợi nhuận phải
càng cao [4].
Bất kỳ một khoản tín dụng hoặc một khoản đầu tư nào cũng có thể trở nên khó
thu hồi. Do đó, hầu hết các chủ nợ và các nhà đầu tư thường đầu tư theo danh mục đầu
tư, hoặc nhóm các khoản tín dụng hoặc đầu tư. Danh mục đầu tư cho phép họ
quân
bình lợi nhuận và rủi ro. Tuy nhiên, danh mục đầu tư vào những khoản tín dụng hoặc
cổ phiếu nào cũng tùy thuộc vào những quyết định cá biệt. Chính khi đưa ra những
quyết định cá biệt này, phân tích báo cáo tài chính là có ích nhất [4].
Mục tiêu cụ thể khi phân tích báo cáo tài chính của từng đối tượng sử dụng báo
cáo tài chính khác nhau là không như nhau. Tuy nhiên, tất cả các đối tượng sử dụng

báo cáo tài chính, khi phân tích báo cáo tài chính đều tiến hành theo hai cách:


6
- Đánh giá kết quả quá khứ và tình hình tài chính hiện hành.
- Đánh giá những tiềm lực tương lai và những rủi ro gắn với những tiềm lực
đó.
1.2. NGUỒN TÀI LIỆU PHÂN TÍCH :
Các nhà phân tích bên ngoài doanh nghiệp thường bị hạn chế trong giới hạn của
những thông tin công khai có sẵn về một doanh nghiệp. Những nguồn thông tin chủ
yếu về các doanh nghiệp được niêm yết là các báo cáo được phát hành, các báo cáo
gửi Ủy ban Chứng khoán nhà n
ước, các tạp chí kinh doanh được xuất bản định kỳ, và
các dịch vụ tư vấn về tín dụng và đầu tư [4].
1.2.1, Các báo cáo được phát hành:
Các báo cáo hàng năm của các doanh nghiệp là một nguồn thông tin tài chính
quan trọng. Các phần chính của báo cáo hàng năm là:
- Phân tích hoạt động năm qua của các nhà quản trị
- Các báo cáo tài chính
- Thuyết minh các báo cáo
- Báo cáo kiểm toán
- Tóm tắt hoạt động trong 5 hoặc 10 năm
Hầu hết các doanh nghiệp còn công bố các báo cáo tài chính tạm thời hàng quý.
Các báo cáo này thông tin có hạn d
ưới hình thức các báo cáo tài chính cô đọng, có thể
là đối tượng để kiểm toán viên kiểm tra đầy đủ. Các báo cáo tạm thời được các tổ chức
tài chính xem xét một cách chặt chẽ đối với các dấu hiệu ban đầu của những thay đổi
quan trọng trong xu hướng lợi nhuận của doanh nghiệp [4].
1.2.2, Các báo cáo cho Uỷ ban chứng khoán nhà nước:
Các công ty cổ phần niêm yết phải đệ trình các báo cáo năm (Mẫu CBTT-02 kèm

theo thông tư 57/2004/TT-BTC ngày 17 tháng 6 năm 2004 của Bộ
Tài chính – Hướng
dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường Chứng khoán), báo cáo quý, 06 tháng
(Mẫu CBTT-03 kèm theo thông tư này), và báo cáo bất thường cho Ủy ban chứng
khoán nhà nước. Tất cả các báo cáo này công chúng có thể có từ trang Web của Ủy
ban chứng khoán nhà nước. Báo cáo thường niên được thực hiện theo Mẫu CBTT-02
7


là một nguồn thông tin có giá trị. Các công ty cổ phần niêm yết công bố báo cáo tài
chính quý, 06 tháng tóm tắt (Mẫu CBTT-03) thông qua phương tiện công bố thông tin
của Trung tâm giao dịch Chứng khoán hoặc Sở giao dịch chứng khoán. Báo cáo hàng
quý 06 tháng (Mẫu CBTT-03) phản ánh những sự kiện quan trọng về kết quả tài chính
tạm thời. Báo cáo bất thường phải được công bố trong vòng 24 giờ kể từ khi xảy ra sự
kiện và phải công bố các sự kiện đó trên ph
ương tiện công bố thông tin của Trung tâm
giao dịch chứng khoán hoặc Sở giao dịch chứng khoán. Nó thường là dấu hiệu đầu tiên
về những thay đổi quan trọng có thể ảnh hưởng đến những kết quả tài chính tương lai
của một doanh nghiệp [4].
1.2.3, Các tạp chí kinh doanh được xuất bản định kỳ và các dịch vụ tư vấn về
tín dụng và đầu tư:
Các nhà phân tích tài chính phải theo kịp những sự ki
ện thời sự trong thế giới tài
chính.
Ở Mỹ, nguồn thông tin tài chính tốt nhất là Tạp chí phố Wall, được phát hàng
ngày và là tờ báo về tài chính hoàn hảo nhất ở Mỹ. Một số tạp chí có ích khác, được
phát hành hàng tuần hoặc mỗi hai tuần, là Forbes, Barron’s, Fortune và Commercial
and Financial Chronicle. Chi tiết hơn về lịch sử tài chính của các doanh nghiệp có các
xuất bán sản phẩm như Moody’s Investors Service và Standard & Poor’s Industrial
Surveys. Các dữ liệu về tiêu chuẩn ngành, các tỷ số bình quân và các mối liên hệ,

nhữ
ng ước tính đáng tin cậy được cung cấp từ các cơ quan thông tấn như Dun &
Bradstreet Corporation, Robert Morris Associates [4].
1.3. PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN ĐẾN TÍNH XÁC THỰC CỦA
THÔNG TIN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH:
Các nhà phân tích cần hiểu rõ ảnh hưởng của kế toán đến tính xác thực của thông
tin trên báo cáo tài chính. Điều này được thực hiện bằng cách đánh giá ảnh hưởng của
các chính sách kế toán đến báo cáo tài chính và điều chỉnh báo cáo để phản ánh xác
thực và phục vụ tốt hơ
n cho phân tích [4].
Các nhà phân tích cần hiểu rằng: kế toán là quá trình liên quan đến lựa chọn các
chính sách kế toán (phương pháp khấu hao, phương pháp đánh giá hàng tồn kho…), và
các ước tính kế toán (các khoản phải thu khó đòi; giá trị hàng lỗi thời tồn kho; thời
gian sử dụng hữu ích hoặc cách thức sử dụng tài sản cố định làm cơ sở tính khấu hao;


