Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Kinh tế phục hồi sau khủng hoảng tại mỹ với các khoản nợ và quan hệ thương mại với Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.18 KB, 94 trang )

lời nói đầu
Nói tới đời sống kinh tế thế giới, người ta không thể không nhắc tới xu thế
quốc tế hoá với các cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá với sự gia tăng của các
hình thức hợp tác kinh tế quốc tế đa dạng, trong đó thương mại quốc tế là một vấn
đề rất quan trọng.
Qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
đáng khích lệ trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Bước đầu, Việt Nam đã
tạo cho mình một vị trí có ý nghĩa quan trọng nhất định trong quan hệ kinh tế -
chính trị quốc tế. Trên con đường của sự hội nhập vào xu thế quốc tế hoá của nền
kinh tế thế giới, có thể khẳng định rằng quan hệ thương mại của Việt Nam với các
nước khác đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Cho đến nay, Việt Nam đã có
quan hệ buôn bán với trên 120 quốc gia trên thế giới, ký Hiệp định thương mại với
trên 60 nước và Thoả thuận về Quy chế Tối huệ quốc với hơn 70 nước và vùng
lãnh thổ, trong đó đặc biệt phải kể tới Mỹ.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ đã được cải thiện đáng kể từ khi
hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1995. Tuy nhiên, giá trị thương mại hai
chiều chưa cao do chưa có một khung pháp lý điều chỉnh mối quan hệ thương mại
giữa hai nước. Lộ trình bình thường hoá quan hệ kinh tế giữa hai nước đã hoàn tất
mà biểu hiện là việc đàm phán và ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngày
13/7/2000, trong đó hai bên cam kết dành cho nhau ngay lập tức và vô điều kiện
chế độ Tối huệ quốc.
Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết sẽ mở ra nhiều triển vọng cho
hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ - một thị trường tiêu thụ khổng lồ
với nhiều phân đoạn thị trường, không đòi hỏi quá khắt khe về chất lượng. Bên
cạnh những thuận lợi mà thị trường Mỹ mở ra đối với hàng xuất khẩu của Việt
Nam, hàng hoá của ta còn gặp phải rất nhiều thách thức khi tiếp cận thị trường
này.
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần có đối sách chiến lược gì, sử dụng biện pháp
chiến thuật nào để nền kinh tế có thể tận dụng triệt để các tác động tích cực và
giảm thiểu các tác động tiêu cực sinh ra từ Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ một
khi Hiệp định có hiệu lực.


Nhận thức được những tác động tích cực và những tác động tiêu cực mà
Hiệp định đem lại đối với hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta, em quyết định
chọn đề tài:
“Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của việt nam
sang mỹ”.
Nội dung của Chuyên đề thực tập tốt nghiệp được trình bày trong 3 chương
:
Chương I :những vấn đề chung về thương mạI quốc tế và Tổng quan về Hiệp
định thương mại Việt - Mỹ.
Chương II :Hiệp định thương mại Việt - Mỹ: Cơ hội và thách thức đối với việc
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ
Chương III : Các giải pháp đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang
Mỹ
Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn, việc thu thập và xử lý thông tin gấp,
nhiều khó khăn nên nội dung bài viết còn nhiều vấn đề chưa được đề cập và còn
nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và sự chỉ bảo thêm
của thày cô và bạn bè về nội dung cũng như cách trình bày Chuyên đề thực tập tốt
nghiệp. Hy vọng rằng đề tài này sẽ được các khoá viên sau hoàn thiện.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo T.S Nguyễn Thường
Lạng – Giảng viên trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân và PGS.TS Nguyễn Thiết
Sơn cùng toàn thể cô chú trong trung tâm nghiên cứu bắc Mỹ đã dành nhiều thời
gian và tâm đắc đóng góp nhiều ý kiến quý báu, giúp bổ sung cũng như chỉnh lý
nội dung nhằm giúp đỡ em hoàn thành bản bản chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Chương I:những vấn đề lý luận về thương mạI quốc tế và tổng quan về hiệp định
thương mại việt - mỹ
I. Những vấn đề lý luân vê thương mại quốc tế .
1.khái niệm .
Thương mại quốc tế là một quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua
buôn bán nhằm mục đích kinh té tối đa .Trao đổi hang hoá là một hình thức của
các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các người

