Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Phức tạp trong kiến tạo sự đa dạng tín dụng và những thách thức trong rủi ro pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.06 KB, 92 trang )

Lời nói đầu
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong việc đảm bảo
tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không chỉ có nhu cầu vốn
trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy móc, các doanh nghiệp
luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời
khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng, trả lương cho công nhân,
mở rộng sản xuất trong mùa vụ… Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta
chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ - dễ gặp phải
khó khăn về vốn ngắn hạn mà không có khả năng giải quyết - do đó nhu cầu vay
vốn ngắn hạn, đặc biệt là nguồn vay từ ngân hàng là rất cao.
Chính vì sự quan trọng của tín dụng ngắn hạn đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay, nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ mở rộng sản
xuất, kích thích tính năng động sáng tạo của chúng, các NHTM đặc biệt là các
ngân hàng trên địa bàn Hà Nội đã có những biện pháp mở rộng hoạt động tín
dụng ngắn hạn nhằm giúp các doanh nghiệp này.
Là một chi nhánh còn khá non trẻ nhưng NHNo&PTNT Láng Hạ đã đạt được
khá nhiều thành tích đáng ghi nhận. Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho Chi nhánh trước
tình hình hiện nay là tỷ trọng cho vay ngắn hạn tại Chi nhánh rất nhỏ và có xu
hướng giảm. Trong khi đó, địa bàn Hà Nội là nơi đông dân cư và tập trung nhiều
doanh nghiệp quy mô nhỏ với nhu cầu vốn ngắn hạn cao. Do đó, bức xúc hiện
nay của Chi nhánh là làm thế nào để mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn, từng
bước giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, từ đó góp phần phát triển kinh tế,
xã hội.
Nắm bắt được yêu cầu cấp thiết trên, sau thời gian thực tập tại phòng Tín dụng
NHNo&PTNT Chi nhánh Láng Hạ, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài:
“NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ đi tien phong trong các giải pháp
mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn đối với các đối tượng cho vay khác nhau”.
Theo đó, luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận cấu gồm 3 phần chính:
Chương I: tín dụng ngắn hạn và mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại các
NHTM.


Chương II: thực trạng hoạt động mở rộng đối tượng tín dụng ngắn hạn tại
NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ.
Chương III: giải pháp mở rộng đối tượng động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh
láng hạ.
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Xuân Quế và
các anh chị cán bộ phòng Tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng
Hạ đã tận tình quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và làm
luận văn.
Hà Nội, 6 - 2003
Chương I: Tín dụng ngắn hạn và mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại các
ngân hàng thương mại.
1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại: Cùng với sự phát triển của sản xuất
lưu thông hàng hoá ngân hàng thương mại đã ra đời và trở thành một thứ dầu bôi
trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động một cách nhịp nhàng thông suốt. Ngân hàng
thương mại đã hình thành và tồn tại như một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu
của nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất lưu thông hàng hoá càng phát triển nhu cầu
giao lưu giữa các vùng càng tăng, tuy nhiên do sự khác biệt giữa các vùng về tiền
tệ cũng như sự khác biệt về địa lý làm nhu cầu đổi tiền cũng như gửi tiền và
thanh toán hộ của các thương gia xuất hiện. Và cũng chính nhờ hoạt động nhận
tiền gửi và thanh toán hộ mà những người giữ tiền đã nắm trong tay một khối
lượng tiền lớn từ đó họ dễ dàng thực hiện hoạt động cho vay do tính vô danh của
tiền tệ. Ngân hàng thương mại đã ra đời từ đó cùng với những nghiệp vụ cơ bản
của nó, đến nay trải qua bao thăng trầm của nền kinh tế hoạt động của Ngân hàng
thương mại đã mở rộng không chỉ quy mô, chất lượng mà số lượng, loại hình
các dịch vụ cũng ngày càng mở rộng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Từ đó
Ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế,
hoạt động của Ngân hàng thương mại ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của
nền kinh tế.
Trải qua thời gian tương đối dài với những biến động của nền kinh tế, rất nhiều

khái niệm về Ngân hàng thương mại đã được hình thành. Ta thấy rằng Ngân
hàng thương mại được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác như:
ở Việt Nam theo sắc lệnh 018CT/LDGCQL/SL ngày 20/10/1969 của chính
quyền Sài Gòn cũ cho rằng: Ngân hàng thương mại là mọi xí nghiệp công hay tư
lập, kể cả những chi nhánh hay phân cục ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động
thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài
chính với tiền ký thác của tư nhân hay chi nhánh hay chi nhánh công quyền.
Hay một cách tiếp cận Ngân hàng thương mại dựa trên những dịch vụ mà ngân
hàng mang lại như Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính tiền tệ
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là nghiệp vụ
tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh tế nào trong nền kinh tế.
Theo pháp lệnh ngân hàng 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: Ngân
hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường
xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Như vậy nhìn chung từ khái niệm ta có thể thấy rằng Ngân hàng thương mại có
các đặc trưng :
+ Là tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
+ Được phép nhận ký thác để cho vay, chiết khấu và thực hiện các nghiệp vụ tài
chính khác.
Như vậy ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc
biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với với mục đích thu lợi nhuận.
Do sự bùng nổ về thông tin và công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng ngày
càng được hiện đại hoá. Do đó để có thể cạnh tranh và hợp tác, hoạt động ngân
hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà hoà nhập trong
toàn cầu. Điều đó tạo ra một cơ hội mới cho các ngân hàng trong việc phát triển
sản phẩm mở rộng thị trường nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức cho các
ngân hàng trong sự cạnh tranh.
Không những vậy, căn cứ vào tính chất sở hữu và hình thức góp vốn có rất nhiều