8
nghĩa vụ bảo hành…) được chuẩn mực kế toán cho phép. Điều nay làm phát sinh hai
vấn đề trong phân tích: tính so sánh và tính chính xác của thông tin.
Vấn đề liên quan đến tính so sánh được của thông tin phát sinh khi hai doanh
nghiệp khác nhau áp dụng những chính sách kế toán khác nhau cho cùng một nghiệp
vụ hoặc sự kiện. Vấn đề liên quan đến tính so sánh được của thông tin cũng phát sinh
khi doanh nghiệp thay đổi chính sách kế toán giữa các kỳ.
Vấn đề liên quan đến tính chính xác của thông tin phát sinh khi ước tính kế toán
sai; vận d
ụng những chính sách kế toán khác nhau dẫn đến thông tin được trình bày
trên báo cáo tài chính sẽ khác nhau; chuẩn mực kế toán cũng hạn chế tính xác thực của
thông tin (không cho phép trình bày các chỉ tiêu không được đánh giá một cách đáng
tin cậy: giá trị nguồn nhân lực, giá trị của thương hiệu…). Chính những yếu tố này tạo
ra những rủi ro kế toán khi phân tích báo cáo tài chính.

Mục tiêu chính của phân tích ảnh hưởng của kế toán đến tính xác thực của thông
tin trên báo cáo tài chính là nhằm đánh giá và làm giảm bớ
t những rủi ro kế toán và để
cải thiện nội dung kinh tế của báo cáo tài chính, bao gồm tính so sánh được của thông
tin báo cáo tài chính. Để đáp ứng mục tiêu này, thường đòi hỏi phải điều chỉnh thông
tin trên báo cáo tài chính nhằm cải thiện nội dung kinh tế và khả năng so sánh của
thông tin. Phạm vi điều chỉnh phụ thuộc vào mục tiêu phân tích [4].
1.4. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH:
Các con số tự nó không có nhiều ý nghĩa. Chính mối quan hệ của chúng với
những con số khác hoặc những thay đổi của chứng từ kỳ này so với kỳ khác mới là
quan trọng. Các công cụ phân tích tài chính được dùng để chỉ ra các mối quan hệ và
những sự thay đổi đó. Trong số các kỹ thuật phân tích tài chính, các kỹ thuật sau được
sử dụng rộng rãi hơn: phân tích theo chiều ngang, phân tích xu hướng, phân tích theo
chiều dọc, và phân tích tỷ số [4].
1.4.1, Phân tích theo chiều ngang:
Nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung đòi h
ỏi phải trình bày thông tin của năm
hiện hành và năm trước trên báo cáo tài chính. Điểm khởi đầu chung cho việc nghiên
cứu các báo cáo tài chính đó là phân tích theo chiều ngang, bằng cách tính số tiền
chênh lệch và tỷ lệ % chênh lệch từ năm này so với năm trước. Tỷ lệ % chênh lệch
9


Tỷ lệ chênh lệch = Error!
phải được tính toán để cho thấy quy mô thay đổi tương quan ra sao với quy mô của số
tiền liên quan.


Số tiền chênh lệch phản ánh quy mô biến động, và tỷ lệ chênh lệch phản ánh tốc độ
biến động, phải được xem xét đồng thời [4].

1.4.2, Phân tích xu hướng:
Một biến thể của phân tích theo chiều ngang là phân tích xu hướng. Trong phân
tích xu hướng, các tỷ lệ chênh lệch được tính cho nhiề
u năm thay vì hai năm. Phân tích
xu hướng quan trọng do, với cách nhìn rộng của nó, phân tích xu hướng có thể chỉ ra
những thay đổi cơ bản về bản chất của hoạt động kinh doanh. Ngoài các báo cáo tài
chính, hầu hết các doanh nghiệp còn tóm tắt các hoạt động và đưa ra các dữ liệu chủ
yếu trong năm năm hoặc nhiều hơn.
Phân tích xu hướng sử dụng tỷ số để chỉ những thay đổi của chỉ tiêu liên quan
trong một giai đoạn. Đối với các tỷ số, năm gốc có tỷ số là 100%. Các năm khác được
đo lường trong mối tương quan với giá trị đó [4].
1.4.3, Phân tích theo chiều dọc:
Trong phân tích theo chiều dọc, tỷ lệ % được sử dụng để chi mối quan hệ của các
bộ phận khác nhau so với tổng số trong một báo cáo. Con số tổng cộng của một báo
cáo sẽ được đặt là 100% và từ
ng phần của báo cáo sẽ được tính tỷ lệ % so với con số
đó. (Đối với bảng cân đối kế toán, con số tổng cộng sẽ là tổng tài sản hoặc tổng nguồn
vốn, và doanh thu thuần đối với báo cáo kết quả kinh doanh). Báo cáo bao gồm kết
quả tính toán của các tỷ lệ % trên được gọi là báo cáo quy mô chung.
Phân tích theo chiều dọc có ích trong việc so sánh tầm quan trọng của các thành
phần nào đó trong hoạt động kinh doanh. Nó cũng có ích trong vi
ệc chỉ ra những thay
đổi quan trọng về kết cấu của một năm so với năm tiếp theo ở báo cáo qui mô chung.
Báo cáo quy mô chung thường được sử dụng để so sánh giữa các doanh nghiệp.
Chúng cho phép nhà phân tích so sánh các đặc điểm hoạt động và đặc điểm tài trợ có
quy mô khác nhau trong cùng ngành [4].