soan xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia .Thương mại quốc tế là
lĩnh vực quan trọng nhăm tạo điều kiên cho các nước tham gia vào phân công lao
động quốc tế ,phát triển kinh tế và làm giầu cho đất nước.
Ngày nay thương mại quốc tế không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán
mà là sự phụ thuộc tất yếu giưa các quốc gia vào phân công lao động quốc tế .Vì
vậy phải coi trọng thương mại quốc tế như là một tiêu đề ,một nhân tố phát triển
kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chon một cách tối ưu sự phân công lao động và
chuyên môn hoá quốc tế .
Bí quyết thành công trong chiên lược phát triển kinh tế của nhiều nước là mở
rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá chế biến có
hàm lượng kỹ thuật cao.
Thương mại quốc tế ,một mặt phải khai thác được mọi lợi thế tuyệt đối của đất
nước phù hợp với su thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế ,mặt khác phải tính
đến lợi thế tương đối có thể được theo quy luật chi phí cơ hội .Phả luôn luôn tinh
toán cái có thể thu được so với cái phải trả khi tham gia buôn bán và phân công lao
động quốc tế để có chính sách thích hợp .Vì vậy ,để phát triển thương mại quốc tế
có hiệu quả nâu giài phải tăng cường khả năng liên kết kinh tế sao cho mối quan hệ
phụ thộc lẫn nhau ngay càng lớn.
Quan hệ kinh tế trong một nước là những quan hệ giữa những người tham gia
vào quá trình soản xuất và lưu thông hàng hoá trên cơ sở phân công lao động và
chuyên môn hoá trong nước .Quan hệ thương mạI quốc tế thể hiện sự phân công
lao động và chuyên môn quốc tế ở trình độ kĩ thuật caovà quy mô lớn .nó phát
triển trong một môi trường khàc hoan toàn các quan hệ kinh tế trong nước về
phương thức giao dịch buôn bán,pháp luật và nghiệp vụ.
Thị trường trong nước và thi trương quốc gia là những phạm chù kinh tế khác nhau
.Vì vậy,các quan hệ kinh tế diễn ra giứa các chủ thể trong kinh doanh thương mại
quốc tế mang tính chất kinh té xã hội hết sức phức tạp ,không thể cho phép nghĩ
rằng cứ buôn bán trong nước được thì buôn bán với nước ngoài cũng thành công .
2. Quá trình hình thành ,phát triển và lợi ích của thương mại quốc tế .
thương mại quốc tế là sự trao đôỉi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua

buôn bán .sự trao đổi đó là một hình thức của một quan hệ xã hội phản ánh sự phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người soản xuất hàng hoá riêng biệt của tưng
quốc gia .
Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do cơ bản là ngoại
thương mở rộng khả năng soản xuất và tiêu dùng của một nước .Thương mại quốc
tế cho phép một nước tiêu dung tất cả các mặt hàng với số lương nhiều hơn mức
có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng soản xuất trong khi nước thưc hiện chế
độ tự cung tự cấp ,không mua bán.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội với tiến bộ khoa
học kĩ thuật ,phạm vi chuyên môn hoá ngày càng cao số sản phẩm và dịch vụ để
thoả mãn nhu cầu con người ngày một dồi dào ,sự phụ thuộc giữa các quốc gia
ngày càng tăng .
Thương mại quốc tế và chuyên môn hoá tăng nhanh đã đặt ra câu hỏi:
Buôn bán để làm gì?
Trước hết thương mại suất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của
soản xuất giữa các nước cho nên chuyên môn hoá soản xuất một số mặt hàng cò
lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà soản xuất trong nước
kếm lợi thế chắc chắn đêm lạI lợi nhuận lớn hơn.
Sự khác nhau về điệu kiện sản xuất ít nhiều cũng giải thích được sự hình
thành thương mại quốc tế giữa các nước trong kinh doanh các mặt hàng như dầu
lửa ,lương thực, dịch vụ du lịch .Song phần lớn số liệu tự nhiên vốn có của sản
xuất ,Mỹ sản xuất đựơc ô tô tại sao nhập khẩu ô tô từ nhật bản ? vì sao nước ta sản
xuất với xuất phát đIểm và chi phí sản xuất các mặt hàng đều lớn hơn chi phí sản
xuất các cường quốc kinh tế khác vẫn có thể duy trì thương mại với những nước
đó.
Năm 1817 ,nhà kinh tế học David Ricảdo đã chưng minh: chuyên môn hoá
quốc tế có lợi cho tất cả các nước và gọi kết quả là quy luật lợi thế tương đối (hay
lý thuyết về lợi thế so sánh ) .
Quy luật lợi thế so sánh nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất ,coi đó
là chìa khoá của phương thức thương mại . lý thuyết này khẳng định nếu mỗi quốc