loại Ngân hàng thương mại như Ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng
cổ phần, liên doanh, ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam… góp phần đa dạng hoá
các loại hình ngân hàng tại Việt Nam. Từ đó thúc đẩy sự tự do cạnh tranh một
cách lành mạnh, giúp các ngân hàng từng bước tự phát triển, đổi mới, mở rộng
hoạt động kinh doanh.
1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh doanh tiền tệ do đó các hoạt động
nghiệp vụ của ngân hàng đều hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt
được mục tiêu này Ngân hàng thương mại trong quá trình phát triển đã không
ngừng đổi mới, không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ sẵn có mà còn
thường xuyên nghiên cứu nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới phục vụ nhu
cầu của người dân. Tuy nhiên, một Ngân hàng thương mại luôn luôn tiến hành 3
nghiệp vụ cơ bản :
Huy động vốn: Đối với hoạt động huy động vốn, đây là hoạt động “đầu vào” của
ngân hàng, ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động tiền vốn nhàn rỗi tạm thời
trong nền kinh tế.
Thông thường ngân hàng có các loại tiền gửi là tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Để thực hiện được hoạt động huy động vốn, ngân hàng cần có một lượng vốn
nhất định là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn sử
dụng song nó rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Đây là cơ sở thu hút
tiền gửi của khách hàng, là nguồn để trang trải rủi ro khi gặp phải trong kinh
doanh và là chỉ tiêu để Ngân hàng Trung ương quản lý Ngân hàng thương mại.
Hoạt động sử dụng vốn: Hoạt động sử dụng vốn ở đây bao gồm: hoạt động cho
vay, hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành bại của
ngân hàng bởi đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng. Chính vì vậy
đây cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh rủi ro tín dụng xảy ra,
việc quản lý tiền vay được tiến hành một cách rất chặt chẽ, đặc biệt với món vay
lớn, thời hạn cho vay dài. Từ đó ngân hàng phải phân chia tín dụng ra nhiều hình

thức khác nhau nhằm mục đích dễ quản lý.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên của ngân
hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng tính
lỏng cao và được coi như tiền mặt. Do đó ngân hàng phải duy trì tài sản này ở
mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh
lời.
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoán trên thị
trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân
hàng.
Hoạt động trung gian: Hoạt động trung gian là việc ngân hàng cung cấp cho
khách hàng một loạt các dịch vụ liên quan như chuyển tiền, thanh toán hộ khách
hàng thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng, phát hành
séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng khoán,
quản lý hộ tài sản, tư vấn cho doanh nghiệp…
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động ngân hàng chịu sự
cạnh tranh gay gắt từ mọi hướng, chính vì vậy các ngân hàng tiến tới hoạt động
đa năng trên nhiều lĩnh vực, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau. Vì vậy các dịch
vụ cung cấp cho khách hàng cũng ngày càng tăng thêm như: kinh doanh ngoại
hối, bảo lãnh, tư vấn, kinh doanh chứng khoán, dịch vụ rút tiền tự động, bảo đảm
an toàn vật có giá, nghiệp vụ thuê mua,…Tất cả các nghiệp vụ đều có quan hệ
chặt chẽ hỗ trợ nhau một mặt thoả mãn nhu cầu của khách hàng một mặt mang
lại lợi nhuận cho ngân hàng.
2. Tín dụng ngân hàng.
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế
tồn tại qua các hình thức xã hội khác nhau. Tín dụng là nghiệp vụ chính cơ bản
nhất của các NHTM chính vì vậy những về tín dụng đã được các nhà kinh tế tìm
hiểu từ rất lâu. Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra những
khái niệm khác nhau về tín dụng.
Theo cách hiểu thông thường, tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể
dựa trên nguyên tắc tin tưởng nhau. Trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài

sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền
hay tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian thoả thuận. Hay nói một cách khác,
tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật
hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả tại một thời điểm
nhất định trong tương lai với một lượng giá trị lớn hơn.
Theo luật NHNN, tín dụng được định nghĩa như sau: “Cấu thành một nghiệp vụ
tín dụng là bất cứ động tác nào qua đó người đưa hay người hứa đưa vốn cho
người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này như đảm bảo, bảo
chứng hay bảo lãnh có thu tiền”.
2.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng: Như vậy, dù cách này hay cách khác, quan
điểm về tín dụng đều thể hiện các nội dung sau:
- Người cho vay sẽ chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định. Lượng giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật như hàng hoá,
máy móc, thiết bị, bất động sản.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất
định sau khi hết hạn theo thoả thuận phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói
cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
Như vậy ở đây - tiền không được bỏ ra để thanh toán hay để bán mà là để cho
vay, tiền chỉ được nhượng đi với điều kiện là nó sẽ quay lại điểm xuất phát sau
một thời gian nhất định - đó là đặc trưng thuộc về bản chất của ngành ngân hàng.
Ngoài ra sự hoàn trả không chỉ phải bảo tồn về mặt giá trị mà còn cần có phần
tăng thêm dưới hình thái lợi tức. Lợi tức về tín dụng là thu nhập người cho vay
nhận được từ khoản cho vay, nó là giá cả của hàng hoá cho vay.
2.3. Phân loại tín dụng.
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất và cũng mang lại lợi nhuận
chủ yếu cũng như rủi ro cho các ngân hàng. Chính vì vậy, các nhà ngân hàng
luôn phải tìm ra các tiêu thức phân loại tín dụng để có thể dễ dàng quản lý, kiểm
tra từ đó phòng tránh rủi ro tín dụng. Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể
phân loại tín dụng như sau:

Căn cứ vào thời gian của khoản vay:
Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai loại: tín
dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Đây là hình thức tín dụng thường có thời hạn dưới một năm
và mục đích thường để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho
thanh toán tiền, hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương.
Tín dụng trung, dài hạn:
Tín dụng trung hạn: Đây là hình thức tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm.
Các khoản vay thường với mục đích để đầu tư, cải tiến máy móc, trang thiết bị,
đầu tư vào một ngành kinh doanh mới.Tuy nhiên các máy móc trang thiết bị này
cần có thời hạn khấu hao không quá dài, hay dự án kinh doanh cần có kế hoạch
thu hồi vốn sớm, để có thể kịp thời trả vốn cho ngân hàng.
Tín dụng dài hạn: Đây là các khoản tín dụng được cấp có thời hạn từ 6o tháng trở
lên và cũng thường được sử dụng với mục đích xây nhà xưởng, đầu tư dây
chuyền sản xuất lớn, những dự án có thời hạn thu hồi vốn dài. Tuy nhiên thời
gian cho vay không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập
hoặc giấy phép thành lập đơn vị, pháp nhân và không quá 15 năm đỗi với các dự
án đầu tư phục vụ đời sống.
Căn cứ theo hình thức bảo đảm:
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: trong trường hợp này ngân hàng cấp tín
dụng cho khách hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo l•nh mà
dựa vào uy tín của khách hàng. Những khách hàng được cấp tín dụng loại này
thường là những khách hàng quen, đã có uy tín với ngân hàng về việc trả đúng và
đầy đủ các khoản nợ của mình từ trước tới nay.
Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng dựa
trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo l•nh. Tài sản dùng để thế chấp
cầm cố có thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các trang thiết bị hay các
tài sản hình thành từ vốn vay, vật có giá hay giấy tờ có giá. Ngoài ra, để đảm bảo
cho khoản vay có thể được thực hiện bằng sự bảo l•nh của bên thứ ba được ngân
hàng chấp nhận.

Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Cho vay sản xuất kinh doanh: các khoản vay này thường được sử dụng để tài trợ
vốn lưu động của doanh nghiệp hay tài trợ cho việc xây dựng nhà xưởng, mua
sắm máy móc, thiết bị, mua nguyên vật liệu
Cho vay tiêu dùng: chủ yếu phục vụ cho nhu cầu mua sắm tiêu dùng của các hộ
gia đình và cá nhân như mua nhà cửa, xe máy, ô tô và các phương tiện cần thiết
khác.
Căn cứ vào phương thức cho vay:
Cho vay theo hạn mức tín dụng: theo hình thức này ngân hàng và khách hàng
thoả thuận và ký kết một hợp đồng hạn mức tín dụng duy trì theo thời hạn nhất
định hoặc theo chu kì sản xuất kinh doanh.
Cho vay từng lần: đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng thoả
thuận và ký kết hợp đồng riêng với mỗi khoản vay khi khách hàng có nhu cầu.
Mỗi lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết hợp đồng sẽ được thực
hiện lại từ đầu.
Cho vay từng dự án đầu tư: tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu
tư phục vụ đời sống.
Cho vay hợp vốn: đối với những khoản vay lớn, một ngân hàng không đủ khả
năng hay không được phép cho vay đòi hỏi một nhóm các TCTD cùng cho vay.
Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các
TCTD khác để cho vay.
Cho vay trả góp: khi vay vốn ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận số
lãi vốn vay phải trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ thành nhiều kỳ trong
hợp đồng vay.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết bảo đảm cho khách
hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tuy nhiên nhiều trường
hợp khách hàng cần một lượng vốn lớn hơn, do đó ngân hàng và khách hàng
thường thoả thuận một hạn mức tín dụng dự phòng lớn hơn. Đồng thời khách
hàng và ngân hàng thường phải quy định về thời hạn hiệu lực và mức phí trả cho