10
1.4.4, Phân tích tỷ số:

Phân tích tỷ số là một phương pháp quan trọng để thấy được các mối quan hệ có
ý nghĩa giữa hai thành phần của một báo cáo tài chính. Để có ích nhất, nghiên cứu một
tỷ số cũng phải bao gồm việc nghiên cứu dữ liệu đằng sau các tỷ số đó. Các tỷ số là
những hướng dẫn hoặc những phân tích có ích trong việc đánh giá tình hình tài chính
và các hoạt động của m
ột doanh nghiệp và trong việc so sánh chúng với những kết quả
của các năm trước hoặc các doanh nghiệp khác. Mục đích chính của việc phân tích tỷ
số là chỉ ra những lĩnh vực cần được nghiên cứu nhiều hơn. Nên sử dụng những tỷ số
gắn với những hiểu biết chung về doanh nghiệp và môi trường của nó [4].
1.5. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TỶ SỐ ĐỂ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI
CHÍNH:

các phần sau, phân tích chỉ số được áp dụng cho năm mục tiêu:
+ Khả năng thanh toán ngắn hạn
+ Khả năng thanh toán dài hạn
+ Hiệu quả hoạt động
+ Khả năng sinh lợi
+ Năng lực của dòng tiền
+ Sức mạnh thị trường
1.5.1, Đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn:
Khả năng thanh toán ngắn hạn là khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn khi đến
hạn và khả năng thỏa mãn những nhu cầu tiền không mong đợi. Tất cả các tỷ số liên
quan đến mục tiêu này phải thực hiện với vốn luân chuyển hoặc một vài bộ phận của
nó, bởi vì chính những khoản nợ đến hạn đã được thanh toán nằm ngoài vốn luân
chuyển. Một vài tỷ số được sử dụng phổ biến để đánh giá khả năng thanh toán ngắ
n
hạn là hệ số thanh toán ngắn hạn, hệ số thanh toán nhanh, số vòng quay các khoản phải
thu, số vòng quay hàng tồn kho [4].
1.5.1.1, Hệ số thanh toán ngắn hạn [4]:
11



Hệ số thanh toán ngắn hạn = Error!
Hệ số thanh toán nhanh = Error!
Hệ số thanh toán bằng tiền = Error!
Hệ số thanh toán ngắn hạn diễn tả mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn với nợ ngắn
hạn. Nó được sử dụng một cách rộng rãi như một tín hiệu rõ ràng về khả năng thanh
toán ngắn của một doanh nghiệp.



1.5.1.2, Hệ số thanh toán nhanh:
Một trong những thiếu sót của hệ số thanh toán ngắn hạn là không quan tâm
đến
đặc điểm của các tài sản ngắn hạn khi thanh toán… Rõ ràng, một đồng tiền mặt hoặc
ngay cả một đồng các khoản phải thu có thể đáp ứng nghĩa vụ thanh toán tốt hơn một
đồng của hầu hết các khoản hàng tồn kho. Hệ số thanh toán nhanh được lập ra để khắc
phục vấn đề này. Đó là, nó đo lường mối quan hệ của các tài sản ngắn h
ạn có khả năng
chuyển đổi thành tiền nhanh (tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu) so
với nợ ngắn hạn. Hệ số này được tính như sau [4]:


1.5.1.3, Hệ số Khả năng thanh toán bằng tiền :
Hệ số khả năng thanh toán bằng tiền cho biết trong một đồng nợ ngắn hạn thì
được đảm bảo bao nhiêu đồng tiền mặt [8].


1.5.2, Đánh giá khả năng thanh toán dài hạn:
Khả năng thanh toán dài hạn của doanh nghiệp gắn với khả năng sống còn của

doanh nghiệp qua nhiều năm. Mục đích của phân tích khả năng thanh toán dài hạn là
để chỉ ra sớm nếu doanh nghiệp đang trên con đường phá sản. Các nghiên cứu cho
thấy rằng các tỷ số kế toán có thể chỉ ra sớm hơn năm năm một doanh nghiệp có thể
thấ
t bại. Giảm các tỷ số về khả năng sinh lợi và khả năng thanh toán là dấu hiệu chủ
yếu của khả năng kinh doanh thất bại. Hai tỷ số khác mà các nhà phân tích thường


12
Nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu = Error!
Số lần hoàn trả lãi vay = Error!
xem là tín hiệu của khả năng thanh toán dài hạn là tỷ số nợ phải trả trên nguồn vốn chủ
sở hữu và số lần hoàn trả lãi vay [4].
1.5.2.1, Nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu:
Tăng số nợ phải trả trong cơ cấu nguồn tài trợ của doanh nghiệp là có rủi ro.
Doanh nghiệp có nghĩa vụ pháp lý trong việc chi trả lãi vay
đúng kỳ và trả nợ gốc khi
đáo hạn. Nghĩa vụ này có hiệu lực bất kể mức lợi nhuận của doanh nghiệp là bao
nhiêu. Nếu không thanh toán nợ phải trả, Doanh nghiệp có thể bị buộc phá sản. Ngược
lại, cổ tức và những chứng khoán phân phối khác cho cổ đông chỉ được thực hiện khi
hội đồng quản trị công bố. Tỷ số nợ phải tr
ả trên nguồn vốn chủ sở hữu cho thấy số tài
sản của Doanh nghiệp được tài trợ từ các chủ nợ trong mối quan hệ với số được tài trợ
từ chủ sở hữu. Tỷ số nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu càng cao, Doanh nghiệp có
nghĩa vụ cố định càng lớn, và do đó càng lâm vào tình thế rủi ro hơn. Tỷ số này được
tính như sau [4]:


1.5.2.2, Số lần hoàn trả lãi vay:
Có một phương tiện để đo lường mức độ bảo vệ cho các chủ nợ khỏi nguy cơ

không trả được lãi là tỷ số lần hoàn trả lãi vay, được tính như sau [4]:


1.5.3, Đánh giá hiệu quả hoạt động:
Các tỷ số về hiệu quả hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả c
ủa việc sử
dụng tài sản (hàng tồn kho, các khoản phải thu, tổng tài sản) trong quá trình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Các tỷ số về hiệu quả hoạt động còn được sử dụng để đánh giá chu kỳ hoạt động
của doanh nghiệp và khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp. Chu kỳ hoạt động là khoảng thời gian gắn v
ới các nghiệp vụ liên quan đến đầu
tư vào hàng tồn kho, chuyển hàng tồn kho thành các khoản phải thu qua bán hàng, thu
tiền các khoản phải thu, dùng tiền trả nợ ngắn hạn và mua lại các hàng tồn kho đã bán.
13


Số vòng quay của thành phẩm = Error!
Các tỷ số về hiệu quả hoạt động (hay các tỷ số về số vòng quay) có thể được tính
cho hàng tồn kho, các khoản phải thu và tổng tài sản [4].
1.5.3.1, Các tỷ số về hàng tồn kho:
Hệ số quay vòng của hàng tồn kho thiết lập mối quan hệ giữa khối lượng hàng
bán và tồn kho. Sự luân chuyển hàng tồn kho của các doanh nghiệp ở các ngành khác
nhau và trong nội bộ các ngành có thể r
ất khác nhau. Số vòng quay của hàng tồn kho
được tính như sau [4]:


Sử dụng hàng tồn kho bình quân (nếu dữ liệu cho phép) ở mẫu số vì tỷ số này đo
lường hiệu quả hoạt động hay số vòng quay của hàng tồn kho trong kỳ.

Hàng tồn kho bình quân được tính như sau: hàng tồn kho đầu kỳ cộng hàng tồn
kho cuối kỳ rồi chia hai. Nếu không có thông tin về hàng tồn kho đầu kỳ, hàng tồn kho
cuối kỳ sẽ đượ
c sử dụng ở mẫu số của công thức. Khi không có thông tin về giá vốn
hàng bán, một số nhà phân tích dùng doanh thu thuần ở tử số [4].
Khả năng chuyển đổi thành tiền của hàng tồn kho còn được thể hiện qua số ngày
dự trữ hàng tồn kho, và được tính theo công thức:


Số ngày dự trữ hàng tồn kho cho biết độ dài của thời gian dự trữ và sự cung ứng
hàng tồn kho trong thời gian đó. Nó cũng cho biế
t doanh nghiệp có dự trữ thừa hay
thiếu không.
Để phân tích hàng tồn kho của doanh nghiệp sản xuất, nếu có dữ liệu có thể tính
toán một vài tỷ số khác. Số vòng quay của thành phẩm cho biết khả năng chuyển đổi
thành tiền của thành phẩm, nghĩa là số lần bán ra của thành phẩm bình quân trong kỳ.
Số vòng quay của vật liệu cho biết số lần vật liệu được sử dụng bình quân trong
kỳ
. Tỷ số này được tính như sau:
Số vòng quay hàng tồn kho = Error!
Số ngày dự trữ hàng tồn kho = Error!


14
Số vòng quay của vật liệu = Error!
Số vòng quay của sản phẩm dở dang =Error!
Số vòng quay các khoản phải thu = Error!


Cũng có thể tính số vòng quay của sản phẩm dở dang. Tỷ số này được tính như

sau:
1.5.3.2, Các tỷ số về các khoản phải thu:
Khả năng thu tiền bán chịu kịp thời của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến khả
năng thanh toán ngắn của nó. Số vòng quay các khoản phải thu đo lường mối quan hệ
tương quan của các khoản phải thu v
ới sự thành công của chính sách bán chịu và thu
tiền của doanh nghiệp. Nó cho biết các khoản phải thu bình quân được chuyển đổi
thành tiền bao nhiêu lần trong kỳ. Tuy nhiên, nó cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
bên ngoài, như các điều kiện kinh tế và lãi suất đi vay [4].
Số vòng quay các khoản phải thu được tính bằng cách chia doanh thu thuần cho
các khoản phải thu bình quân. Về lý thuyết, tử số nên là doanh thu bán chịu thuần,
nhưng doanh thu bán chịu thuầ
n hiếm khi được trình bày trên các báo cáo. Vì vậy,
chúng ta sẽ sự dụng doanh thu thuần. Ngoài ra, ở tỷ số này và các tỷ số khác nữa đòi
hỏi có sự tính toán bình quân, chúng ta sẽ lấy số dư đầu kỳ cộng số dư cuối kỳ rồi chia
cho 2. Nếu có dữ liệu tài chính từ nội bộ, tốt hơn nên dùng số dư hàng tháng để tìm số
bình quân, vì số dư các khoản phải thu, hàng tồn kho, và các khoản khác có thể có
chênh l
ệch rất lớn trong năm. Khi số dư của năm trước không có sẵn để tính số bình
quân, thì người ta sử dụng số dư cuối năm hiện hành để làm số dư bình quân cho năm
hiện hành [4].


