Lời mở đầu
Đất nước ta từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của nền kinh tế, chuyển
nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế
hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng
XHCN đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng và có ý nghĩa , được dư
luận trong và ngoài nước đánh giá là hết sức đúng đắn .
Đường lối kinh tế của Việt Nam hiện nay là “ tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ” Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010, mục
tiêu mà Đảng và nhà nước ta đặt ra là sự nghiệp công hoá và hiện đại hoá đất nước .
Đây là mục tiêu quan trọng của đất nước ta trong trong quá trình vươn lên thoát
khỏi sự tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới .
Để thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá , “ vốn “ là một nhân tố được đặt
lên hàng đầu . Tiềm năng kinh tế nước ta có , nguồn lao động trong nước lại dồi dào
, câu hỏi cấp thiết đặt ra hiện nay là làm sao để có vốn đầu tư khai thác? Tựu chung
lại có hai loại nguồn vốn có thể thu hút : vốn trong nước và vốn nước ngoài . Trong
đó vốn trong nước giữ vai trò chủ yếu , vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Vốn
trong nước rất nhiều nhưng lại có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi thông,
thu hút được ? Thực tế , trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, có rất nhiều chủ thể,
thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu
về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận được là huy động vốn qua các
trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM) - là kênh quan trọng nhất, có
hiệu quả nhất vì trong nền kinh tế , NHTM được coi là trung gian tài chính lớn nhất,
quan trọng nhất. Nền kinh tế của một nước chỉ phát triển với tốc độ cao và ổn định
khi có chính sách tài chính, tiền tệ đúng đắn và hệ thống ngân hàng hoạt động đủ
mạnh, có hiệu quả cao, có khả năng thu hút, tập trung các nguồn vốn và phân bổ
có hiệu quả các nguồn vốn vào các ngành sản xuất.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này , sau một thời gian
thực tập , nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Bắc Hà Nội, mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về công tác huy động vốn của
chi nhánh , em đã mạnh dạn chọn đề tài : “Giải pháp nâng cao chất lượng công tác
huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM) “ là
chuyên đề tốt nghiệp.
Đề tài thực hiện gồm có 3 chương:
Chương I: NHTM và hoạt động huy động vốn tại NHTM.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại các trung gian tài chính -
Ngân hàng thương mại (NHTM).
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng công tác huy
động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM).
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo Lê Thanh Tâm và ban giám đốc
cũng như các anh chị trong phòng kế hoạch Chi nhánh NHNo & PTNTHN Bắc Hà
Nội đ• hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Chương I: Nguồn vốn huy động và chất lượng công tác huy động vốn trong ngân
hàng thương mại.
1.1 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại .
1.1.1 Khái niệm và vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế .
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của
nền sản xuất hàng hoá. Trải qua hàng trăm năm , đến nay hoạt động của các ngân
hàng thương mại đã trở thành một yếu tố không thể thiếu gắn liền với nền kinh tế
của mọi quốc gia trên thế giới .
Ngân hàng là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá , một động lực quan
trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Với vai trò đó, ngân hàng không thể
đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, mỗi nước đều xây dựng
những khung pháp lý quy định, giới hạn hoạt động của ngân hàng. Mỗi nước khác
nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau. Thông thường,
người ta phải dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt động của nó trên thị
trường tài chính.
Trong điều 1 Luật ngân hàng của Pháp ( ngày 13/06/ 1941 ) có ghi : “ Ngân hàng là
những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công
chúng dưới hình thức ký thác hay dưới hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ , trong các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán ”.
Theo pháp lệnh ngân hàng , hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày
24/05/1990 ( điều 1 , khoản 1 ) của Việt Nam : “ Ngân hàng thương mại là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay , thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán ”.
NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế: cơ sở nền sản xuất và
lưu thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt động của
các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình nhất là chức
năng trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Sự đóng góp này thể hiện như sau:
Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá
nhân, mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ quá trình
sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư ) thông qua nghiệp vụ tín dụng , ngân hàng
thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho quá trình
tái sản xuất. Chính nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là
hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện cải thiện hoạt động kinh doanh
của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì vậy, chúng ta có thể
khẳng định chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
chính là ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có hiệu
quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các
NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông. Hơn nữa,
bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dắt dẫn
các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường điều khiển chúng một cách có
hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm “Nhà nước điều
tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà , cung cấp vốn cho nền kinh
tế . Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay,hoạt động ngân hàng đã có
những bước tiến rất nhanh , đa dạng và phong phú hơn song ngân hàng vẫn duy trì
các nghiệp vụ cơ bản sau :
a, Nghiệp vụ huy động vốn :
Đây là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất , ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của
ngân hàng .Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau như huy
động dưới hình thức tiền gửi , đi vay , phát hành giấy tờ có giá . Mặt khác trên cơ sở
nguồn vốn huy động được , ngân hàng tiến hành cho vay phục vụ cho nhu cầu phát
triển sản xuất , cho các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương và cả nước .
Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng, tạo uy tín của ngân
hàng ngày càng cao, các ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh , mở rộng
quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và các tổ chức dân cư, mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng. Do đó các ngân hàng thương mại phải căn cứ vào chiến lược,
mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương . Từ đó đưa ra các loại
hình huy động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn trung, dài hạn nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước .
b, nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ sử dụng
vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định năng
lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường . Do vậy ngân hàng cần phải nghiên
cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho hợp lý nhất .
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn chung
thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành
công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch
tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng.
Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức
bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả
Hai là tiến hành đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu khác
nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi Ngân
hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ
kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng
còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các ngân hàng thương mại
có thể tiến hành là:
Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các
doanh nghiệp, các công ty khác.
Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản
xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng loạt các nhân
tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân hàng là
một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng không
thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi
nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm
bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do
Trung ương đề ra.
c, nghiệp vụ khác :
Là trung gian tài chính , ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó
là ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ .
Để thanh toán nhanh chóng , thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho
khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc , uỷ nhiệm chi, nhờ
thu , các loại thẻ …cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử , kết nối các quỹ và cung
cấp tiền giấy khi khách hàng cần . Mặt khác ,các ngân hàng thương mại còn tiến
hành môi giới, mua, bán chứng khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành
chứng khoán cho các công ty . Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ uỷ
thác như uỷ thác cho vay , uỷ thác đầu tư , uỷ thác cấp phát , uỷ thác giải ngân và
thu hộ…
Như vậy ,các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và
phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay.
Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với
nhau.Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu
cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các
nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính là thu
hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có hiệu
quả.
1.2 Nguồn vốn huy động và hiêu quả huy động vốn trong ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm vốn huy động trong ngân hàng thương mại
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài chính
lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai trò chủ
đạo của các ngân hàng thương mại đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng
đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên hàng
đầu và công cụ duy nhất mà các NHTM phải có trước tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác nhau . Để bắt đầu hoạt
động của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định , được gọi
là vốn ban đầu . Trong quá trình hoạt động , ngân hàng gia tăng khối lượng vốn của
mình thông qua các hoạt động huy động vốn như nghiệp vụ tiền gửi , nghiệp vụ đi
vay và các nghiệp vụ khác ( dịch vụ uỷ thác , trung gian thanh toán…)
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được từ các tổ chức
kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín
dụng , thanh toán , các nghiệp vụ kinh doanh khác… Vốn huy động chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại , nó đóng vai trò rất quan
trọng trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng .
1.2.2 Tầm quan trọng của vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng thương mại .
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt động
của ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh
chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh
loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường
chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng
được mã hoá bằng công thức T-T’, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là
nguồn vốn thu về sau một quá trình đầu tư, tiến hành hoạt động kinh doanh: T’>T.
Từ công thức này, có thể khẳng định ngân hàng nào trường vốn là ngân hàng có
nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn
điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn
vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương
trường.
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau , nếu không có uy tín thì ngân
hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín được thể
hiện ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh
toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại
trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của
ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với khả năng huy
động vốn cao , ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở
rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả, góp phần vừa giữ được chữ
tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thương trường.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp
các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng vốn chính là
yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh: quy
mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiền đề cho
việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng
trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô,
khối lượng tín dụng, chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết quả của sự gia tăng trên
giúp ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân tán rủi ro, tạo thêm vốn
cho ngân hàng và khi đó, tất yếu trên thương trường sức cạnh tranh của ngân hàng
sẽ tăng lên.
