Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Nghiệp vụ hợp đồng xuất nhập khẩu và các điều khoản bảo hiểm cần thiết cho hàng theo đường biển doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.66 KB, 129 trang )

lời mở đầu
Sau khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà
nước định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát
triển mạnh mẽ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh hoà nhập với nền kinh tế
toàn cầu đang tiến theo hướng hội nhập ở mức độ cao. Đến hết tháng 3 năm 2000
trên cả nước có 2.405 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký trên 35,959 tỉ USD và vốn
thực hiện đạt trên 16 tỉ USD. Vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh qua các năm: Nếu
như thời kỳ 1991 - 1995 chiếm 24,44% từ 1996 đến nay chiếm khoảng 23,92% tổng
vốn đầu tư xã hội, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và là nguồn bù đắp
quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai, góp phần cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt ở mức tương đối
cao: Từ năm 1992-1997 tốc độ tăng trưởng bình quân là 8,5%, năm 1997 là 8,2%,
năm 1998 giảm đột ngột xuống còn 5,8%, năm 1999 giảm chỉ còn 4,8%, mục tiêu
năm 2000 là 5,5%-6% nhưng qua từng quý đã vượt chỉ tiêu và cả năm đạt sấp xỉ
6,7%. Lạm phát giảm liên tục từ ba con số xuống còn một con số hiện nay. Cùng
với sự mở cửa của nền kinh tế, các quan hệ thương mại quốc tế cũng ngày càng
được mở rộng, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá cũng ngày một gia tăng. Nếu
như kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 11,523 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt
11,636 tỷ USD thì sang năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đã đạt 14,3 tỷ USD tăng
24,1% và kim ngạch nhập khẩu đạt 15,2 tỷ USD tăng 30,63% so với năm 1999.
Do hoạt động xuất nhập khẩu tăng nhanh nên nhu cầu bảo hiểm đối với hàng
hoá xuất nhập khẩu ngày càng lớn và do hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu đã trở thành tập quán trong hoạt động ngoại thương nên nghiệp vụ này vẫn là
nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm.
Mặt khác, trao đổi buôn bán hàng hoá xuất nhập khẩu hiện nay vẫn được vận
chuyển chủ yếu bằng đường biển (khoảng 80% khối lượng hàng hoá) do ưu điểm
của loại hình vận chuyển này. Vì vậy, việc phát triển và hoàn thiện các vấn đề về
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là một
yêu cầu quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng và
trong toàn ngành bảo hiểm nói chung, nhất là trong điều kiện thị trường trong nước


và quốc tế có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
được ra đời, triển khai từ rất sớm và rất phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Song ở
Việt Nam hiện nay khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này còn gặp rất nhiều khó
khăn và nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết đặc biệt là về vấn đề nâng cao hiệu
quả kinh doanh nghiệp vụ. Vậy làm thế nào để giải quyết những vấn đề đó ? Nội
dung của chuyên đề này sẽ bổ sung thêm một số giải pháp tích cực nhằm hoàn
thiện, phát triển và nâng cao hiệu quả trong quá trình kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm này.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) được sự
định hướng của các thầy cô giáo trong bộ môn bảo hiểm cùng với sự động viên
khuyến khích của các cán bộ công ty PJICO, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Nâng
cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển ở công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex” để làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm ba chương:
Chương I : Những vấn đề chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển.
Chương II : Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển ở công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO).
Chương III : Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở PJICO trong thời
gian tới.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo CN-Nguyễn Thị Chính đã trực tiếp hướng
dẫn đề tài, các thầy cô trong bộ môn bảo hiểm cùng toàn thể các cán bộ công nhân
viên công ty bảo hiểm PJICO đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành luận văn này một cách tốt đẹp.
Là một sinh viên năm cuối, mặc dù được trang bị những kiến thức cơ bản song
do trình độ nhận thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên luận
văn không tránh khỏi được những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng

góp chân thành của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để luận văn này được hoàn
thiện hơn ./.
nội dung
Chương i : Những vấn đề chung về Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển
i. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
1. Trên thế giới:
Bảo hiểm hàng hải đã có lịch sử rất lâu đời. Nó ra đời và phát triển cùng với sự
phát triển của hàng hoá và ngoại thương. Khoảng thế kỷ V trước công nguyên, vận
chuyển hàng hoá bằng đường biển đã ra đời và phát triển người ta biết tránh tổn thất
toàn bộ một lô hàng bằng cách chia nhỏ, phân tán chuyên chở trên nhiều thuyền
khác nhau. Đây có thể nói là hình thức sơ khai của bảo hiểm hàng hoá. Đến thế kỷ
thứ XII thương mại và giao lưu hàng hoá bằng đường biển giữa các nước phát triển.
Nhiều tổn thất lớn xảy ra trên biển vì khối lượng và giá trị của hàng hoá ngày càng
tăng, do thiên tai, tai nạn bất ngờ, cướp biển gây ra làm cho giới thương nhân lo
lắng nhằm đối phó với các tổn thất nặng nề có khả năng dẫn tới phá sản họ đã đi
vay vốn để buôn bán kinh doanh. Nếu hành trình gặp phải rủi ro gây ra tổn thất toàn
bộ thì các thương nhân được xoá nợ, nếu hành trình may mắn thành công thì ngoài
vốn vay họ còn phải trả chủ nợ một khoản tiền lãi với lãi suất rất cao. Lãi suất cao
và nặng nề này có thể coi là hình thức ban đầu của phí bảo hiểm.
Năm 1182 ở Lomborde - Bắc ý, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá đã ra đời, trong
đó người bán đơn này cam kết với khách hàng sẽ thực hiện nội dung đã ghi trong
đơn. Từ đó hợp đồng bảo hiểm, người bảo hiểm đã ra đời với tư cách như là một
nghề riêng độc lập.
Năm 1468 tại Venise nước ý đạo luật đầu tiên về bảo hiểm hàng hải đã ra đời.
Sự phát triển của thương mại hàng hải đã dẫn đến sự ra đời và phát triển mạnh mẽ
của bảo hiểm hàng hải và hàng loạt các thể lệ, công ước, hiệp ước quốc tế liên quan
đến thương mại và hàng hải như: Mẫu hợp đồng bảo hiểm của Lloyd's 1776 và Luật
bảo hiểm của Anh năm 1906 (MiA - Marine insurance Act 1906), công ước