hạn mức tín dụng dự phòng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng chấp
thuận cho khách hàng đựơc sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng
để thanh toán tiền mua hàng hoá và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hay điểm
ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thoả thuận bằng văn
bản pháp luật chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh
toán của khách hàng.
Căn cứ vào phương thức trả nợ:
Trả nợ một lần: khách hàng và ngân hàng thoả thuận sẽ trả cả lãi và gốc một lần
duy nhất.
Trả nợ làm nhiều lần: ngân hàng tính toán chia khoản nợ ra thành nhiều kỳ để
khách hàng có thể dễ dàng trả nợ.
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng nhiều phương thức để phân loại khác như dựa
vào hình thái tiền tệ hay dựa vào đối tượng vay từ đó để ngân hàng có thể dễ
dàng trong việc quản lý tránh nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng.
2.4. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Điều hoà vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh quá trình tái
sản xuất mở rộng trong nền kinh tế. Ngân hàng là chiếc cầu nối giữa những
người có vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế với những người cần vốn để mở
rộng kinh doanh, tiêu dùng…. Trên cơ sở huy động nguồn vốn trong dân cư hay
đi vay các tổ chức kinh tế khác ngân hàng tiến hành cho vay với các cá nhân, tổ
chức kinh tế đang cần vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu thiếu vốn. Nhờ
nguồn vốn mà ngân hàng cho vay doanh nghiệp không những đảm bảo quá trình
sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại
để hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ
đó các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy nhanh quá
trình tái sản xuất mở rộng. Như vậy, tín dụng ngân hàng đ• biến các phương tiện
hoạt động có hiệu quả, thu hút nhanh chóng các vật tư lao động, những tiềm năng

sẵn có khác vào sản xuất.
Tín dụng ngân hàng giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tín dụng ngân hàng là một
trong những công cụ hữu hiệu để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nếu
muốn khuyến khích ngành nghề hay thành phần kinh tế nào phát triển, ngân hàng
sẽ thực hiện ưu đãi tín dụng với ngành nghề hay khu vực đó. Từ đó ngân hàng sẽ
tạo điều kiện để các doanh nghiệp đó dễ dàng tiếp cận được vốn vay ngân hàng,
trở thành đòn bẩy để giúp ngành nghề đó phát triển.
Để thực hiện được việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục đích đã định, các
nhà ngân hàng cần phải nghiên cứu và thực thi chính sách tín dụng phù hợp để có
thể tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này đang là một vấn
đề hết sức quan trọng ở nước ta, trong tình trạng cơ cấu kinh tế hiện nay còn
nhiều bất hợp lý. Đặc biệt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,chuyển từ
nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta cần phải
có những biện pháp để thúc đẩy sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp, dịch
vụ, thương mại, du lịch…bởi ở nước ta tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm quá
lớn trong khi tỷ trọng các ngành khác còn quá thấp so với các nước trên thế giới.
Để làm được điều này chính sách tín dụng đóng một vai trò hết sức quan trọng,
chú trọng vào công tác tín dụng như vậy sẽ là một biện pháp để thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Kích thích tính năng động linh hoạt cuả các doanh nghiệp. Trong thời đại ngày
nay, khi thông tin và công nghệ thông tin thay đổi liên tục và phát triển một cách
rất nhanh chóng, các doanh nghiệp luôn luôn đứng trước yêu cầu cần phải thay
đổi cho phù hợp nhu cầu của thời đại. Để thực hiện được điều này đòi hỏi các
doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi máy móc, kỹ thuật thay nâng cấp nhà
xưởng, đổi mới sản phẩm…và ngân hàng chính là nơi cung cấp vốn trung và dài
hạn tốt nhất cho các doanh nghiệp. Qua đó, ngân hàng sẽ mang đến cho doanh
nghiệp cơ hội để đổi mới kích thích tính năng động của doanh nghiệp. Không chỉ
vậy, tín dụng ngân hàng còn thường xuyên bổ xung vốn lưu động cho doanh
nghiệp trong quá trình hoạt động giúp doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội đầu
tư.

Tín dụng ngân hàng giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, giảm lượng tiền mặt
trong lưu thông. Qua đó tín dụng ngân hàng giúp Nhà nước tăng cường quản lý
vĩ mô nền kinh tế. Thông qua tín dụng, ngân hàng huy động được một lượng lớn
tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, thực hiện cho vay, đầu tư vào sản xuất kinh
doanh mà không cần phát hành thêm tiền mặt. Qua đó, ngân hàng còn thực hiện
được nhiệm vụ điều hoà vốn giữa các vùng các ngành, các thành phần kinh tế
qua đó việc quản lý, lưu thông tiền tệ sẽ được thực hiện tốt hơn. Hoạt động tín
dụng càng mở rộng thì càng hạn chế phương thức thanh tóan dùng tiền mặt do
ngân hàng sử dụng phương thức chuyển khoản, L/C từ đó giảm chi phí lưu
thông tiền mặt trong nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng
quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong xu thế hội nhập quốc tế, mối quan hệ
giữa các nước trên thế giới và trong khu vực được mở rộng và phát triển đa dạng
cả về chiều rộng và chiều sâu. Đây là một trong những nhân tố quan trọng tạo
điều kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển trên thế giới trong đó có nước ta.
Thực hiện chủ trương mở rộng hợp tác kinh tế, tăng cường các quan hệ đối ngoại
do đó đầu tư vốn tín dụng thúc đẩy xuất khấu hàng hoá là mối quan tâm của các
ngân hàng trong tình hình hiện nay. Ngân hàng với tư cách là tổ chức kinh doanh
tiền tệ, thông qua hoạt động cho vay sẽ trở thành nền tảng, là người cung cấp vốn
cho các nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Từ đó ngân hàng sẽ trở
thành đòn bẩy thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu kinh tế quốc tế, là phương
tiện nối liền nền kinh tế các nước.
Qua đó ta thấy, tín dụng ngân hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền
kinh tế, là phương tiện, công cụ Nhà nước không chỉ có thể sử dụng để quản lý,
kiểm soát mà còn sử dụng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, thực hiện các
chủ trương của Nhà nước.
3. Tín dụng ngắn hạn.
3.1. Khái niệm tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn là một hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại được
phân theo thời gian của khoản vay. Đó là những khoản vay có thời hạn ngắn-