1.2.3 Nguồn vốn huy động
1.2.3.1 Nguồn tiền gửi :
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương
mại . Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động , nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản
tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy
động tiền của các doanh nghiệp , các tổ chức và của dân cư .
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng , chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng . Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền
có chất lượng ngày càng cao , các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức
huy động khác nhau .
a, phân loại theo thời hạn :
- tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác định,
khách hàng (cá nhân , tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích của
khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh toán khi có
nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là bộ
phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời chứ không phải là khoản để dành.
-Tiền gửi có kỳ hạn :
Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời gian xác
định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến
thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm hoặc
trên thế nữa. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước thời hạn
của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã được nới lỏng: các
ngân hàng cho phép người gửi tiền được rút ra trước hạn nhưng phải báo trước cho
ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trước người gửi sẽ không
được hưởng lãi suất hoặc rất thấp.
b, phân loại theo đối tượng :
- tiền gửi của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến.Trong
điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng , họ đều có thể gửi tiết kiệm với mục
tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm , đặc biệt là nhu cầu
bảo toàn . Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm , các ngân hàng đều khuyến
khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách ở rộng mạng
lưới huy động , đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp
dẫn …
- tiền gửi của các doanh nghiệp , các tổ chức xã hội .
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị
này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong
thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này
thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu
cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải
thanh toán nên ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định, điều này lí giải
vì sao ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn nhất trong lĩnh vực này, có chi
phí thấp và được sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy
nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại
hình của doanh nghiệp.
c, phân loại theo mục đích :
- tiền gửi tiết kiệm :
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào ngân hàng,
nhằm hưởng lãi suất theo qui định . Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập bằng tiền
của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức tín dụng . Nó là một dạng
đặc biệt của tích luỹ tiền tệ, trong tiêu dùng cá nhân . Khi gửi tiền người gửi được
giao một sổ tiết kiệm coi như giấy chứng nhận tiền gửi vào ngân hàng . Đến thời
hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền lãi trên
tổng số tiền gửi tiết kiệm .Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm không
kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn .
- tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán .
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ và thanh toán hộ . Trong phạm vi số dư cho phép , các nhu cầu chi trả của
doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được ngân hàng thực hiện . Các khoản thu bằng tiền
của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo
yêu cầu . Lãi suất của khoản tiền này rất thấp , thay vào đó chủ tài khoản có thể
được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp.
- tiền gửi “ lai ” ( vừa tiết kiệm vừa giao dịch )
Đây là loại tiền gửi mà người gửi vừa có thể yêu cầu ngân hàng thanh toán hộ , vừa
có thể hưởng lãi suất định kỳ như một khoản tiền gửi tiết kiệm.Tuy nhiên , lãi suất
của khoản tiền này thường không cao như lãi suất tiền gửi tiết kiệm bởi tính cố định
của khoản gửi , ngân hàng có thể không sử dụng được hoặc sử dụng rất ít số vốn
huy động này để cho vay hoặc đầu tư.
1.2.3.2 Nguồn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại . Tuy nhiên khi cần
các ngân hàng thường vay mượn thêm . Tại nhiều nước , ngân hàng Trung ương
thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy nhiều ngân
hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả
khi khả năng huy động bị hạn chế .
- vay NHNN
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của các ngân hàng
thương mại Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ , ngân hàng thương mại thường vay
ngân hàng Nhà nước . Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái
chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ) . Thông thường , ngân hàng Nhà nước chỉ chiết khấu
cho những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn , khả năng trả nợ
cao ) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ . Trong
điều kiện chưa có thương phiếu , ngân hàng nhà nước cho ngân hàng thương mại
vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định .
- vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng
khác trên thị trường liên ngân hàng . Các ngân hàng đang có lượng dự trữ vượt yêu
cầu sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn .
Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để
đảm bảo thanh khoản . Như vậy nguồn vay các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu
cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế
cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước .
- vay trên thị trường vốn
Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài chính.
Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu về vốn, do vậy việc ngân hàng
thiếu vốn là điều không thể tránh khỏi. Trong những trường hợp này, ngân hàng có
thể sử dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính: phát hành các giấy tờ
có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc chuyển
nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả
thuận giữa ngân hàng và khách hàng . Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và phát
hành trái phiếu. Trái phiếu là một giấy tờ có giá , xác nhận khoản nợ của khách
hàng đối với người chủ ngân hàng với cam kết như thanh toán một số tiền xác định
vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành
nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh
doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh doanh…
1.2.3.3 Nguồn khác
Ngoài các nguồn trên , ngân hàng còn thực hiện huy động vốn thông qua nguồn uỷ
thác , nguồn trong thanh toán , các nguồn khác.
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay , uỷ thác
đầu tư , uỷ thác cấp phát , uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên
nguồn uỷ thác tại ngân hàng . Ngoài ra , các hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả , tiền ký
quỹ để mở L/C …) . Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả …cũng
góp phần làm tăng nguồn huy động trong công tác huy động vốn của ngân hàng
thương mại .
1.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác huy động vốn
1.2.4.1 Chi phí huy động vốn :
a, Lãi suất huy động
Lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế. Người
gửi muốn một lãi suất cao , người vay lại muốn lãi suất thấp . Là trung gian đóng
vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên , ngân hàng phải tìm cách điều chỉnh mức lãi
suất sao cho hợp lý nhất đối với các bên , trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo
lợi ích của ngân hàng . Vì vậy trong huy động vốn , mỗi ngân hàng đều cố gắng áp
dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí
huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một mức
lãi suất chấp nhận được trên thị trường . Chi phí huy động được đánh giá qua hệ
thống các chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân (tính bằng bình quân gia quân gia
quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất huy động của
từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC.
Mặt khác , cũng với một mức chi phí trả lãi bình quân , sự đa dạng hoá trong lãi
suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết , Sự đa dạng hoá lãi
suất làm cho tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà ngân hàng đưa ra . Nếu
có chính sách lãi suất phù hợp , hiệu quả , ngân hàng sẽ tối thiểu hoá được chi phí
trong khi vẫn hoàn thanh kế hoạch về nguồn vốn .
b , Chi phí khác
Bên cạnh chi phí chính là lãi suất , trong quá trình huy động vốn còn có các chi phí
khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động , chi phí in ấn phát hành , chi phí
cơ sở vật chất , chi phí giao dịch quảng cáo … Tuy chi phí này chiếm một tỷ trọng
tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho
ngân hàng.
1.2.4.2 Các hình thức huy động vốn.
Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút nguồn
vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng càng nhiều. Vì
vậy độ đa dạng của các hìng thức huy động vốn chính là chỉ tiêu để đánh giá hiệu
quả của công tác huy động vốn ở các ngân hàng thương mại.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng các công cụ
ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh doanh, mỗi ngân
hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Thực tế, số lượng các công cụ huy động
càng nhiều thì ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút được vốn, tuy nhiên số
lượng các công cụ vốn lại bị hạn chế bởi khả năng quản lý của ngân hàng. Một ngân
hàng sử dụng nhiều công cụ huy động vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc
công tác huy động vốn của ngân hàng đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có
hiệu quả khi những công cụ đó thực sự thích hợp với ngân hàng. Cụ thể đối với các
ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng, đội nhũ cán bộ công nhân viên ngân
hàng có trình độ cao thì ngân hàng nên đa dạng hoá các loại công cụ huy động vốn.
Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ , mà ngân hàng phải đa dạng về kỳ hạn
huy động, loại tiền sử dụng nữa . Đó là khả năng huy động vốn với các kỳ hạn khác
nhau trong đó có cả nội tệ , ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao cho
người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý . Do vậy, để công tác huy động
vốn của ngân hàng thực sự đạt được hiệu quả cao, ngân hàng cần phải tính toán,
nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở năng lực bản thân đưa ra các
hình thức huy động đa dạng về kỳ hạn, loại tiền. Nếu những ngân hàng có quan hệ
quốc tế rộng thì nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ phải lớn, hay nếu có chiến lược
sử dụng vốn để cho vay dài hạn thì cần tăng cường huy động vốn trung và dài hạn.
1.2.4.3 Tính ổn định của nguồn vốn
Tính ổn định ở đây bao gồm ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu
nguồn.