Brucxen năm 1924, Hague Visby 1986, Hămbua năm 1978, Incoterms
1953,1980,1990,2000 Các điều khoản về bảo hiểm hàng hải cũng ra đời và ngày
càng hoàn thiện .
Nói về bảo hiểm hàng hải không thể không nói tới nước Anh và Lloyd's. Nước
Anh là một trong những nước có sự phát triển hiện đại về thương mại và hàng hải
lớn nhất trên thế giới. Có thể nói lịch sử phát triển của ngành hàng hải và thương
mại thế giới gắn liền với sự phát triển của nước Anh, thế kỷ XVII nước Anh đã có
nền ngoại thương phát triển với đội tàu buôn mạnh nhất thế giới và trở thành trung
tâm thương mại và hàng hải của thế giới. Do đó nước Anh cũng là nước sớm có
những nguyên tắc, thể lệ hàng hải và bảo hiểm hàng hải. Năm 1779, các hội viên
của Lloyd's đã thu thập tất cả các nguyên tắc bảo hiểm hàng hải và quy thành một
hợp đồng chung gọi là hợp đồng Lloyd's. Hợp đồng này đã được Quốc hội Anh
thông qua và được sử dụng ở nhiều nước cho đến 1982.Từ ngày 1/1/1982, đơn bảo
hiểm hàng hải mẫu mới đã được Hiệp hội bảo hiểm London thông qua và được sử
dụng ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay.
Không chỉ riêng bảo hiểm hàng hải, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thế giới, các loại hình bảo hiểm cũng phát triển hết sức mạnh mẽ để đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội, văn hoá và giao lưu quốc
tế.
2. ở Việt Nam:
Thời kỳ đầu, nhà nước giao cho một công ty chuyên môn trực thuộc Bộ Tài
chính kinh doanh bảo hiểm đó là công ty Bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng công ty
Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt). Công ty Bảo hiểm Việt Nam được thành
lập ngày 17/12/1964 theo Quyết định số 179/CP và chính thức đi vào hoạt động
ngày 15/1/1965.
Trước năm 1964 Bảo Việt chỉ làm đại lý bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
cho công ty Bảo hiểm nhân dân Trung Quốc trong trường hợp mua theo giá FOB,
CF và bán theo giá CIF với mục đích là học hỏi kinh nghiệm.
Từ năm 1965 - 1975 Bảo Việt mới triển khai ba nghiệp vụ bảo hiểm đối ngoại
trong đó có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ sau 1970 Bảo Việt có quan hệ

tái bảo hiểm với Liên Xô (cũ), Ba Lan, Triều Tiên. Trước đó Bảo Việt chỉ có quan
hệ tái bảo hiểm với Trung Quốc.
Từ năm 1975 - 1992 Bảo Việt đã triển khai thêm nhiều nghiệp vụ và mở rộng
phạm vi hoạt động. Từ chỗ chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với một số nước xã hội chủ
nghĩa cũ thì trong thời kỳ này Bảo Việt đã có quan hệ đại lý, giám định, tái bảo
hiểm với hơn 40 nước trên thế giới. Năm 1965 khi Bảo Việt đi vào hoạt động, Bộ
Tài chính đã ban hành quy tắc chung về Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường
biển. Gần đây, để phù hợp với sự phát triển thương mại và ngành hàng hải của đất
nước, Bộ Tài chính đã ban hành quy tắc chung mới - Quy tắc chung 1990 (QTC-
1990) cùng với Luật Hàng hải Việt Nam. Quy tắc chung này là cơ sở pháp lý chủ
yếu điều chỉnh các vấn đề về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh mẽ,
xuất phát từ yêu cầu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định thu hút vốn đầu tư
nước ngoài thì việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm là một đòi hỏi
thiết thực. Để đáp ứng yêu cầu cấp bách trên, Nghị định 100/CP của chính phủ về
hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành ngày 18/12/1993 đã tạo điều kiện
cho nhiều công ty bảo hiểm ra đời và phát triển. Hiện nay với sự góp mặt của 10
công ty bảo hiểm gốc trong cả nước, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu phát
triển với sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vẫn là một nghiệp vụ truyền thống mà các nhà bảo hiểm Việt Nam vẫn
duy trì và phát triển với các biện pháp, chiến lược, sách lược giành thắng lợi trong
cạnh tranh.
ii. Sự cần thiết, tác dụng và vai trò của Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển
1. Khái niệm :
Ta có thể định nghĩa: Bảo hiểm chính là một sự cam kết bồi thường của người
bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng
bảo hiểm do những rủi ro đã thoả thuận gây ra với điều kiện người được bảo hiểm
góp cho người bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Trong nghiệp vụ bảo

hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thì người được bảo hiểm có thể là người mua hoặc
người bán tuỳ theo điều kiện thương mại và điều kiện cơ sở giao hàng quy định
trong hợp đồng mua bán mà hai bên đã thoả thuận với nhau. Đối tượng bảo hiểm ở
đây chính là hàng hoá đã được mua bảo hiểm.
2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển :
Ngành bảo hiểm đã ra đời do có sự tồn tại khách quan của các rủi ro mà con người
không thể khống chế được. Nếu có những rủi ro xảy ra mà không có các khoản bù
đắp thiệt hại kịp thời của các nhà bảo hiểm, đặc biệt là những rủi ro mang tính thảm
hoạ gây ra tổn thất rất lớn thì chủ tàu và chủ hàng gặp rất nhiều khó khăn về tài
chính trong việc khắc phục hậu quả do các rủi ro đó gây ra. Vì vậy, sự ra đời và việc
tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển trở
thành một nhu cầu rất cần thiết và nó có những tác dụng sau:
Thứ nhất, giảm bớt rủi ro cho hàng hoá do hạn chế tổn thất nhờ tăng cường bảo
quản kiểm tra đồng thời kết hợp các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thứ hai, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng đem lại lợi ích cho nền kinh tế
quốc dân, góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước. Khi các đơn vị
kinh doanh xuất nhập khẩu nhập hàng theo giá FOB, CF, xuất theo giá CIF, CIP sẽ
tạo ra khả năng cạnh tranh của bảo hiểm trong nước với nước ngoài. Nhờ có hoạt
động bảo hiểm trong nước các chủ hàng không phải mua bảo hiểm ở nước ngoài,
nói cách khác là không phải xuất khẩu vô hình.
Thứ ba, khi các công ty có tổn thất hàng hoá xảy ra sẽ được bồi thường một số tiền
nhất định giúp họ bảo toàn được tài chính trong kinh doanh. Số tiền chi bồi thường
của các công ty hàng năm là rất lớn chiếm khoảng 60%-80% doanh thu phí bảo
hiểm.
Thứ tư, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia bảo hiểm đã trở thành nguyên
tắc thể lệ và tập quán trong thương mại quốc tế. Nên khi hàng hoá xuất nhập khẩu
gặp rủi ro gây ra tổn thất các bên tham gia sẽ được công ty bảo hiểm giúp đỡ về mặt
pháp lý khi xảy ra tranh chấp với tàu hoặc các đối tượng có liên quan.
3. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển :

Do đặc điểm của vận tải biển tác động đến sự an toàn cho hàng hoá được chuyên
chở là rất lớn. Vì vậy vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển càng được khẳng định rõ nét :
Một là, hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay nhiều quốc
gia, người xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường không trực tiếp áp tải
được hàng hoá trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia bảo hiểm cho hàng
hoá. ở đây, vai trò của bảo hiểm là người bạn đồng hành với người được bảo hiểm.
Hai là, vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng hoá do
thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên như: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, mất
cắp, cướp biển, bão, lốc, sóng thần vượt quá sự kiểm soát của con người. Hàng
hoá xuất nhập khẩu chủ yếu lại được vận chuyển bằng đường biển đặc biệt ở những
nước quần đảo như Anh, Singapore, Nhật, Hồng Kông do đó phải tham gia bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Ba là, theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về tổn thất của
hàng hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn đường biển, rất
nhiểu rủi ro các hãng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm, ngày cả các công ước
quốc tế cũng quy định mức miễn trách nhiệm rất nhiều cho người chuyên chở
(Hague, Hague Visby, Hamburg ).Vì vậy các nhà kinh doanh phải tham gia bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Bốn là, hàng hoá xuất nhập khẩu thường là những hàng hoá có giá trị cao, những
vật tư rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt hại do các
rủi ro có thể xảy ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trở thành một
nhu cầu cần thiết.
Năm là, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời do đó việc tham
gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển đã trở
thành một tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại thương.
Như vậy, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong thương
mại quốc tế.
iii. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng

đường biển
1. Đặc điểm và trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình xuất nhập khẩu
hàng hoá vận chuyển bằng đường biển :
1.1. Đặc điểm quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.
- Việc xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua hợp đồng
giữa người mua và người bán với nội dung về: số lượng, phẩm chất, ký mã hiệu,
quy cách đóng gói, giá cả hàng hoá, trách nhiệm thuê tàu và trả cước phí, phí bảo
hiểm, thủ tục và đồng tiền thanh toán
- Trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có sự chuyển giao quyền sở hữu lô
hàng hoá xuất nhập khẩu từ người bán sang người mua.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển qua biên giới quốc gia,
phải chịu sự kiểm soát của hải quan, kiểm dịch tuỳ theo quy định, thông lệ của
mỗi nước. Đồng thời để vận chuyển ra (hoặc vào) qua biên giới phải mua bảo hiểm
theo tập quán thương mại quốc tế. Người tham gia bảo hiểm có thể là người mua
hàng (người nhập khẩu) hay người bán hàng (người xuất khẩu). Hợp đồng bảo hiểm
thể hiện quan hệ giữa người bảo hiểm và người mua bảo hiểm đối với hàng hoá
được bảo hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm thì phải chuyển nhượng lại cho
người mua hàng, để khi hàng về đến nước nhập, nếu bị tổn thất có thể khiếu lại đòi
người bảo hiểm bồi thường.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển bằng các phương tiện
khác nhau theo phương thức vận chuyển đa phương tiện, trong đó có tàu biển.
Người vận chuyển hàng hoá đồng thời cũng là người giao hàng cho người mua. Vì
vậy người chuyên chở là bên trung gian phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc hàng
hoá đúng quy cách, phẩm chất, số lượng từ khi nhận của người bán đến khi giao
cho người mua hàng.
Quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có liên quan đến nhiều bên, trong đó có bốn bên
chủ yếu là: người bán (bên xuất khẩu), người mua (bên nhập khẩu), người vận
chuyển và người bảo hiểm. Vì vậy, cần phải phân định rõ ràng trách nhiệm của các
bên liên quan và khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá các bên liên quan phải thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.