dưới 1 năm do đó khoản vay này thường được dùng để đáp ứng nhu cầu thiếu
vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán hàng hoá, tài trợ, bổ xung vốn lưu động
hay thanh toán ngoại thương và phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
3.2. Đặc điểm.
- Do nguồn vốn tín dụng ngắn hạn dùng để cung cấp vốn cho chi tiêu, mua
nguyên vật liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động nên số vốn vay thường nhỏ,
nguồn vốn được quay vòng nhiều. Trong khi đó đối tượng sử dụng vốn từ nguồn
trung và dài hạn thường là những tài sản cố định có thời gian sử dung lâu dài vì
vậy thời gian sử dụng vốn lâu, nguồn vốn không được quay vòng nhiều.
- Thời hạn thu hồi vốn nhanh: do vốn tín dụng ngắn hạn thường được sử
dụng để bù đắp những thiếu hụt trong ngắn hạn, để đảm bảo cân bằng ngân quỹ,
giúp doanh nghiệp đối phó với những chênh lệch thu chi trong ngắn hạn Thông
thường những thiếu hụt này chỉ mang tính tạm thời hay mang tính mùa vụ, sau
đó khoản thiếu hụt này sẽ được bù đắp hoặc sẽ sớm thu lại dưới hình thái tiền tệ
vì vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh.
- Rủi ro do tín dụng ngắn hạn mang lại thông thường không cao. Do khoản
vay chỉ cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động
không thể lường trước của nền kinh tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn.
Ngoài ra, các khoản vay được cung cấp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh theo
hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa trên tài sản bảo đảm, bảo l•nh đồng
thời khoản vay thường đựơc tiến hành khi có nhu cầu cấp thiết về vốn ngắn hạn
và chắc chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì vậy rủi ro mang đến
thường thấp.
- Lãi suất thấp: lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay trả
cho nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của ngươì khác. Chính vì rủi ro mang lại của
khoản vay thường không cao do đó lãi suất người đi vay phải trả thông thường
nhỏ hơn lãi suất khoản vay tín dụng trung và dài hạn tương ứng.
- Hình thức tín dụng phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách
hàng, để góp phần phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh trên
thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển các hình

thức cho vay trong nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của mình. Điều đó đ• làm cho
các hình thức tín dụng ngắn hạn rất phong phú như: nghiệp vụ ứng trước, nghiệp
vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu
- Là loại hình kinh doanh chủ yếu tại các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ
đặc trưng của ngân hàng thương mại: là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, mà trong
đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn, nên để đảm bảo khả năng thanh khoản của mình,
các ngân hàng thương mại đã cho vay chủ yếu là ngắn hạn.
3.3. Các hình thức tín dụng ngắn hạn
3.3.1. Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại, trong
đó ngân hàng trao cho người có trái phiếu một số tiền bằng giá trị đáo hạn của
trái phiếu trừ đi một số tiền lãi, hoa hồng và một số chi phí khác. Tiền l•i tính từ
ngày chiết khấu tới ngày đáo hạn trái phiếu.
Chứng từ chiết khấu có một số đặc trưng là: chứng từ có giá ; được thanh toán số
tiền đúng bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu; thời hạn thanh toán là thời hạn
ngắn ( 90 đến 180 ngày).
Trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng đưa cho khách hàng của mình một số tiền
để sử dụng ngay và chỉ thu số tiền đó về khi trái phiếu đáo hạn. Về nguyên tắc,
ngân hàng có thể nhận chiết khấu tất cả các trái phiếu nhưng thông thường ngân
hàng thích nhất là hối phiếu.
Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu, khách hàng phải nộp cho ngân hàng các
loại giấy tờ sau:
- Đơn xin chiết khấu
- Bảng kê thương phiếu kèm theo các thương phiếu xin chiết khấu.
Sau khi nhận được các hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định các mặt sau:
- Tính hợp pháp, hợp lệ của các thương phiếu
- Xem xét mối quan hệ thương mại của các chủ thể liên quan đến thương
phiếu.
- Nghiên cứu khả năng trả nợ của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là người
thụ lệnh (người phải thanh toán thương phiếu) và người thụ hưởng (người xin