Thật vậy, công tác huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn huy động
được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân hàng
hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh; cơ cấu vốn của
ngân hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với ngân hàng, do mỗi nguồn vốn
có những điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu
vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu “đầu ra”: cho vay, đầu tư, bảo lãnh
và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu
nguồn vốn huy động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của ngân hàng mà
còn chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi ngân hàng phải thường
xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Khối lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có
vai trò quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì cái mà
ngân hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc
này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho ngân hàng khi đưa ra quyết định cho
vay hay đầu tư nếu ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến
động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào.
1.2.4.4 Một số chỉ tiêu khác
Ngoài các chỉ tiêu chính trên , chất lượng công tác huy động vốn còn được đánh giá
qua một số chỉ tiêu :
Mức độ hoạt động của vốn huy động : Được đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử dụng
vốn . Hệ số sử dụng vốn càng tiến đến 1 càng tốt , điều này thể hiện nguồn vốn huy
động được sử dụng tối đa.
Mức độ thuận tiện khách hàng : Được đánh giá qua các thủ tục gửi tiền , rút tiền ,
các dịch vụ kèm theo của ngân hàng …nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí cho
khách hàng .
Thời gian để huy động một số lượng vốn nhất định .
Một số chỉ tiêu khác như : số lượng vốn bị rút ra trước thời hạn , kỳ hạn thực tế
của nguồn vốn…
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng công tác huy động vốn của ngân hàng
thương mại .
Những nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng thương mại được
xem xét qua hai nhóm nhân tố đó là : nhóm nhân tố mang tính khách quan và nhóm
nhân tố mang tính chủ quan.
1.2.5.1 Nhân tố khách quan
Thứ nhất là môi trường pháp lý
Như chúng ta đã biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng, tác động hết
sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể việc huy động vốn
và sử dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ
lệ lạm phát. Chính vì lẽ đó, hoạt động của ngân hàng phải chịu sự quản lý chặt chẽ
gắt gao hơn so với các doanh nghiệp khác. Thực tế là ngân hàng phải chịu sự điều
chỉnh của rất nhiều chính sách, các quy định của chính phủ , của NHTW; đó là Luật
các tổ chúc tín dụng, luật kinh tế, luật dân sự, hàng loạt hệ thống các quy định cụ
thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn mức. Trong sự ràng buộc về luật pháp
này thì các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn chắc chắn sẽ bị thay đổi và kết quả
làm ảnh đến quy mô và hiệu quả của việc huy động vốn. Bởi khi chính sách của
Nhà nước, của NHTW: chính sách tiền tệ, tài chính, lãi suất, tín dụng thay đổi sẽ
ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng nguồn vốn của NHTM.
Thứ hai là môi trường kinh tế - chính trị - xã hội
Hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng không thể
thoát ly khỏi môi trường kinh doanh đặc biệt là môi trường kinh tế - chính trị - xã
hội .
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn
luôn bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng , thu nhập , tình trạng thất nghiệp
, lạm phát … tác động trực tiếp . Khi nền kinh tế tăng trưởng , sản xuất phát triển ,
từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn , do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn
của ngân hàng thuận lợi . Ngược lại , khi nền kinh tế suy thoái , lạm phát tăng làm
cho môi trường đầu tư của ngân hàng bị thu hẹp khiến quá trình tạo vốn của ngân
hàng gặo khó khăn .
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn định.
Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ đến
quan hệ vốn của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.
Điều này cũng là nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân hàng.
Nhân khẩu học cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới nguồn vốn thông qua việc phân
bổ dân cư , trình độ , lứa tuổi …Ngân hàng cũng nên xem xét yếu tố này trong hoạt
động huy động vốn của mình
Thứ ba là môi trường văn hoá.
Môi trường văn hoá là yếu tố quyết định đến tập quán , tâm lý , thói quen trong việc
sử dụng tiền của dân cư . Và những tập quán tiêu dùng này sẽ ảnh hưởng đến
nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng . Nếu ở những vùng mà người dân quen sử dụng
số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ thì việc huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp
rất nhiều khó khăn .