1.2. Trách nhiệm của các bên liên quan.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua ba loại hợp
đồng:
-Hợp đồng mua bán
-Hợp đồng vận chuyển
-Hợp đồng bảo hiểm
Ba hợp đồng này là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm của các bên liên quan
và trách nhiệm này phụ thuộc điều kiện giao hàng của hợp đồng mua bán. Theo các
điều kiện thương mại quốc tế “INCOTERMS 2000” (International Commercial
Tearms) có mười ba điều kiện giao hàng được phân chia thành bốn nhóm E, F, C, D
có sự khác nhau về cơ bản như sau: Thứ nhất là nhóm E- quy ước người bán đặt
hàng hoá dưới quyền định đoạt của người mua ngay tại xưởng của người bán (điều
kiện E- giao tại xưởng); Thứ hai là nhóm F- quy ước người bán được yêu cầu giao
hàng hoá cho một người chuyên chở do người mua chỉ định (nhóm điều kiện F:
FCA, FAS và FOB); Thứ ba là nhóm C- quy ước người bán phải hợp đồng thuê
phương tiện vận tải, nhưng không chịu rủi ro về mất mát hoặc hư hại đối với hàng
hoá hoặc các phí tổn phát sinh thêm do các tình huống xảy ra sau khi đã gửi hàng
và bốc hàng lên tàu (nhóm điều kiện C: CFR, CIF, CPT và CIP); Thứ tư là nhóm D-
quy ước người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro cần thiết để đưa hàng hoá tới địa
điểm quy định (nhóm điều kiện D: DAF, DES, DEQ, DDU, DDP). Trong đó thông
dụng nhất là điều kiện FOB, CFR và CIF.
Trong các điều kiện giao hàng, ngoài phần giá hàng, tuỳ theo từng điều kiện cụ thể
mà có thêm cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Có những điều kiện giao hàng
mà người bán không có trách thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hoá.
Như vậy, tuy bán được hàng nhưng dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm sẽ do người
mua đảm nhận (điều kiện FOB). Có trường hợp giao hàng theo điều kiện mà ngoài
việc xuất khẩu được hàng hoá, người bán còn có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển
và mua bảo hiểm cho hàng hoá (điều kiện CIF). Thực tế, các tập đoàn kinh tế hoạt
động trên nhiều lĩnh vực sản xuất, vận chuyển, bảo hiểm khi giao hàng theo điều
kiện nhóm C và D, bên cạnh việc bán hàng còn giành cho họ dịch vụ vận chuyển và

bảo hiểm cho số hàng đó. Vì vậy, nếu nhập khẩu hàng theo điều kiện FOB, hay điều
kiện CFR thì sẽ giữ được dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm, hay chỉ dịch vụ bảo
hiểm. Nếu trong hoạt động nhập khẩu, bán hàng theo gía CIF, người bán cũng giữ
được dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm. Như vậy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển
của ngành vận tải đường biển và ngành bảo hiểm của quốc gia đó.
Nói chung, trách nhiệm của các bên liên quan được phân định như sau:
- Trách nhiệm của người bán (bên xuất khẩu): phải chuẩn bị hàng hoá theo
đúng hợp đồng trong mua bán ngoại thương về số lượng, chất lượng, quy cách, loại
hàng, bao bì đóng gói và tập kết hàng đến cảng tới ngày nhận, thông báo tàu đến
nhận chuyên chở, giao hàng cho tàu khi qua lan can an toàn mới hết trách nhiệm về
những rủi ro tai nạn đối với hàng hoá. Ngoài ra, người bán phải làm các thủ tục hải
quan, kiểm dịch, lấy giấy chứng nhận kiểm định phẩm chất, đóng gói bao bì phải
chịu được điều kiện vận chuyển bốc dỡ thông thường. Cuối cùng, người bán phải
lấy được vận tải đơn sạch. Nếu bán hàng theo điều kiện CIF người bán còn có trách
nhiệm mua bảo hiểm cho lô hàng hoá sau đó ký hậu vào đơn bảo hiểm để chuyển
nhượng quyền lợi bảo hiểm cho người mua.
- Trách nhiệm của người mua (bên nhập khẩu): nhận hàng của người chuyên
chở theo đúng số lượng, chất lượng đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và hợp
đồng mua bán ngoại thương, lấy giấy chứng nhận kiểm đếm, biên bản kết toán giao
nhận hàng với chủ tàu, biên bản hàng hoá hư hỏng đổ vỡ do tàu gây lên (nếu có),
nếu có sai lệch về số lượng hàng đã nhập khác với hợp đồng mua bán nhưng đúng
với hợp đồng vận chuyển thì người mua bảo lưu quyền khiếu nại đối với người bán.
nếu phẩm chất, số lượng hàng hoá được nhận có sai lệch với vận tải đơn thì người
mua căn cứ vào biên bản trên bảo lưu quyền khiếu nại với chủ phương tiện chuyên
chở. Ngoài ra, người mua còn có trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hoá nếu mua
hàng theo giá CF và mua bảo hiểm, thuê tàu trả cước phí vận chuyển hàng hoá nếu
mua hàng theo gía FOB hay nhận lại chứng từ bảo hiểm do người bán chuyển
nhượng nếu mua hàng theo giá CIF.
-Trách nhiệm của người vận chuyển: chuẩn bị phương tiện chuyên chở theo yêu cầu
kỹ thuật thương mại và kỹ thuật hàng hải, giao nhận hàng đúng quy định theo hợp