chiết khấu).
Ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu những thương phiếu đủ điều kiện sau:
- Còn thời hạn thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
- Phải hợp lệ về mặt hình thức và nội dung
- Đối với hối phiếu thì phải có chữ ký chấp nhận của người thụ tạo
- Khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình
thức ký hậu.
Sau khi thẩm định, ngân hàng loại trừ những thương phiếu không đủ điều kiện
chiết khấu hay còn nghi ngờ khả năng thanh toán, rồi tính số tiền ngân hàng trả
cho khách hàng theo các thương phiếu nhận chiết khấu.
Đến thời hạn thanh toán thương phiếu, ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người
chịu trách nhiệm thanh toán thương phiếu. Nếu người này không thanh toán,
ngân hàng có thể chọn một trong hai cách xử lý sau:
- Ngân hàng có thể trích tài khoản tiền gửi thanh toán của người xin chiết
khấu để thu hồi, sau đó trả lại thương phiếu để họ tự đòi nợ.
- Ngân hàng tiến hành thủ tục để truy đòi số nợ: theo luật định, ngân hàng
có quyền chỉ định một trong số những người tham gia ký chuyển nhượng thương
phiếu để trả nợ cho ngân hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng thường chỉ định
người nào có đủ khả năng tài chính nhất.
Ưu điểm và nhược điểm của nghiệp vụ chiết khấu:
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng có khá nhiều ưu điểm, đó là:
- Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là
khá chắc chắn.
- Đây là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức với ngân hàng.
- Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết
khấu ngắn và ngân hàng thương mại có thể khá dễ dàng xin tái chiết khấu thương
phiếu ở Ngân hàng Nhà nước.
- Tiền cấp cho khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng, bởi vậy nó lại tạo nguồn vốn cho ngân hàng.
- Tất cả những ai kí tên vào thương phiếu đều có trách nhiệm thanh toán và

trong thực tế không một doanh nghiệp nào từ chối thanh toán do đó đây là hình
thức cho vay ít rủi ro nhất.
Tuy vậy, trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thương mại vẫn có thể gặp phải
rủi ro do ba nguyên nhân cơ bản sau:
- Ngân hàng nhận chiết khấu những thương phiếu giả mạo.
- Giấy nhận nợ luân chuyển theo dây chuyền trong đó có một khâu hỏng
dẫn đến khó khăn trong thanh toán.
- Công ty mẹ phát hành cho Công ty ty con nhưng Công ty mẹ phá sản.
3.3.2. Nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ
Tín dụng ngân quỹ là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn mà trong đó ngân hàng cho
khách hàng vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của khách hàng và
được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là ứng trước trên tài khoản hoặc thấu
chi.
3.3.2.1. ứng trước trên tài khoản
ứng trước trên tài khoản là loại tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng vay tiền
bằng cách mở và ứng cho họ một số tiền trên tài khoản của khách hàng tại ngân
hàng. Từ tài khoản đó, khách hàng có thể ký phiếu lĩnh tiền tới mức tín dụng mà
ngân hàng cấp cho mình.
Nếu căn cứ vào tính chất đảm bảo thì tín dụng ứng trước bao gồm: ứng trước có
đảm bảo và ứng trước không đảm bảo.
- ứng trước có bảo đảm: khi nào khách hàng thực sự vay tiền thi phải thế
chấp hay cầm cố một tài sản hay một giá trị làm đảm bảo nhất định cho khoản
tiền vay đồng thời khách hàng phải ký một lệnh phiếu trao cho ngân hàng giữ
cam kết hoàn trả số tiền đã vay vào thời điểm nhất định.
- Trong trường hợp không có tài sản bảo đảm, hay tài sản bảo đảm kém giá
trị khách hàng có thể nhờ một người có tài sản bảo lãnh số nợ đó bằng một tờ
cam kết. Người bảo lãnh do khách hàng chọn nhưng phải được sự chấp nhận của
ngân hàng.
Nếu căn cứ vào các thức sử dụng tiền vay thì tín dụng ứng trước có hai cách sử
dụng tiền vay:

- Sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng tiến hành cho vay theo
mức cho vay đã thoả thuận, ngân hàng chuyển toàn bộ số tiền cho vay vào tài
khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp để doanh nghiệp tuỳ ý sử dụng theo
nhu cầu. Đây là cách cho vay mà các ngân hàng thường áp dụng.
- Khách hàng được sử dụng dần số tiền vay trên tài khoản vay (tài khoản
ứng trước). Việc sử dụng bằng cách phát hành séc để chi trả mang số hiệu tài
khoản ứng trước. Khi tờ séc do khách hàng phát hành quay trở về ngân hàng thì
ngân hàng trích tài khoản vay để chi trả.
Khách hàng có thể sử dụng tiền vay một hoặc nhiều lần. Nếu khách hàng phát
hành séc để chi trả (mang số hiệu tài khoản vay) vượt mức cho vay đ• thoả thuận
thì ngân hàng áp dụng các biện pháp chế tài do phát hành séc không có tiền bảo
chứng.
Đây là một trong hai hình thức tín dụng ứng trước mà các ngân hàng thương mại
có thể áp dụng song không phổ biến.
Ưu, nhược điểm của loại tín dụng ứng trước
Ưu điểm:
- Đối với ngân hàng: vốn ngân hàng cho vay thường không phải rút ngay
một lúc vì nhu cầu vốn của khách hàng phát sinh dần dần và nếu khách hàng
dùng tiền ứng trước đó vào việc thanh toán cho khách hàng khác có tài khoản tại
ngân hàng ấy thì nguồn vốn của ngân hàng không bị hao hụt. Mặt khác, với cách
cho vay này thì ngân hàng được hưởng một khoản lãi tính trên toàn bộ số tiền
ứng trước trong suốt thời gian cho vay dù khách hàng có sử dụng hết hay không
hết số tiền đó.
- Đối với khách hàng: được sử dụng vốn một cách chủ động. Có thể đáp
ứng tính thời vụ về vốn của họ.
Nhược điểm:
- Đối với ngân hàng: loại cho vay này có rất nhiều rủi ro do ngân hàng khó
kiểm soát việc sử dụng tiền vay của khách hàng.
- Đối với khách hàng thì phải chịu toàn bộ lãi tính trên số tiền cho vay trong
thời gian đ• thoả thuận (dù thực tế họ không sử dụng hết).

3.3.2.2. Thấu chi.
Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép khách hàng được sử
dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản v•ng lai với
một số lượng và thời hạn nhất định. Xuất phát từ việc nếu doanh nghiệp có số dư
trên tài khoản tiền gửi mới được quyền chi tiêu, nhưng do một lý do nào đó mà
số dư trên tài khoản tiền gửi không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Trường hợp đó
ngân hàng có thể xem xét chấp nhận để khách hàng được quyền chi tiêu một số
tiền vượt quá số hiện có trên tài khoản. Mục đích của ngân hàng chỉ để giúp
khách hàng giải quyết khó khăn tạm thời về tài chính.
Tài khoản vãng lai là tài khoản có tính chất đặc biệt, trong đó khách hàng và
ngân hàng cam kết trả nợ lẫn nhau bằng phương pháp bù trừ. Với những tài
khoản tiền gửi khác, khách hàng chỉ được phép sử dụng trong giới hạn số dư có
của tài khoản đó, nếu sử dụng quá số tiền trên là vi phạm vì phát hành séc không
có hay thiếu tiền bảo chứng. Song đối với tài khoản vãng lai, giữa ngân hàng và
khách hàng có thể thoả thuận cho phép tài khoản dư có hoặc dư nợ, số dư nợ
được hai bên thoả thuận đến một giới hạn tối đa nào đó (hạn mức dư nợ), quá hạn
mức này thì các tờ séc của khách hàng bị coi như thiếu hay không có bảo chứng.
Như vậy, nếu tài khoản dư có thì số dư đó thể hiện tiền gửi của khách hàng ở
ngân hàng và thông thường ngân hàng phải trả cho khách hàng lãi tiền gửi. Nếu
tài khoản dư nợ thì số nợ đó thể hiện tiền ngân hàng cho vay và khách hàng phải
trả lãi tiền vay cho ngân hàng.
Điều kiện đi vay của khách hàng:
- Đơn vị có tình hình tài chính tốt.
- Nhu cầu chi tiêu đó thực sự là bức bách và không quá lớn như nhu cầu trả
lương cho cán bộ công nhân viên.
- Khách hàng cần chứng minh được là sẽ có nguồn thu để trả
Qua phần trình bày trên, ta thấy tín dụng thấu chi có các đặc điểm sau:
- Giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng để khách
hàng được sử dụng số dư nợ trên tài khoản vãng lai trong một thời hạn nhất định.
- Khách hàng sử dụng vốn bằng cách phát hành séc mang số hiệu tài khoản

vãng lai hoặc bằng các công cụ thanh toán khác.
- Doanh số cho vay có thể lớn hơn hạn mức nếu trong quá trình sử dụng
tiền trên tài khoản khách hàng có tiền nộp vào bên có.
- Hạn mức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận với nhau
chưa phải là tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (có xuất
hiện dư nợ của tài khoản vãng lai) mới được coi là ngân hàng cho vay và được
tính tiền lãi trên số dư nợ đó.
- Vượt chi tài khoản là kỹ thuật cho vay mà số dư nợ thường xuyên biến
động vì thế khó thực hiện được đảm bảo tín dụng bằng hình thức bảo đảm đối
vật.
Ưu nhược điểm của loại tín dụng vượt chi tài khoản
Đối với khách hàng loại tín dụng vượt chi là khoản tạo cho khách hàng những
thuận lợi đáng kể nhờ vào sự chủ động, linh hoạt khi sử dụng. Việc cho phép
vượt chi trên tài khoản vãng lai giúp cho việc cân đối ngân quỹ mà tránh phải đi
xin vay nhiều lần với thủ tục phức tạp trong một kỳ, khi mà ngay sau đó lại có
những khoản thu được chuyển vào tài khoản để giảm bớt việc phải trả lãi cho
ngân hàng.
Do tính chủ động và linh hoạt như vậy mà tín dụng vượt chi tài khoản đáp ứng
được yêu cầu của những doanh nghiệp mong muốn quản lý vốn có hiệu quả, do
đó hầu hết các doanh nghiệp có yêu cầu sử dụng hình thức tín dụng này nhằm
điều hoà thường xuyên ngân quỹ của họ.
Với hình thức tín dụng này, ngân hàng luôn luôn phải dự trữ vốn để sẵn sàng đáp
ứng nhu cầu của khách hàng khi họ còn hạn mức tín dụng, nhưng trên thực tế họ
có thể không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức tín dụng đó. Trong khi
ấy, ngân hàng không được tính lãi trên toàn bộ số tiền và thời hạn cho vay đã
thoả thuận (để giải quyết mâu thuẫn này các ngân hàng thường yêu cầu khách
hàng phải trả một khoản phí cam kết theo một tỷ lệ nhất định tính trên hạn mức
tín dụng, không kể đến việc hạn mức tín dụng đó được sử dụng như thế nào).
Mặt khác, tiền ngân hàng cho vay không nhằm mục đích cụ thể nào theo chỉ định
của ngân hàng mà thường do khách hàng tuỳ ý sử dụng. Các đảm bảo nếu có chỉ