gia chuyên môn hoá sản xuất các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay có
hiệu quả sản xuất só sánh cao nhất thí thương mại sẽ có lợi cho cả hai nước .
Những lợi ích thương mại quốc tế do sự chênh lệch giữa các quốc gia về chi phí cơ
hội .Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng các mặt hàng khác người ta phảI
từ bỏ để sản xuất hoặc kinh doanh thêm một đơn vị hàng đó .
Giả sử nền kinh tế khép kín có các nguồn lực nhất định có thể là đầu máy
video,áo sơ mi  càng sử dụng nhiều nguôn lực vào việc sản xuất đầu máy video
,thì càng cò ít nguồn lực để sử dụng vào việc sản xuất áo sơ mi .Chi phí cơ hội của
đâu máy video là lương áo sơ mi bị hi sinh do dùng nguồn lực vào việc làm ra các
đâu máy vi deo .
Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối đẻ làm ra các mặt hàng khác nhau
. sự chênh lệch giữa các nước về chi phí tương đối tronh sản xuất quyết định
phương thức thương mại quốc tế . Phương thức thương mại quốc tế minh hoạ bằng
quy luật lơi thế tương đối .
Quy luật lợi thế tương đối nói rằng :”các nước hay cá nhân nên chuyên môn
hoá trong việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tương
đối thấp hơn thì sẽ có lợi ích kinh tế lớn hơn”.
Có nhiều nguyên nhân giải thích tai sao chí phí cơ hội hoặc chi phí tương
đối lại có thể khác biệt ở các nước khác nhau . chúng bắt nguồn từ sự khác biệt
trong kỹ thuật công nghệ hoặc hiệu xuắt .Ví dụ ,hai nước Mỹ và Anh đang sản
xuất ra hai loại hàng hoá là máy video và áo sơ mi .Giả định rằng lao động là yếu
tố sản xuất duy nhất có mức lợi tức không đổi theo quy mô ,ta có :
Cần 30giờ ở mỹ để sản xuất ra 1 máy video và 5giờ để sản xuất ra 1 áo sơ mi.
lao động ở anh có hiệu suất kếm hơn ;cần 60giờ để làm ra 1 máy video và 6 giờ để
sản xuất ra 1 áo sơ mi.
Ta giả thiết rằng có sự cạnh tranh hoàn hảo ,do vậy giá cả các mặt hàng bằng
chi phí biên của nó vì mức lợi tức không đổi theo quy mô nên chi phí biên băng
chi phí trung bình chính vì thế giá cả bằng chi phí trung bình của sản xuất .do đó
lao động là yếu tố sản xuất duy nhất nên trong ví dụ trên chi phí trung bình được
tính bằng giá trị đầu vào lao động trên một đơn vị đầu ra sản lượng tức là chi phí