đồng vận chuyển. Theo tập quán thương mại quốc tế thì tàu chở hàng bắt buộc phải
tham gia bảo hiểm thân tàu và P and I. Người vận chuyển còn có trách nhiệm cấp
vận đơn cho người gửi hàng. Vận đơn (Bill of Loading) là một chứng từ vận
chuyển hàng hải trên biển do người vận chuyển cấp cho người gửi hàng nhằm nói
lên mối quan hệ pháp lý giữa người vận chuyển, người gửi hàng và người nhận
hàng. Có nhiều loại vận đơn, nhưng ở đây chỉ quan tâm đến hai loại cơ bản là: vận
đơn hoàn hảo (Clean B/L) hay còn gọi là vận đơn sạch và vận đơn không hoàn hảo
(Unclean B/L). Người vận chuyển phải chịu trách nhiệm với những rủi ro xảy ra đối
với hàng hoá theo quy định và phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc cho lô hàng
hoá chuyên chở trong hành trình từ cảng đi đến cảng đích.
- Trách nhiệm của người bảo hiểm: có trách nhiệm với những rủi ro được bảo
hiểm gây ra cho lô hàng hoá tham gia bảo hiểm, người bảo hiểm cũng có trách
nhiệm kiểm tra các chứng từ liên quan đến hàng hoá, hành trình vận chuyển và bản
thân tàu chuyên chở. Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm,
người bảo hiểm có trách nhiệm tiến hành giám định, bồi thường tổn thất và đòi
người thứ ba nếu họ gây ra tổn thất này.
2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển.
2.1. Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Rủi ro trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là
những tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ ngẫu nhiên hoặc những mối đe
doạ nguy hại, khi xảy ra sẽ gây lên tổn thất cho đối tượng được bảo hiểm. Ví dụ như
: tàu đắm, hàng mất, hàng bị đổ vỡ, hư hỏng Rủi ro trong xuất nhập khẩu hàng
hoá vận chuyển bằng đường biển có nhiều loại, căn cứ vào nguồn gốc phát sinh có
thể phân rủi ro thành những loại sau:
* Thiên tai : Thiên tai là những hiện tượng tự nhiên mà con người không thể chi
phối được như : biển động, bão, gió lốc, sét đánh, thời tiết xấu, sóng thần
* Tai hoạ của biển: là những tai hoạ xảy ra đối với con tàu ở ngoài biển như : tàu bị
mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ, tàu bị lật úp, mất tích những rủi ro này được
gọi là những rủi ro chính.

* Các tai nạn bất ngờ khác: là những thiệt hại do các tác động ngẫu nhiên bên ngoài,
không thuộc những tai hoạ của biển nói trên. Tai nạn bất ngờ khác có thể xảy ra trên
biển nhưng nguyên nhân không phải là một tai hoạ của biển, có thể xảy ra trên bộ,
trên không trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ hàng hoá, giao nhận, lưu kho, bảo
quản hàng như : hàng hoá bị vỡ, lát, hấp hơi, thiếu hụt, mất trộm, mất cắp, không
giao hàng những rủi ro này được gọi là những rủi ro phụ.
* Rủi ro do bản chất hoặc do tính chất đặc biệt của đối tượng bảo hiểm hoặc những
thiệt hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm chễ.
Theo nghiệp vụ bảo hiểm thì những rủi ro của hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển có thể được chia thành các loại sau đây:
* Rủi ro thông thường được bảo hiểm: là những rủi ro được bảo hiểm một cách bình
thường theo các điều kiện bảo hiểm gốc. Đây là những rủi ro mang tính bất ngờ
ngẫu nhiên xảy ra ngoài ý muốn của người được bảo hiểm như: thiên tai, tai hoạ của
biển, tai nạn bất ngờ khác tức là bao gồm cả rủi ro chính và rủi ro phụ.
* Rủi ro bảo hiểm riêng: là những rủi ro mà muốn được bảo hiểm thì phải thoả
thuận riêng, thoả thuận thêm chứ không được bồi thường theo các điều kiện bảo
hiểm gốc. Loại rủi ro này gồm : rủi ro chiến tranh, đình công, khủng bố được bảo
hiểm theo điều kiện riêng.
* Rủi ro không được bảo hiểm: là những rủi ro không được người bảo hiểm nhận
bảo hiểm hoặc không được người bảo hiểm bồi thường trong mọi trường hợp. Đó là
các rủi ro đương nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra hoặc các thiệt hại do nội tỳ, bản
chất của hàng hoá, do lỗi của người được bảo hiểm, thiệt hại mà nguyên nhân trực
tiếp là chậm trễ, rủi ro có tính chất thảm hoạ mà con người không lường trước được,
quy mô, mức độ và hậu quả của nó.
Tóm lại, các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất.
Việc phân nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan trọng
để xác định rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay không. Những
tổn thất nào có nguyên nhân trực tiếp là rủi ro được bảo hiểm gây ra mới được bồi
thường.
2.2. Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển:

Tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là những hư hỏng, thiệt hại của
hàng hoá được bảo hiểm do rủi ro gây ra.
Căn cứ vào quy mô, mức độ tổn thất có hai loại tổn thất là tổn thất bộ phận và tổn
thất toàn bộ:
* Tổn thất bộ phận là tổn thất mà một phần của đối tượng được bảo hiểm theo một
hợp đồng bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại. Tổn thất bộ phận có thể là tổn
thất về số lượng, trọng lượng, thể tích hoặc giá trị.
* Tổn thất toàn bộ tức là toàn bộ đối tượng bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bị
mất mát, hư hỏng, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn như lúc mới bảo
hiểm nữa. Một tổn thất toàn bộ có thể là tổn thất toàn bộ thực tế hay tổn thất toàn bộ
ước tính:
- Tổn thất toàn bộ thực tế là toàn bộ đối tượng bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng hay bị
phá huỷ toàn bộ, không lấy lại được như lúc mới bảo hiểm nữa. Trong trường hợp
này, người bảo hiểm phải bồi thường toàn bộ giá trị bảo hiểm hoặc số tiền bảo
hiểm.
- Tổn thất toàn bộ ước tính tức là thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm chưa tới
mức tổn thất toàn bộ nhưng đối tượng bảo hiểm bị từ bỏ một cách hợp lý vì tổn thất
toàn bộ thực tế xét ra là không thể tránh khỏi hoặc những chi phí đề phòng, phục
hồi tổn thất lớn hơn giá trị của hàng hoá được bảo hiểm. Khi đối tượng là hàng hoá
bị từ bỏ, sở hữu về hàng hoá sẽ chuyển sang người bảo hiểm và người bảo hiểm có
quyền định đoạt về hàng hoá đó. Khi đó, người được bảo hiểm có quyền khiếu nại
đòi bồi thường tổn thất toàn bộ.
Căn cứ vào tính chất tổn thất và trách nhiệm bảo hiểm thì tổn thất được chia làm hai
loại là tổn thất chung và tổn thất riêng:
* Tổn thất chung là những hy sinh hay chi phí đặc biệt được tiến hành một cách cố
ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hoá chở trên tàu thoát khỏi một sự nguy
hiểm chung, thực sự đối với chúng. Khi xảy ra tổn thất chung chủ hàng và người
bảo hiểm phải điền vào Bản cam đoan, Giấy cam đoan đóng góp vào tổn thất chung.
Bản cam đoan, Giấy cam đoan này được xuất trình cho chủ hàng hoặc thuyền
trưởng khi nhận hàng. Nội dung nói chung khi xảy ra tổn thất chung người được

bảo hiểm phải báo cho công ty bảo hiểm biết để công ty hướng dẫn làm thủ tục
không tự ý ký vào Bản cam đoan.
* Tổn thất riêng: là tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hay một số quyền lợi của
các chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu. Như vậy, tổn thất riêng chỉ liên quan đến
từng quyền lợi riêng biệt. Trong tổn thất riêng, ngoài thiệt hại vật chất còn phát sinh
các chi phí liên quan nhằm hạn chế những thiệt hại khi tổn thất xảy ra, gọi là tổn
thất chi phí riêng. Tổn thất chi phí riêng là những chi phí bảo quản hàng hoá để
giảm bớt thiệt hại hoặc để khỏi hư hại thêm, bao gồm chi phí xếp, dỡ, gởi hàng,
đóng gói lại, thay thế bao bì ở bến khởi hành và dọc đường. Chi phí tổn thất riêng
làm hạn chế và giảm bớt tổn thất riêng, tổn thất riêng có thể là tổn thất bộ phận hoặc
là tổn thất toàn bộ. Tổn thất riêng có được người bảo hiểm bồi thường hay không
phụ thuộc vào rủi ro có được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm hay không chứ
không như tổn thất chung.
3. Điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển.
Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của người bảo
hiểm đối với những rủi ro tổn thất của đối tượng bảo hiểm. Vì vậy, phạm vi trách
nhiệm của người bảo hiểm phụ thuộc vào các điều kiện bảo hiểm mà các bên thoả
thuận trong hợp đồng.
Trách nhiệm của người bảo hiểm đối với hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm gốc
của Việt Nam được quy định theo bản Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển năm 1990 do Bộ Tài chính ban hành. Quy
tắc này được xây dựng trên cơ sở điều khoản ICC ngày 1/1/1982 của Viện những
người bảo hiểm London (Institute of London Underwriters - ILU). Vì các điều kiện
này được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới thay thế các điều kiện cũ ICC-
1963 và trở thành tập quán thông dụng quốc tế. Nó bao gồm các điều kiện sau:
- Institute cargo clauses C (ICC-C) - điều kiện bảo hiểm C
- Institute cargo clauses B (ICC-B) - điều kiện bảo hiểm B
- Institute cargo clauses A(ICC-A) - điều kiện bảo hiểm A
- Institute war clauses - điều kiện bảo hiểm chiến tranh