Hơn nữa , mức độ chấp nhận rủi ro của xã hội , thói quen tích luỹ ảnh hưởng đến
quyết định của những thành viên trong xã hội về phương thức tiêu dùng và tiết kiệm
, giữ tiền ở nhà , gửi tiền ở ngân hàng , đầu tư vào chứng khoán hoặc bất động sản
…
Thứ tư là yếu tố cạnh tranh trên thị trường tài chính
Hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại hình
ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi ngân hàng . Do đó , cạnh tranh có xu
hướng gia tăng mạnh , làm giảm đi sự khác biệt giữa ngân hàng thương mại với các
tổ chức tài chính phi ngân hàng . Xu hướng cạnh tranh trong ngành ngân hàng càng
gia tăng do các yếu tố như thay đổi chính sách tài chính tiền tệ , đổi mới tài chính
của doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ…
Cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới nhiều hình thức . Các ngân hàng có thể áp dụng
những điều kiện giống nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền . Vì lý do này , các
sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng và được phổ biến nhanh
chóng . Thêm vào đó , nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng có thể huy động tiền
gửi có kỳ hạn , thậm chí còn cung cấp các tài khoản không kỳ hạn .
1.2.5.2 Nhân tố chủ quan
Các hình thức huy động vốn và chất lượng các dịch vụ do ngân hàng cung ứng , và
hệ thống màng lưới .
Hình thức huy động vốn của ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng linh hoạt
và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn, xuất phát từ sự
khác nhau về nhu cầu và tâm lý trong dân cư . Chính sự đa dạng hoá các hình thức
huy động vốn của Ngân hàng đã giúp cho mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp tìm
được cho mình một hình thức đầu tư hợp lý nhất.
Khi các ngân hàng thương mại đưa ra các hình thức huy động vốn ngày càng đa
dạng và hợp lý, cùng với việc mở rộng hệ thống màng lưới hoạt động, và nâng cao
chất lượng hoạt động các dịch vụ ngân hàng, từ đó thu hút ngày càng nhiều khách
hàng đến với ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc huy động
vốn . Ngược lại khi các hình thức huy động vốn của ngân hàng chưa đa dạng,
phong phú, chất lượng hoạt động dịch vụ chưa cao, hệ thống màng lưới còn ít, chưa
thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch với ngân hàng, thì nó sẽ ảnh hưởng
không tốt tới huy động vốn của ngân hàng .
Hiện nay với sự đổi mới sâu sắc của ngành ngân hàng, các ngân hàng thương mại
không ngừng đổi mới về khoa học, công nghệ, về phong cách giao dịch, mở rộng
các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng, phát triển thêm mạng lưới hoạt động từ
chi nhánh cấp 3, cấp 4, các ngân hàng lưu động, và các ngân hàng hoạt động trong
các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ
Chất lượng hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tiền gửi
vào hệ thống ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn làm nhiệm vụ khơi tăng các
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, thì nghiệp vụ sử dụng vốn thực hiện sử dụng
các nguồn vốn đó vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để đem lại khả năng sinh lời,
thu lợi nhuận về cho ngân hàng .Do vậy nếu nghiệp vụ sử dụng vốn không hiệu quả
tất yếu dẫn đến việc huy động vốn bị thu hẹp lại . Khi sử dụng vốn kém hiệu quả,
làm thất thoát vốn nhiều dẫn đến lòng tin của dân chúng vào ngân hàng bị giảm đi .
Từ đó sẽ rất khó khăn cho các hình thức huy động các nguồn vốn nhàn rỗi . Mặt
khác hoạt động tín dụng hiệu quả tạo cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
kinh doanh có hiệu quả, thu nhập x• hội ngày càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm, đời
sống của dân cư ngày càng nâng cao, nguồn vốn nhàn rỗi ngày càng tăng, tạo cho
nguồn vốn ngân hàng huy động ngày càng tăng trưởng để thực hiện đầu tư cho các
chu kỳ sản xuất tiếp theo .
Uy tín của ngân hàng.
Có thể gọi đây chính là tài sản vô hình của ngân hàng. Uy tín bao gồm uy tín của
ngân hàng trong toàn hệ thống, của các thành viên trong hội đồng quản trị, ban giám
đốc. Sự nổi tiếng của ngân hàng là tài sản quý trong công tác huy động vốn vì trong
lòng thị trường ngân hàng đã tạo một hình ảnh riêng, khi đó khách hàng sẽ tin tưởng
vào ngân hàng, giúp ngân hàngcó khả năng ổn định khối lượng vốn huy động, tiết
kiệm chi phí huy động (thực tế khi ngân hàng có tiếng tăm, họ dễ dàng thu hút vốn
hơn các ngân hàng khác ngay cả khi lãi suất tiền gửi của ngân hàng đưa ra có thấp
hơn).