Trong giới hạn cho phép, số vòng quay các khoản phải thu càng lớn, các khoản
phải thu chuyển đổi thành tiền càng nhanh. Tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu
thành tiền phụ thuộc vào các điều khoả
n tín dụng của doanh nghiệp. Do các điều
khoản tín dụng của doanh nghiệp thường được xác định bằng ngày, ví dụ như 2/10,
n/30 (khách hàng được mắc nợ trong vòng 30 ngày, nếu thanh toán trong vòng 10 ngày
15



Số ngày thu tiền bán hàng bình quân = Error!
Số vòng quay của tài sản = Error!
sẽ được hưởng chiết khấu 2% trên số tiền mua chịu), nên việc chuyển đổi số vòng
quay các khoản phải thu thành số ngày thu tiền bán hàng bình quân sẽ có ích. Việc
chuyển đổi này đực thực hiện bằng cách chia độ dài của kỳ kế toán (thường là 365
ngày) cho số vòng quay các khoản phải thu (được tính ở trên), như sau:
Khi so sánh thông tin này với chính sách bán chịu, với các dữ liệu có thể so sánh
của các doanh nghiệp cùng ngành, và với các n
ăm trước, doanh nghiệp có thể đạt được
một số thông tin về hiệu quả thu tiền và xu hướng quản lý tín dụng [4].
1.5.3.3, Số vòng quay của tài sản:
Số vòng quay của tài sản là một thước đo sử dụng hiệu quả sử dụng tài sản trong
việc tạo ra doanh thu. Tỷ số này cho biết mỗi một đồng đầu tư vào tài sản tạo ra được
bao nhiêu đồng doanh thu.
Nói chung, tỷ số này càng cao thì doanh nghiệ
p sử dụng tài sản càng có hiệu quả.
Tỷ số này được tính như sau:



Các khoản đầu tư dài hạn thường được loại trừ ra khỏi tổng tài sản bình quân do
chúng không đóng góp vào việc tạo ra doanh thu. Nếu doanh thu được thay bằng số
lượng sản phẩm tiêu thụ, tỷ lệ giữa số lượng sản phẩm tiêu thụ so với tổng tài sản cung
cấp thông tin tương tự như số
vòng quay của tài sản. Tuy nhiên, số lượng sản phẩm
tiêu thụ không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi giá [4].
1.5.3.4, Chu kỳ hoạt động của một doanh nghiệp:
Chu kỳ hoạt động của một doanh nghiệp có thể tính bằng cách cộng thêm số

ngày tồn kho vào số ngày bán chịu của doanh nghiệp.
Đặc điểm của một doanh nghiệp mà có chu kỳ hoạt động ngắn là chỉ cần một
lượ
ng nhỏ vốn luân chuyển, được phản ánh ở hệ số thanh toán ngắn hạn và hệ số thanh
toán nhanh thấp tương ứng. Còn doanh nghiệp có chu kỳ hoạt động dài thì cần một


16
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Error!
lượng lớn của tài sản ngắn hạn, và hệ số thanh toán ngắn hạn và hệ số thanh toán
nhanh cao, trừ phi các nhà cung cấp của doanh nghiệp đó mở rộng các điều khoản tín
dụng của họ. Chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp được minh họa ở sơ đồ 1.1 [4].
Sơ đồ 1.1
: Chu kỳ hoạt động thông thường của một doanh nghiệp

Mua

Bán

Tiền Hàng tồn kho Các khoản phải thu

Thu tiền các khoản phải thu



1.5.4, Đánh giá khả năng sinh lời:
Một doanh nghiệp có tồn tại lâu dài hay không phụ thuộc vào khả năng kiếm
được lợi nhuận mong muốn của nó. Các nhà đầu tư trở thành cổ đông và vẫn còn là cổ
đông chỉ vì một lý do: họ tin rằng các khoản cổ tức phân phối và lợi nhuận từ chênh
lệch giá cổ phiếu sẽ lớn hơn lợi nhuận từ những khoả

n đầu tư khác có rủi ro tương tự.
Đánh giá khả năng sinh lợi của một doanh nghiệp có thể cung cấp một căn cứ tốt hơn
cho việc ra quyết định của nhà đầu tư. Khả năng sinh lời của một doanh nghiệp cũng
phù thuộc vào tình hình thanh toán ngắn hạn của nó. Vì lý do này, đánh giá khả năng
sinh lợi có tầm quan trọng đối với cả các nhà đầu tư và các chủ nợ
[4]. Để xem xét khả
năng sinh lời của Doanh nghiệp, chúng ta sử dụng năm tỷ số sau:
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
- Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
- Lợi nhuận mỗi cổ phiếu
- Tỷ lệ chi trả cổ tức
1.5.4.1, Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuậ
n trên doanh thu phản ánh tỷ lệ của lợi nhuận thuần so với doanh
thu thuần. Tỷ số này được tính cho Doanh nghiệp như sau:


17


Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản = Error!
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu = Error!
(*)Để so sánh các công ty cùng ngành, một số nhà phân tích sử dụng lợi nhuận
thuần trước thuế thu nhập doanh nghiệp ở tử số để loại trừ ảnh hưởng của thuế thu
nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp [4].
1.5.4.2, Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản:
Thước đo bao quát nhất khả năng sinh lợ
i của một doanh nghiệp là Tỷ suất lợi
nhuận trên tài sản, đo lường số lợi nhuận kiếm được trên mỗi đồng tài sản được đầu tư.

Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản được tính như sau:


(*)Nhiều tác giả cộng chi phí lãi vay vào tử số vì họ xem chi phí lãi vay là chi phí
để đạt được nguồn tài trợ chứ không phải chi phí hoạt động [4].
Hay:
Tỷ suất lợi nhuậnSố vòng quay Tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu
x
của tài sản
=
trên tài sản

Lợi nhuận thuần Doanh thu thuầnLợi nhuận thuần
Doanh thu thuần
x
Tổng tài sản BQ
=
Tổng tài sản BQ
1.5.4.3, Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu:
Một thước đo quan trọng về khả năng sinh lợi từ quan điểm của chủ sở hữu là tỷ
suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Tỷ số này cho biết một đồng được chủ sở hữu đầu
tư kiếm được bao nhiêu lợi nhuận.