- Institute strikes clauses - điều kiện bảo hiểm đình công
3.1. Điều kiện bảo hiểm C (ICC- C).
3.1.1. Rủi ro được bảo hiểm :
- Cháy hoặc nổ;
- Tàu hay xà lan bị mắc cạn, đắm hoặc lật úp;
- Tàu đâm va nhau hoặc tàu, xà lan hay phương tiện vận chuyển đâm và phải bất kỳ
vật thể gì bên ngoài không kể nước hoặc bị mất tích;
- Dỡ hàng tại cảng lánh nạn;
- Phương tiện vận chuyển đường bộ bị lật đổ hoặc bị trật bánh;
- Hy sinh vì tổn thất chung;
- Ném hàng khỏi tàu.
3.1.2. Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác:
- Tổn thất chung và chi phí cứu hộ được điều chỉnh hay xác định bằng hợp đồng
vận tải hoặc theo luật lệ và tập quán hiện hành;
- Những chi phí và tiền công hợp lý cho việc dỡ hàng lưu kho và gửi tiếp hàng hoá
được bảo hiểm tại cảng dọc đường hay cảng lánh nạn do hậu quả của một rủi ro
thuộc phạm vi hợp đồng bảo hiểm;
- Những chi phí mà người được bảo hiểm hoặc đại lý của họ đ• chi nhằm phòng
tránh hoặc giảm nhẹ tổn thất cho hàng hoá được bảo hiểm hoặc những chi phí kiện
tụng để đòi người thứ ba bồi thường;
- Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản " hai bên
cùng có lỗi" ghi trong hợp đồng vận tải.
3.1.3. Rủi ro loại trừ :
Trừ khi có thoả thuận khác, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những
mất mát, hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, khởi nghĩa hoặc hành động thù địch;
- Việc chiếm, bắt giữ, cầm giữ tài sản hoặc kiềm chế và hậu quả của chúng;
- Mìn, thuỷ lôi, bom hay những vũ khí chiến tranh khác đang trôi dạt;
- Đình công, cấm xưởng, rối loạn lao động hoặc bạo động;
- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng, người gây rối loạn lao động hoặc bạo

động, kẻ khủng bố hay hành động vì động cơ chính trị;
-Việc sử dụng các vũ khí chiến tranh có dùng đến năng lượng nguyên tử, hạt nhân
hoặc chất phóng xạ;
- Khuyết tật vốn có tính chất đặc biệt của hàng hoá bảo hiểm;
- Hành động ác ý hay cố ý của bất cứ người nào.
Trong mọi trường hợp, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với những mất
mát, hư hỏng và chi phí do:
- Việc làm xấu cố ý của người được bảo hiểm;
- Chậm chễ là nguyên nhân trực tiếp;
- Tàu hay xà lan không đủ khả năng đi biển và do tàu, xà lan, phương tiện vận
chuyển hoặc container không thích hợp cho việc chuyên chở hàng hoá mà người
được bảo hiểm hay người làm công cho họ đã biết về tình trạng đó vào thời gian
bốc xếp hàng hoá ;
- Bao bì không đầy đủ hoặc không thích hợp;
- Hao hụt tự nhiên, hao mòn tự nhiên, dò chảy thông thường;
- Chủ tàu, người quản lý tàu hoặc thuê tàu không trả được nợ hoặc thiếu thốn về
mặt tài chính gây ra.
3.2. Điều kiện bảo hiểm B (ICC- B).
3.2.1. Rủi ro được bảo hiểm:
Như điều kiện C và mở rộng thêm một số rủi ro sau:
- Động đất, núi lửa phun, sét đánh;
- Nước cuốn khỏi tàu;
- Nước biển, nước sông chảy vào tàu, xà lan, hầm hàng, phương tiện vận chuyển,
container hoặc nơi chứa hàng;
- Tổn thất toàn bộ của bất kỳ kiện hàng nào do rơi khỏi tàu hoặc rơi trong khi xếp
hàng lên hay đang dỡ hàng khỏi tàu hoặc xà lan.
3.2.2. Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác:
Như điều kiện C.
3.2.3. Rủi ro loại trừ:
Như điều kiện C.

3.3. Điều kiện bảo hiểm A (ICC- A).
3.3.1. Rủi ro được bảo hiểm:
Theo điều kiện này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm về mọi rủi ro gây ra mất mát
hư hỏng cho hàng hoá bảo hiểm trừ những rủi ro đã được loại trừ. Rủi ro được bảo
hiểm theo điều kiện bảo hiểm này bao gồm cả rủi ro chính (tàu mắc cạn, đắm, cháy,
đâm va nhau, đâm va phải những vật thể khác, mất tích ) và những rủi ro phụ( hư
hỏng, đổ vỡ, cong, bẹp, gỉ, hấp hơi, thiếu hụt, trộm cắp, không giao hàng ) do tác
động ngẫu nhiên bên ngoài trong quá trình vận chuyển, xếp dỡ, giao nhận, bảo
quản, lưu kho hàng hoá.
3.3.2.Những tổn thất, chi phí và trách nhiệm khác:
Như điều kiện B, C.
3.3.3.Rủi ro loại trừ:
Như điều kiện B, C; loại trừ thiệt hại do hành động ác ý gây ra.
3.4. Điều kiện bảo hiểm chiến tranh:
Theo điều kiện này, người bảo hiểm phải bồi thường những mất mát, hư hỏng của
hàng hoá do:
- Chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự xảy
ra từ những biến cố đó hoặc bất kỳ hành động thù địch nào;
- Chiếm đoạt, bắt giữ, kiềm chế hoặc cầm giữ;
- Mìn, thuỷ lôi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác;
- Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm đối với rủi ro chiến tranh hẹp hơn các rủi
ro thông thường. Bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi hàng hoá được xếp lên tàu biển
và kết thúc khi được dỡ khỏi tàu tại cảng cuối cùng hoặc khi hết hạn 15 ngày kể từ
nửa đêm ngày tàu đến cảng dỡ cuối cùng, tuỳ theo điều kiện nào xảy ra trước. Nếu
có chuyển tải, bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi hết hạn 15 ngày kể từ
nửa đêm ngày tàu đến tàu đến cảng chuyển tải.
Đối với rủi ro mìn và ngư lôi trách nhiệm của người bảo hiểm được mở rộng ra cả
khi hàng hoá còn ở trên xà lan để vận chuyển ra tàu hoặc từ tàu vào bờ nhưng
không vượt quá 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu, trừ khi có thoả thuận đặc biệt