lao động cho một đơn vị sản phẩm .
Giả thiết rằng công nhân Mỹ kiếm được 6 USD/giờ ,ta có chi phí lao động
cho một đơn vị của hai loạI hàng của mỗi nước như sau;
Bảng số 2:lợi thế tương đối của Anh và Mỹ về máy videovà áo sơ mi theo chi phí
lao động.
Chi phí lao động cho một đơn vị sản phẩm
Máy video 180 USD 120bảng
áo sơ mi 30 USD 12bảng
Nếu không có thương mại quốc tế thì mỗi nước sẽ phải sản xuất cả hai loại
hàng vào các chi phí lao động cho mỗi đơn vị sản phẩm là giá trị nội địa của mỗi
sản phẩm bán ra ở thị trường trong nước .
Đối với cả hai sản phẩm ,yêu cầu lao động cho một đơn vị sản phẩm ở Mỹ
thấp hơn môt cách tuyệt đối so với yêu cầu này ở Anh. Nhưng lao động ở Mỹ hiệu
quả hơn một cách tương đối về máy video và áo sơ mi . Còn số giờ lao động để
soản suất ra một máy video ở Anh nhiều gấp đôi so với Mỹ nhưng ở Anh chỉ cần
6/5giờ lao động để sản xuất ra một cái áo sơ mi ở Mỹ . chính những trênh lệch
tương đối về năng xuất này là cơ sở cho thương mại quốc tế .
Còn nhiều lý do khác khiến cho thương mạI quốc tế rất quan trọng trong thế
giới hiện đại . Một trong những lý do đó có thể là thương mại quốc tế tối cần thiết
cho chuyên môn hoá để có hiệu quả kinh tế cao trong ngành công nghiệp hiên đại .
chuyên môn hoá quy mô lớn làm chi phí sản xuất giảm và hiệu quả kinh tế theo
quy mỗ sẽ được thực hiện trong hàng hoá các nước sản xuât.
Sự khác nhau về sở thích và mức cung cầu là những nguyên nhân giẫn tới
việc xuất hiện thương mại quốc tế. Ngay cả trong trương hợp hiệu quả tuyệt đối ở
hai nước giống hệt nhau ,thương mại quốc tế vẫn có thể sẩy ra do sự khác biệt về
sở thích .
3. phát triển thương mại quốc tế ở việt nam hiện nay.
a.Chủ trương mở cửa nền kinh tế.
Có thể nói nhu cầu trao đổi háng hoá xuất hiện từ thời cổ đại nhưng chỉ từ
khi ra đời nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa mới dẫn đến sự phá vỡ tính chất

khép kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước . tự do
thương mai gắn dan tộc với thi trường thế giới ,gắn phân công lao động trong nước
với phân công lao động quốc tế . Ngoại thương trở nên không thể thiếu được đối
với sản xuất đó ,như LêNin nhận xét “không có thị trương bên ngoài thí một số
nước tư bản chủ nghĩa không thể sống được”
Nước ta và một số nước khác đã có lúc xêm xét vấn đề độc lập kinh tế và xây
dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính chất tự cung tự cấp để tránh sự lệ
thuộc vào bên ngoài . Thực tê đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể
đề ra cho mình một mục tiêu đầy tham vọngnhư vậy. Bởi vì không có quốc gia nào
dù giầu mạnh như Mỹ hay Trung Quốc lại xây dựng một nền kinh tế tự cung tự
cấp vô cùng tốn kếm về cả vật chất và thời gian.
Mở rộng thị trường thương mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế đối ngoạI
khác lá vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn
của nước ta trong những năm qua về mở cửa nền kinh tế . Báo cáo chính trị của
ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội lần thứ V||| nhấn mạnh “tiếp tục thực
hiện đường nối đối ngoại độc lập tự chủ ,mở rộng địa phương hoá và đa dạng hoá
các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới ,phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển . Hợp tác
nhiều mặt song phương và đa phương với các nước ,các tổ chức quốc tế và khu
vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập ,chủ quỳen và toàn vện lãnh thổ ,không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau ,bình đẳng ,cùng có lợi ,giảI quyết các vấn đề
tồn tạI các tranh chấp bằng thương lượng “(văn kiện đạI hộiV|||ĐCSVN)
Xu thế phát triển của nhiều nước trong nhưỡng năm gần đây là thay đổi chiến
lược tà đóng sang mở cửa , từ thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu.
Nền kinh tế đóng cửa là nền kinh tế tự cung tự cấp sản xuất thay thế nhập
khẩu . Đặc trưng của nền kinh tế này là sản xuất trực tiếp tiêu dùng .Tổ chức xã
hội của lao động diễn ra trong phạm vi hẹp ,mang nặng tính bảo thủ .Nó không
phù hợp với các quy luật phát triển khách quan của thế giới. Chuyển từ kinh tế tự
nhiên sang kinh tế hàng hoá là cả quá trình khó khăn phức tạp vì tính chất tri tuệ
,bảo thủ của nền kin tế tự nhiên.