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến
lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của
mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức đồng thời
dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai. Thông qua
chiến lược kinh doanh ngân hàng ngân hàng sẽ có thể quyết định thu hẹp hay mở
rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, có thể thay đổi tỷ lệ các loại nguồn, tăng
hay giảm chi phí huy động. Với tác dụng to lớn như vậy, nếu chiến lược kinh doanh
được lựa chọn đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách tối đa thì công tác
huy động vốn sẽ phát huy được hiệu quả.
Trình độ công nghệ ngân hàng.
Trình độ công nghệ ngân hàng bao gồm cơ sở vật chất phục vụ ngân hàng; các loại
hình dịch vụ ngân hàng cung ứng; trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên ngân
hàng.
Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến mang
lại lợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thuận lợi và phục vụ cho
khách hàng tốt hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng sẽ tin tưởng
yên tâm hơn khi gửi tiền ở một ngân hàng có trình độ công nghệ trình độ công nghệ
ngân hàng cao. Và khi khách hàng đã thực sự yên tâm gửi tièn thì ngân hàng dễ
dàng trong việc huy động.
Năng lực , trình độ , đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng .
Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự , tài sản nợ , tài sản có , tức là trong quá
trình hoạt động kinh doanh của mình , ngân hàng dự đoán được những rủi ro xảy ra
, dự đoán được môi trường đầu tư của mình có hiệu quả hay không thì quá trình
hoạt động của ngân hàng đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín , tạo điều kiện thu
hút khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền.
Mặt khác , trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng càng cao , mọi thao tác nghiệp
vụ thực hiện nhanh chóng , chính xác , có hiệu quả ; thái độ phục vụ , tác phong
làm việc của cán bộ ngân hàng tốt , nhiệt tình , cởi mở , tạo thuận lợi cho khách
hàng sẽ gây được ấn tượng tốt đối với khách hàng , thu hút được nhiều khách hàng
hơn . Thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng đối với khách hàng có ảnh hưởng lớn
đến việc huy động vốn cho ngân hàng . Do đó , để thu hút khách hàng gửi tiền , đi
đôi với việc trau dồi kiến thức , nghiệp vụ , cán bộ ngân hàng phải thường xuyên
chú ý đến thái độ phục vụ của mình sao cho vừa lòng khách hàng .
Công tác quảng cáo , khuyến mãi…
Các ngân hàng thương mại hiện nay đã từng bước học tập và ứng dụng nghệ thuật
thông tin quảng cáo , các hình thức khuyến mãi…Tuy việc đầu tư cho công tác này
còn hạn chế , nhưng có thể nói đây cũng là mặt mạnh của ngành ngân hàng trong
việc cạnh tranh để huy động tiền gửi . Thông tin quảng cáo , tiếp thị khuyến mại ,
các dịch vụ hậu mãi rõ ràng sẽ phát triển mạnh mẽ trong cơ chế thị trường . Và tuỳ
vào chu kỳ sống của sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp để các nhà quản trị
ngân hàng chọn thời điểm , thời gian sử dụng , chiến lược quảng cáo khuyến mãi
cũng như hậu mãi phù hợp.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại các trung gian tài chính - Ngân
hàng thương mại (NHTM)
1.1 Sơ lược về các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại (NHTM) .
1.1.1 Một số nét chính về NHNo&PTNT Việt Nam .
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo quyết định số 56 và 59 tháng 8 năm
1988 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sự ra đời của Ngân hàng nông nghiệp
Việt Nam theo yêu cầu cấp bách của nền kinh tế với mục đích chủ yếu là góp phần
tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, kiềm chế làm phát, ổn định tiền tệ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết nâng cao đời sống của nông dân.
NHNN&PTNT Việt Nam có vai trò là Ngân hàng quản lý Trung Ương, có hệ thống
chi nhánh rộng khắp trong cả nước từ tỉnh đến huyện, xã.