khác.
3.5. Điều kiện bảo hiểm đình công:
Theo điều kiện bảo hiểm này, chỉ bảo hiểm cho những mất mát, hư hỏng của hàng
hoá được bảo hiểm do:
- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối
loạn lao động, bạo động hoặc nổi dậy;
- Hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị;
- Tổn thất chung và chi phí cứu nạn.
Ngời bảo hiểm chỉ bồi thường những tổn thất do hành động trực tiếp của những
người đình công mà không chịu trách nhiệm về những thiệt hại do hậu quả của đình
công gây ra.
3.6. Trách nhiệm của bảo hiểm về mặt không gian và thời gian:
Bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực kể từ khi hàng dời khỏi kho hay nơi chứa hàng tại
địa điểm có ghi trên hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực
trong quá trình vận chuyển bình thường và kết thúc tại một trong các thời điểm sau:
* Khi giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng cuối cùng của người nhận hàng hoặc
một người nào khác tại nơi nhận có ghi tên trong hợp đồng bảo hiểm;
* Khi giao hàng cho bất kỳ kho hay nơi chứa hàng nào khác, dù trước khi tới hay tại
nơi nhận hàng ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm dùng làm:
- Nơi chia hay phân phối hàng hoặc
- Nơi chứa hàng ngoài hành trình vận chuyển bình thường.
* Khi hết hạn 60 ngày kể từ khi hoàn thành việc dỡ hàng khỏi tàu biển tại cảng dỡ
cuối cùng ghi trên đơn bảo hiểm.
Trong quá trình vận chuyển nói trên nếu xảy ra chậm chễ ngoài sự kiểm soát của
người được bảo hiểm, tàu đi chệch hướng dỡ hàng bắt buộc, chuyển tải ngoại lệ
hoặc thay đổi hành trình thì hợp đồng bảo hiểm vẫn giữ nguyên hiệu lực với điều
kiện người được bảo hiểm phải thông báo cho người bảo hiểm biết về việc xảy ra và
phải trả thêm phí bảo hiểm nếu có yêu cầu.
4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
4.1. Khái niệm:

Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là một
văn bản trong đó người bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người tham gia bảo
hiểm các tổn thất của hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm đã ký kết, còn người
tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.
4.2. Các loại hợp đồng:
Trong hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
người ta chia ra làm hai loại hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm chuyến và
hợp đồng bảo hiểm bao:
* Hợp đồng bảo hiểm chuyến: là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng đợc vận
chuyển từ địa điểm này đến một địa điểm khác ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Người
bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hoá trong phạm vi một chuyến. Hợp đồng
bảo hiểm chuyến thường được trình bày dưới hình thức đơn bảo hiểm hay giấy
chứng nhận bảo hiểm do người bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm chính là một hợp đồng
bảo hiểm chuyến đầy đủ. Nội dung gồm hai phần: mặt trước và mặt sau của đơn bảo
hiểm. Mặt trước thường ghi các chi tiết về hàng, tàu, hành trình. Mặt sau thường ghi
các điều lệ hay các quy tắc bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Nội dung của hợp đồng
bảo hiểm chuyến chủ yếu bao gồm:
- Ngày cấp đơn bảo hiểm và nơi ký kết hợp đồng bảo hiểm;
- Tên, địa chỉ, số tài khoản của người bảo hiểm và người được bảo hiểm;
- Tên hàng hoá được bảo hiểm, quy cách, số lợng, chủng loại ;
- Tên tàu, số hiệu, cờ, dung tích của tàu vận chuyển ;
- Cảng khởi hành, cảng đích, cảng chuyển tải (nếu có);
- Giá trị bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm;
- Giám định viên và phương thức bồi thường.
Hợp đồng bảo hiểm chuyến có thể là hợp đồng hành trình, hợp đồng thời gian, hợp
đồng hỗn hợp, hợp đồng định giá hoặc hợp đồng không định giá. Hợp đồng bảo
hiểm chuyến thường dùng bảo hiểm cho những lô hàng nhỏ, lẻ tẻ, không có kế
hoạch chuyên chở nhiều lần.
* Hợp đồng bảo hiểm bao (Hợp đồng bảo hiểm mở): là hợp đồng bảo hiểm trong đó
người bảo hiểm nhận bảo hiểm cho một khối lượng hàng vận chuyển trong nhiều

chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định (thường là một năm) hoặc nhận
bảo hiểm cho một khối lượng hàng hoá vận chuyển nhất định không kể đến thời
gian. Tất cả các chuyến hàng thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm bao
đều được bảo hiểm một cách tự động, linh hoạt và phí bảo hiểm thường được trả
theo thời gian thoả thuận, thường là theo tháng.
Nội dung của hợp đồng bảo hiểm bao gồm các vấn đề chung nhất, có tính nguyên
tắc như: nguyên tắc chung, phạm vi trách nhiệm, việc đóng gói hàng, loại phương
tiện vận chuyển, Giá trị bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm và phương thức
thanh toán phí, giám định, bồi thường Trong hợp đồng phải có ba điều kiện cơ bản
sau:
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá sẽ đợc bảo hiểm
- Điều kiện về giá trị bảo hiểm
- Điều kiện về quan hệ trên tinh thần thiện chí.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi ích cho cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm.
Người bảo hiểm đảm bảo thu được một khoản phí bảo hiểm trong thời hạn bảo
hiểm. Người được bảo hiểm vẫn được người bảo hiểm chấp thuận bảo hiểm ngay cả
khi hàng đ• xếp lên tàu vận chuyển rồi mà chưa kịp thông báo bảo hiểm. Hợp đồng
bảo hiểm bao dùng để bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu thường xuyên khối
lượng lớn vận chuyển làm nhiều chuyến. Điều khoản huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm

×