Chính sách “đónh cửa “kông thể tồn tại lâu dài do những lý do sau :
-Trong những điều kiện quốc tế quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng
cao,sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu , các nước phụ thuộc lẫn nhau và
tham gia tích cực hơn vào các quá trình liên kết kinh tế và hợp tác quốc tế ,một
chính sách biệt lặp “đóng cửa “là không thích hợp.
-cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành nhân tố quyết
định sự phát triển của sản xuất .Trong khi đó ,chính sách “đóng cửa”đã hạn chế
khả năng tiếp thu kĩ thuật mới ,làm cho nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu soản xuất
nhỏ là phổ biến không có nguồn bổ sung kỷ thuật tiên tiến .Kết quả là tất yếu là
năng xuất lao động thấp ,hiêu qua kếm ,khả năng cạnh tranh yếu,tốc độ tăng
trưởng kinh tế chậm. Hầu hết các nước nghèo ,lạc hậu hoặc đang phát triển đều
thiếu vốn.Trong khi đó,quá trình phát triển kinh tế đòi hỏi nhập khẩu một lượng
ngày một nhiềumáy móc thiết bị và nguyên liêụ công nghiệp.Nếu không phải phát
triển mạnh thương mại quốc tế thì vấn đề thiếu hụt trong khâu thanh toán ngày
càng lớnvà trở nên gay găt .
-Thị trường trong nước nhỏ hẹp,không đủ đảm bảo cho sự phát triển công
nghiệp với qui mô hiện đại,sản xuất hàng loạt ,do đó không tạo thêm công ăn việc
làm –vấn đề mà các nước nghèo luôn luôn phải giải quyết.
-trong thế giới hiện đại,không có một quốc gia nào bằng chính sách đóng
cửa của mình lại phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh
mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực lượng của mìmh mà phải tận dụng
các thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật của loài người để phát triển .Nền kinh tế
mở cửa sẽ mở ra hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế ,tiềm năng
sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất .
-Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta,
những yếu tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động .Còn những yếu tố
thiếu hụt làvốn, kỹ thuật ,thị trường và khả năng quản lý .Chiến lược hướng vào
xuất khẩu thực chất là giả pháp mở cửa nền kinh tế nên kinh tế nhằm tranh thủ vốn
kỹ thuật của nước ngoài ,kết hợp chúng với tiềm năng trong nước (lao động và tài
nguyên thiên nhiên )để tạo sự tăng trương nhanh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn

khoảng cách chênh lệch với nước giầu .
Với định hướng phát triỉn kinh tế xã hội của đảng ,chính sách kinh tế đối
ngoại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng phải được coi là chinh sách cơ
cấu có tầm qan trọng chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển nền kinh tế
quốc dân . Chính sách xuất khẩu phảI tranh thủ được tới mức cao nhất nguồn vốn
kỹ thuật,công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát
triển ,giải quyết việc làm cho người lao động ,thực hiện phương châm phát triển
thương mại với nước ngoài để đẩy mạnh sản xuất trong nước ,vừa có sản phẩm để
tiêu dùng vừa có hàng hoà để xuất khẩu.
Cho đến nay, chúng ta đã gặt hái được những kết quả đáng mừng từ chính
sách thương mại ,giao lưu kinh tế với bên ngoài .Nước ta đang từng bước chuyển
mình với nhịp độ sản xuất mới bằng những công nghệ khoa học tiên tiến.Tin tưởng
rằng với những hướng đi đúng đắn và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và nhà nước
,Việt Nam sẽ trở thành mắt xích quan trọng trong nên kinh tế thế giới.
Như vậy ,thương mại quốc tế là tất yếu khach quan tạo ra hiệu quả kinh tế
cao nhất trông nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới .Chế độ tư
bản chủ nghĩa ra đời ngăn chặn thị trương dân tộc với thị trương thế giới ,gắn phân
công nao động trong nước với phân công lao động quốc tế : thương mại và thị
trưòng thế giới đã trở thành tiền đề của phương thức sản xuất hàng hoá .Ngày nay
trong đIều của thế giới hiện đại khi quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trở nên
sâu rộng hơn bao giờ hết ,khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đã phát
triển đến một trình độ cho phép có thể phân chia các công đoạn của quá trình sản
xuất thành các khâu khác nhau và phân bố những vị trí xa nhau thì không nước nào
có thể đóng cửa nền kinh tế tự mình thực hiện một chính sách biệt lập khỏi mối
quan hệ cộng đồng .Nhận thức rõ đIều đó đảng và nhà nước ta hướng đI mới trong
lối cuả mình
4.các lý thuyết về thương mại quốc tế.
4.1.Lý thuyết cổ điển
4.1.a,Chủ nghĩa trọng thương .
Chủ nghĩa trọng thương xuất hiện và phát triển ở châu Âu,mạnh nhấtlà ở Anh và