Một câu hỏ
i tự nhiên là: Tại sao có sự khác nhau giữa tỷ suất lợi nhuận trên tài
sản và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu? Câu trả lời nằm ở việc sử dụng đòn bẩy,
hoặc nguồn tài trợ từ nợ phải trả của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có nợ phải trả
mang lại lợi nhuận gọi là có đòn bẩy. Nếu doanh nghiệp kiế

m được lợi nhuận từ nguồn
nợ phải trả nhiều hơn so với số lãi phải trả cho các nguồn tài trợ đó, khi đó số chênh
lệch sẽ làm tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sỡ hữu. Đòn bẫy cũng có thể chống lại
doanh nghiệp. Một tình huống bất lợi phát sinh khi tỷ suất lợi nhuận trên tài sản nhỏ
hơn t
ỷ lệ lãi phải trả cho các nguồn tài trợ từ nợ phải trả [4].


18
Lợi nhuận mỗi cổ phiếu = Error!
1.5.4.4, Lợi nhuận mỗi cổ phiếu:
Ngoài các tỷ số trên, đối với các doanh nghiệp, một trong những thước đo khả
năng sinh lợi được sử dụng một cách rộng rãi nhất là lợi nhuận mỗi cổ phiếu của các
cổ phiếu thường.
Tỷ số này được tính như sau:
Các nhà đầu tư quan tâm đến tỷ số này do lợ
i nhuận là cơ sở để chi trả cổ tức và
gia tăng trong tương lai giá trị của cổ phiếu.
Thông tin về lợi nhuận mỗi cổ phiếu không thể so sánh được giữa các doanh
nghiệp do số lượng cổ phiếu khác nhau giữa các doanh nghiệp [4].
1.5.4.5, Tỷ lệ chi trả cổ tức:
Tỷ lệ chi trả cổ tức phản ánh mối quan hệ giữa cổ tức phân phối với l
ợi nhuận
mỗi cổ phiếu. Tỷ số này được tính như sau [4]:


1.5.5, Đánh giá năng lực của dòng tiền:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có ích trong việc dự đoán kết quả hoạt động trên cơ sở
năng lực sản xuất thực tế và kế hoạch. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng được sử dụng
để đánh giá việc mở r

ộng năng lực sản xuất tương lai, nhu cầu vốn đầu tư, nguồn của
các dòng tiền thu vào. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là cầu nối quan trọng giữa báo cáo
kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho biết các
dòng tiền thu vào và dòng tiền chi ra của một doanh nghiệp và khả năng thanh toán các
khoản nợ khi đáo hạn. Ngoài ra, báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp cho chúng ta
những thông tin quan tr
ọng về:
- Tính khả thi của việc tài trợ cho vốn đầu tư.
- Các nguồn tiền để tài trợ mở rộng.
- Phụ thuộc vào tài trợ bên ngoài
- Các chính sách phân phối lợi nhuận tương lai.
Tỷ lệ chi trả cổ tức = Error!
19


Tỷ suất dòng tiền/lợi nhuận = Error!
Tỷ suất dòng tiền/doanh thu = Error!
- Linh hoạt về tài chính trước những cơ hội và nhu cầu bất ngờ
Một số tỷ số liên quan đến các dòng tiền thường được sử dụng: Tỷ suất dòng
tiền/Lợi nhuận; Tỷ suất dòng tiền/Doanh thu; Tỷ suất dòng tiền/Tài sản; Dòng tiền tự
do; Tỷ suất đủ tiền; Tỷ suất tái đầu tư tiền [4].
1.5.5.1, Tỷ suấ
t dòng tiền / lợi nhuận:
Tỷ số này được sử dụng để đo lường khả năng tạo ra tiền từ hoạt động kinh
doanh trong mối quan hệ với lợi nhuận. Tỷ số này được tính như sau [4]:
Những vấn đề về dòng tiền có thể xảy ra nếu tỷ số này nhỏ hơn đáng kể so với 1.
1.5.5.2, Tỷ suất dòng tiền / Doanh thu:
Tỷ số này đ
o lường khả năng tạo ra tiền từ hoạt động kinh doanh ở mức doanh
thu khác nhau.

Tỷ số này có ích hơn khi được tính chi tiết cho các bộ phận, chẳng hạn cho từng
loại sản phẩm, khi đó, nhà quản trị có thể thấy được bộ phận nào tạo ra (hoặc sử dụng)
nhiều tiền nhất trong mối quan hệ với doanh thu.
Tỷ số này được tính như sau [4]:
1.5.5.3, Tỷ suất dòng ti
ền / Tài sản:
Tỷ số này đo lường khả năng tạo ra tiền từ hoạt động kinh doanh trong mối quan
hệ với tài sản.


Các nhà quản trị của doanh nghiệp có thể cải thiện kết quả dựa vào thước đo này
bằng cách hạn chế đầu tư vào tài sản cố định. Vì mục đích cải thiện kết quả qua tỷ số
này, máy móc thiết bị cũ có th
ể không được thay thế kịp thời. Điều này có thể làm
giảm năng lực sản xuất khi thiết bị hư hỏng. Tỷ số này có thể làm cho các nhà quản trị
Tỷ suất dòng tiền/tổng tài sản= Error!


20
Dòng tiền tự do = Dòng tiền thuần từ HĐKD – cổ tức –Vốn đầu tư thuần
Tỷ suất đủ tiền =
Error!
Tỷ suất tái đầu tư tiền =
Error!


dè dặt đối với các sản phẩm mới do họ có thể không muốn đầu tư vào thiết bị hoặc sản
phẩm mà họ chưa có kinh nghiệm với nhu cầu đầu tư lớn mà khả năng hoàn vốn
không chắc chắn [4].
1.5.5.4, Dòng tiền tự do:

Tỷ số này đo lường số tiền còn lại từ hoạt động kinh doanh sau khi chi tr
ả cổ tức
và các nhu cầu đầu tư.
Tỷ số này được tính như sau:
Dòng tiền tự do nếu là số dương chính là số tiền có thể sử dụng cho các hoạt
động kinh doanh sau khi chi trả cổ tức và các nhu cầu đầu tư để duy trì năng lực sản
xuất ở mức hiện hành. Khả năng linh hoạt tài chính và mức độ tăng trưởng của doanh
nghiệp phụ thuộc vào mức
độ đầy đủ của dòng tiền tự do [4].
1.5.5.5, Tỷ suất đủ tiền:
Tỷ suất này đo lường khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra đủ tiền để
trang trãi nhu cầu vốn đầu tư, nhu cầu đầu tư vào hàng tồn kho, và chi trả cổ tức. Tỷ số
này được tính như sau:
Ở tỷ số này, tổng số ba năm thường được sử dụng trong tính toán nhằ
m loại bỏ
các tác động mang tính chu kỳ và các tác động bất thường khác [4].
1.5.5.6, Tỷ suất tái đầu tư tiền:
Tỷ số này đo lường tỷ lệ tiền được giữ lại để tái đầu tư cho cả nhu cầu thay thế và
mở rộng hoạt động kinh doanh. Tỷ số này được tính như sau:

21


P/E (lần) = Error!
1.5.6, Các tỷ số kiểm tra thị trường:
Thị giá cổ phiếu của một doanh nghiệp được các nhà phân tích quan tâm do nó
phản ánh những gì mà các nhà đầu tư nghĩ về một doanh nghiệp tại một thời điểm. Thị
giá là giá mà người ta mua và bán cổ phiếu. Nó cung cấp thông tin về việc nhà đầu tư
xem xét lợi nhuận và rủi ro tiềm tàng liên quan đến việc nắm giữ cổ phiếu của một
doanh nghi

ệp. Tuy nhiên, thông tin này không chỉ được xem xét một cách đơn giản chỉ
dựa vào chính thị giá của cổ phiếu. Các doanh nghiệp khác nhau ở số lượng cổ phiếu
lưu hành, số lợi nhuận và cổ tức phân phối. Do đó, thị giá phải đực xem xét trong mối
tương quan với lợi nhuận mỗi cổ phiếu, cổ tức phân phối mỗi cổ phiếu. Điều này đạt
được qua tỷ số
giá trên lợi nhuận, cổ tức mang lại [4].
1.5.6.1, Tỷ số giá cả trên lợi nhuận (P/E):
Tỷ số giá cả trên lợi nhuận đo lường mối quan hệ giữa thị giá mỗi cổ phiếu và lợi
nhuận mỗi cổ phiếu của một doanh nghiệp, có thể tính P/E như sau:


P/E rất có ích và nó được sử dụng rộng rãi vì nó cho phép so sánh giữa các doanh
nghiệp. Khi P/E của một doanh nghiệp cao hơn một doanh nghiệp khác,
điều đó
thường có nghĩa là các nhà đầu tư cảm thấy rằng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng
trưởng với tốc độ nhanh hơn các doanh nghiệp khác. Mặt khác, P/E thấp thường có
nghĩa các nhà đầu tư đánh giá tiêu cực hơn [4].

1.5.6.2, Cổ tức mang lại:
Cổ tức mang lại là một thước đo lợi nhuận thu lại cho một nhà đầu tư vào một cổ
phiếu. Nó được xác định bằng cách chia cổ tức phân phối mỗi cổ phiếu cho thị giá mỗi
cổ phiếu. Công thức tính cổ tức mang lại như sau:


Cổ tức mang lại = Error!


22
Giá trị sổ sách mỗi cổ phiếu = Error!
Cổ tức mang lại chỉ là phần trong tổng số lợi nhuận thu được từ việc đầu tư vào

Doanh nghiệp của nhà đầu tư. Nhà đầu tư phải cộng thêm hoặc trừ bớt tỷ lệ biến động
của giá thị trường (lên hoặc xuống) của cổ phiếu [4].
1.5.6.3, Giá trị sổ sách mỗi cổ phiếu:
Giá trị
sổ sách mỗi cổ phiếu là tỷ số cho biết số tiền mỗi cổ đông nắm giữ mỗi cổ
phiếu thường được phân phối sau khi toàn bộ tài sản được bán với giá trị trên bảng cân
đối kế toán (giá trị sổ sách) và trả nợ cho tất cả các chủ nợ. Tỷ số này hoàn toàn dựa
vào giá trị lịch sử. Công thức để tính giá trị sổ sách mỗi cổ phiếu nh
ư sau [4]:


Tóm tắt:

Dữ liệu trên báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài chính và kết qủa
họat động của doanh nghiệp. Thông qua phân tích báo cáo tài chính, các nhà phân tích
có thể đánh giá được khái quát tình hình tài chính, xác định được đâu là điểm mạnh,
điểm yếu để nghiên cứu sâu hơn. Cũng thông qua phân tích báo cáo tài chính, các nhà
phân tích còn có thể đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn, khả năng sinh lợi, khả
năng thanh toán dài hạn, khả năng của các dòng tiền, khả năng thành công trên thị
trường chứng khoán [4].
Chương này giúp cho người đọc thấy được vai trò quan trọng của việc phân tích
tình hình tài chính, cung cấp những kỹ thuật về phân tích báo cáo tài chính: như phân
tích theo chiều ngang, phân tích xu hướng, phân tích theo chiều dọc, phân tích tỉ số.
Trong chương sau, tác giả sẽ sử dụng các kỹ thuật trên để phân tích tình hình tài chính
của công ty cổ phần bao bì Biên Hòa.