là yếu tố phụ, ngân hàng khó có thể kiểm soát được việc sử dụng tiền vay. Vì
vậy, sự rủi ro của ngân hàng có thể nhiều hơn các nghiệp vụ tín dụng khác. Từ
những nhược điểm trên mà ngân hàng thường áp dụng hình thức tín dụng này đối
với những khách hàng quen thuộc, có tín nhiệm và ngân hàng có ý muốn giúp đỡ
mà thôi.
3.4. Nhu cầu tín dụng ngắn hạn.
Trong giai đoạn quá độ hiện nay, hơn 90% số doanh nghiệp kinh doanh trên nước
ta là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, lượng vốn tự có của doanh
nghiệp không cao do đó doanh nghiệp rất dễ mắc phải những khó khăn dưới đây
dẫn đến nhu cầu vay các khoản ngắn hạn.
- Trong chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp, ban đầu tiền mặt được sử dụng
để mua nguyên liệu dự trữ, bán thành phẩm hoặc thành phẩm; hàng hoá được sản
xuất hoặc dự trữ để bán sau đó được bán ra (thường là bán chịu) ; cuối cùng là
thu tiền mặt về. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể tránh khỏi có sự lệch pha
giữa thời hạn thanh toán tiền hàng của khách hàng và thời gian mua nguyên vật
liệu để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Chính vì vậy, doanh nghiệp thường phải
vay vốn ngân hàng để đáp ứng sự thiếu hụt tiền mặt tạm thời này. Do đó khoản
vay cũng thường đựơc đảm bảo bằng khoản sẽ thu hay hàng tồn kho.
- Doanh nghiệp có khó khăn tạm thời về tài chính: doanh nghiệp cần tiền để
thanh toán nhưng lại không có chứng từ để phản ánh mối quan hệ mua bán chịu
đó trong khi đó số dư trên tài khoản của họ không đủ chi tiêu khi đó doanh
nghiệp rất cần các khoản vay ngắn hạn để giải quýêt những khó khăn này.
Trường hợp này xảy ra khi đến kỳ trả lương cho nhân viên, phải trả nợ thiếu của
khách hàng, thông thường các khoản này không quá lớn và ngân hàng có thể xem
xét cho khách hàng chi vượt.
- Doanh nghiệp có một lượng tài sản dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong
tương lai gần, lượng tài sản này gây trở ngại làm ứ đọng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp, trường hợp này doanh nghiệp muốn sử dụng lượng tài sản này để
xin vay giải quyết khó khăn về vốn do lượng tài sản này gây ra.
- Vào mùa kinh doanh sản phẩm của mình doanh nghiệp cần mở rộng quy

mô, gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn đầu tư mở rộng. Khi
nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường được dự đoán tăng cao
nhưng doanh nghiệp hiện thời thiếu vốn để mở rộng…
3.5. Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều rộng, thúc đẩy mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những vai trò quan trọng nhất
của tín dụng ngắn hạn. Thông qua việc cung cấp vốn tín dụng để mua nguyên vật
liệu phục vụ sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tín
dụng ngắn hạn góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Nước ta đang trên
đà CNH- HĐH, tuy nhiên do đặc điểm nước ta nền kinh tế vẫn đang trong giai
đoạn quá độ vì vậy sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu- các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chiếm trên 90% tổng số các doanh nghiệp. Đặc điểm chủ yếu của loại hình doanh
nghiệp này lại là sản xuất nhỏ, nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, hoạt động kinh doanh
lại gắn với địa phương và theo mùa vụ. Chính vì vậy, nhu cầu vay vốn ngắn hạn
của các doanh nghiệp này là khá lớn và thường xuyên. Đảm bảo cung cấp vốn tín
dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp chính là giúp các doanh nghiệp này mở
rộng sản xuất từ đó có thêm nguồn vốn đầu tư vào kinh doanh dần dần trở thành
các doanh nghiệp với quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.

×