Pháp tư thế kỷ15,16 và thịnh hành vào cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 18. Các học
giả tiêu biểu của chủ nghĩa này là jean Bodin, Melon, (Pháp) và Thomas, Munn,
(Anh) Tư tương cơ bản của chủ nghĩa trọng thương coi vàng và các kim loại quý là
đại biểu cho sự giầu có của các quốc gia . Để có sự giầu có này các quốc gia phải
tiến hành trao đổi với nhau các sản phẩm đặc thù của mình .Lợi nhuận buôn bán
theo chủ nghĩa trọng thương là kết quả của sự trao đổi không ngang giá và lương
gạt giữa các quốc gia .Thương mại quốc tế chỉ có lợi cho một bên và gây ra thiệt
hại cho bên kia “ dân tộc này làm giầu bằng cách hi sinh lợi ích của dân tộc kia “.
Theo tư tưởng đóthì chính phủ là chủ thể chủ yếu của quan hệ thương mại quốc tế.
Để có thể có nhiều vàng và kim loại quỳ thì quốc gia này phải bóc lộtt quốc gia
khác , ngoài ra chính phủ phải sử dụng các công cụ để dẩy mạnh xuất khẩu và hạn
ché nhập khẩu bằng cách tăng thuế nhặp khẩu .
Lý thuyết về thương mại quốc tế của chủ nghĩa trọng thương đã đạt được
những thành tựu đáng kể ,tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế .Nhìn chung
,lý thuyết trọng thương đã sớm đánh giá được tầm quan trọnh của thương mại quốc
tế ,nó khác với trào lưu tư tưởng kinh tế phong kiến thời bấy giò đề cao nền kinh tế
tự cung tự cấp .Vai trò của nhà nước với tư cách la chủ thể điều chỉnh quan hệ
buôn bán của một nước với nước khác đã được coi trọng .tuy vậy lý thuyết về
thương mại quốc tế này còn đơn giản ,ít tính chất lý luận ,thương đựơc nêu lên
dưới hình thức lời khuyên thực tiễn về chính sách kinh tế ,lập luận mang tính chất
kinh nghiệm chưa cho phép giải thích bản chất của thương mại quốc tế
4.1.b,Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Lý thuyết tuyệt đói của AdsmSmỉtha đời gần với 3cuộc cách mạng : Cách mạng
công nghiệp ,cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp .lý thuyết này được xây dựng trên
cởo lý thuết về buôn bán tự do được phát triển vào thời kì này .Theo Adamsmith
các quốc gia sẽ thu được lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế dựa trên lọi thế
tuyệt đối của quốc gia đó.
Việc sử dụng chính khái niệm lợi thế tuyệt đối này là cách giải thích đơn giản
nhất về cách ứng sử trong buôn bán .Rõ ràng việc buôn bán giữa các quốc gia khác
bị thiệt từ thương mại thì họ sẽ từ chối ngay . Giả sử thế giới chỉ có hai quốc gia và