23


CHƯƠNG 2:


PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN BAO BÌ BIÊN HÒA

2.1. TÌNH HÌNH TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ TỔ
CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BAO BÌ BIÊN HÒA:
2.1.1, Tình hình tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh tại
C
C
ô
ô
n
n
g
g


t
t
y
y


C
C




p

p
h
h


n
n


b
b
a
a
o
o


b
b
ì
ì


B
B
i
i
ê
ê
n

n


H
H
ò
ò
a
a:




2
2
.
.
1
1
.
.
1
1
.
.
1
1
,
,


Lịch sử hình thành và phát triển:
a. Giới thiệu chung [10]:
Tên Công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN BAO BÌ BIÊN HÒA
Tên tiếng Anh: BIEN HOA PACKAGING COMPANY
Tên viết tắt: SOVI

Trụ sở chính: đường số 7, KCN Biên Hoà 1, tỉnh Đồng Nai.
Tel: 061.3836121 - 061.3836122 Fax: 061.3836030
E-Mail:

b. Quá trình hình thành và phát triển [10]:
Sản phẩm bao bì là sản phẩm được dùng trong hầu hết các ngành công
nghiệp. Vì vậy, sự phát triển kinh tế Việt Nam kéo theo sự phát triển của ngành bao bì
nói chung và của Sovi nói riêng.
Ó 1968 khi mới thành lập SOVI, tiền thân là nhà máy sản xuất bao bì giấy
gợn sóng đầu tiên tại miền nam Việt Nam với công nghệ tiên tiến của Nhật Bản, công
suất thiết kế 4.000 tấn/năm. SOVI luôn khẳng định uy thế trên th
ương trường trong
ngành, tạo được uy tín và xây dựng được hình ảnh thương hiệu tạo khả năng cạnh
tranh cao.
Ó Năm 1978, nhà máy này được Nhà nước tiếp quản và chuyển thành
doanh nghiệp quốc doanh được lấy tên là nhà máy bao bì Biên Hòa. Khi được tiếp
quản, nhà máy có công suất thiết kế toàn bộ dây chuyền thiết bị là 5.000 tấn/năm,
chuyên sản xuất thùng Carton 3 lớp, 5 lớp, và sản lượng bình quân chỉ chiếm khoảng
4.000 – 4.500 tấn/năm.


24
Ó Năm 1997 với việc đầu tư mới dây chuyền công nghệ, thiết bị hiện đại
đã nâng công suất lên 20.000 tấn / năm và trở thành Nhà sản xuất bao bì carton gợn

sóng hàng đầu của Việt Nam.
Ó Năm 2000 Đầu tư thêm phân xưởng sản xuất hộp giấy cao cấp với dây
chuyền công nghệ offset hiện đại của Đức, Ý, Thuỵ Sĩ, Nhật Bản.
Ó Thự
c hiện chủ trương của Nhà nước, với mục đích nâng cao năng lực
sản xuất và tính tự chủ trong kinh doanh, tháng 9/2003, nhà máy chính thức chuyển
sang hình thức Công ty Cổ phần, lấy tên là Công ty Cổ phần Bao bì Biên Hoà trực
thuộc Tổng Công ty Công nghiệp Thực phẩm Đồng Nai, vẫn duy trì tên thương hiệu là
“SOVI”.
Ó Từ 2004 đến 2006 SOVI hoạch định sự phát triển mở rộng và xây
dựng thêm nhà máy với 4.5 hecta mặt bằng diện tích trên đường s
ố 3, khu Công
nghiệp Biên Hoà 1, tỉnh Đồng Nai. Năm 2006, chính thức hoạt động nhà máy mới với
½ của diện tích xây dựng, theo dự án sẽ hoạt động 100% diện tích xây dựng vào đầu
năm 2008.
2.1.1.2, Chức năng, nhiệm vụ của Công ty:
a. Chức năng:

Sản xuất, kinh doanh bao bì giấy và giấy; kinh doanh nguyên vật liệu liên
quan đến bao bì và giấy.
b. Nhiệm vụ
:
- Công ty Cổ phần Bao bì Biên Hòa được tổ chức và hoạt động tuân thủ
theo Luật doanh nghiệp 2005, các Luật khác có liên quan và Điều lệ Công ty.
- Đảm bảo thực hiện đúng các chế độ hạch toán kinh tế do nhà nước ban
hành
- Quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản, vật tư, tiền vốn, máy móc, thiết bị và
lao động. Bảo tồn vốn và không ngừng phát triển đồng vốn cho công ty.
- Thực hiện phân phố
i theo lao động, chăm lo không ngừng cải thiện điều

kiện làm việc, đời sống vật chất tinh thần, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa kỹ
thuật chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên.

25


2.1.1.3, Quy mô Công ty:
Tính đến ngày 03.03.2009, quy mô Công ty như sau:
* Quy mô vốn [2]:

Bảng 2.1
: Bảng cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn

Danh mục

Số lượng chứng khoán
Giá trị
VNĐ
Tỷ lệ (%)
Cổ đông nhà nứơc
2.081,940 20,819,400,000 53.38%
Cổ đông đặc biệt:
317,890 3,178,900,000 8.15%
+ Cổ đông sáng lập 152,190 1,521,900,000 3.90%
+ Ban Kiểm soát 56,280 562,800,000 1.44%
+ Hội đồng quản trị(*) 109,420 1,094,200,000 2.81%
Cổ đông cá nhân
1,500,170 15,001,700,000 38.47%
Tổng cộng 3,900,000 39,000,000,000 100%

Nguồn: Phòng kế toán [2]
* Quy mô lao động [2]:

Tổng số lao động: 543 người, trong đó nam: 453 người, nữ: 90 người.
Bảng 2.2
: Quy mô lao động
Phân theo loại hình lao động
Số người
Lao động gián tiếp 79
Lao động phục vụ sản xuất 43
Lao động trực tiếp 421
Nguồn: Phòng kế toán [2]
* Diện tích nhà máy [2]:

Tổng diện tích đất Công ty đang quản lý & sử dụng: 62,600 m
2
,

trong đó:
- Trụ sở văn phòng và phân xưởng offset: 13,658 m
2

- Phân xưởng Carton : 45,000 m
2

- Phân xưởng xeo : 3,942 m
2

2.1.1.4, Tổ chức bộ máy quản lý:








×