mỗi quốc gia chỉ sản xuất hai mặt hàng giống nhau. Quốc gia tứ nhất có lợi tuyệt
đối trong việc sản xuất hàng hoá X quốc gia thứ hai có lợi tuyệt đối trong việc sản
xuất hàng hoá ýo sánh với quốc gia thứ nhất . Nếu mỗi quốc gia tiến hành chuyên
môn hoá trong việc sản xuất một mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối ,sau đó trao
đổi thì cả hai quốc gia cùng có lợi .Trong quá trình này ,các nguồn lực sản xuất của
cả thế giớisẽ được sử đụng một cách hiệu quả nhất ,do đó tổng sản phẩm của thế
giới sẽ gia tăng . Sự tăng thêm của các sản phẩm của toàn thế giới là nhờ vào sự
chuyên môn hoá và được phân bố giưã hai quốc gia theo tỷ lệ trao đổi thông qua
ngoai thương.
Như vậy ,Việt Nam có lợi thế trong việc sản xuất gạo so với đài Loan còn đài
Loan có lợi thế trong việc sản suất thịt bò . Việt Námẽ chuyên môn hoá ,trong việc
trông lúa còn Đài Loan sẽ chuyên môn hoá trong việc nuôI bò ,hai nước trao đổi
sản phẩm trên cho nhau .
Nừu tỷ lệ trao đổi quốc tế là 6 gạo đổi 6 thịt bò thì Việt Nam sẽ tiết kiệm
được 2kg thịt bò do mỗi giờ công ở Việt Nam chỉ sản xuất được 4kg thịt bò và tỷ
lệ trao đổi nội địa là :6 gạo =4 thịt bò .Tương tự như vậy ,6gạo mà Đài Loan nhận
được từ Việt Nam tương đương với 6giờ công lao động ở đài Loan và có thể tạo
ra 30kg tịt bò như vậy Đài Loan được lợi lợi 30-6=24kg.tỷ lệ trao đổi nội địa là
2gạo=5thịt bò .Tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ là:
64 > Gạo thịt bò tỉ lệ trao đổi quốc tế >1/5
tuy nhiên lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích cho một phần nhỏ của thương mại
quốc tế hiên nay ,đó là thương mại giữa các nước đang phát triển và các nước phát
triển .Phần lớn thương mại thế giới ,đặc biệt là thương mại giữa các nước phát
triển không thể giảI thích được băng lợi thế tuyệt đối.
4.1.c,Lý thuyết về lợi thế tương đối.
Theo David Ricado nếu một quốc gia bất lợi trong việc sản xuất các mặt
hàng thì có thể tham gia vào thương mại quốc tế nếu biết nự chọn mặt hàng thích
hợp có lợi thế sóánh .Lợi thế sóánh là lợi thế đạt được của một quốc gia .nếu quốc
gia đó chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm thể hiện mối tương
quan thuận lợi hơn so với quốc gia khác về cùng mặt hàng đó và nhập khẩu nhữnh

mặt hàng có tính chất ngược lại .Nếu quốc gia nào có hiệu quả thấp trong việc sản
xuất tất cả các mặt hàng thì quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và nhập khẩu
các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ít bất lợi nhất;nhập khẩu hàng hoá bất
lợi nhất .Mô hình lợi thế tương đối có thể minh hoạ qua ví dụ sau:
Bảng số 4 : Lợi thế tương đối của Việt Nam và Đài Loan về thép và vảI theo sản
phẩm lao động.
Hàng hoá Việt Nam-Đài Loan
Thép (Kg/g)1 6
Vải (m) 2 4
Đài Loan có lợi thế tuyệt đối cả hai mặt hàng ,Việt Nam thì không có lợi thế
tuyệt đối .Nừu theo quan đIúm của AdamSmiththì Việt Nam không nhập khẩu mặ
hàng nào và đài Loan xuất khẩu cả hai mặt hàng ;còn theo David Ricảdo thì Việt
Nam có thể tham gia thương mạI quốc tế nếu nựa chọn những mặt hàng có lợi thế
so sánh.
Xét quan điểm tương quan năng xuất <tqchi phí > thì tương quan ngành thép
năng xuất lao động của Đài Loan gấp 6 lần năng xuất lao động của Việt Nam .
Trong nghành vải năng xuất lao động của Đài Loan gấp hai lần năng xuất lao động
cua Việt Nam . Vậy Đài Loan lựa chọn chuyên môn hoá thép còn Việt Nam
chuyên môn hoá vải .
Tỷ lệ trao đổi quốc tế :
12 < Tỷ lệ trao đổi quốc tế Thép vải < 64
Giả sử tỷ lẹ trao đổi quốc tế là 1/1 (6kg thép đổi 6 m vải )thì Đài Loan sẽ lợi
2m vải, tức tiết kiệm được ẵ giờ công . Việt Nam nhận được 6kg thép tương đương
6 giờ công ,Việt Nam sử dụng 6 giờ công để sản xuất vải thì qua trao đổi với Đài
Loan sẽ được lợi 6m vải hay tiết kiệm được 3giờ công .Nừu trao đổi theo tỷ lệ của
Việt Nam thì 6kg thép đổi lấy 13m vải còn theo tỷ lệ của Đài Loan thì 6thép lấy
4vải .Nếu tỷ lệ trao đổi gần tỷ lệ trao đổi nội địa của Đài Loan thì Việt Nam càng
có lợi và ngược lại ,nếu gần tỷ lệ của Vệt Nam thì Đài Loan càng có lợi . Vậy
khoảng dao động của tỷ lệ trao đổi quốc tế là:
4m vải <6kg thép <12m vải.

Trong trường hợp 6kg thép đổi 6m vải thì Đài Loan được 2m vải còn Việt
Nam sẽ được 6m vaỉ . Nếu trao đổi 6kg thép lấy 8m vảI thì Đài Loan được lợi 4m
vải còn Việt Nam cũng được lợi 4m vải . Như vậy khi tỷ lệ trao đổi quốc tế thay
đổi sẽ dẫn đến sự phân phối lại nguồn lợi từ thương mại giữa các nước tham gia.
4.1.dCách tiếp cận của Haberler về lợi thế tương đối .
Lợi thế tương đối ,cách tiếp cận của Hablẻlẻ về lợi thế tương đối .
Xét từ góc độ chi phí cơ hội theo quan điểm của Hablerlerlowij thế tương đối
chính xác hơn nhiều so với cách lý giải của D Ricảdotheo thuyết giá trị lao động .
Theo thuyết này thì chi phí cơ hội của một hàng hoá là khối lượng các hàng hoá
khác phải cắt giamr để nhường đủ số nguồn lực sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá
thứ nhất.
Quốc gia nào có chi phí cơ hội thấp về một mặt hàng nào đó thì quốc gia đó
sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng này và ngược lại.
Bảng số5: Lợi thế tương đối của Việt Nam và Đài Loan về gạo và thịt bò
theo sản phẩm lao động .
Gạo (Kg/h) 6 1

-Đối với Việt Nam:
+Chi phí cơ hội đẻ sản xuất gạo :1kg gạo = 5kg thịt bò.
+Chi phí cơ hội để sản xuất thịt bò: 1kg thịt bò =3/2 kg gạo .
-Đối với ĐàI Loan :
+Chi phí cơ hội để sản xuất gạo : 1kg gạo = 5kg thịt bò .
+Chi phí cơ hội để soản xuất thịt bò :1kg thịt bò = 1/5 kg gạo .
Đài Loan có lợi thế về thịt bò nhưng bất lợi về goạ còn Việt Nam có lợi thế về
gạo nhưng bất lợi về thịt bò.
4.1.e. Đường giới hạn tiềm năng sản xuất của các quốc gia trong điều kiện
chi phí cơ hội không đổi .
Trong điều kiện chi phí cơ hội không thay đổi thì đường giới hạn tiềm năng sản
xuất của một quốc gia là đường thẳng:
Đài Loan sẽ thu được lợi ích tối đa nếu trao đổi tỷ lệ của Việt Nam.

Việt Nam thu được lợi ích tối đa nếu trao đổi tỷ lệ của Đài Loan.
Nếu trao đổi hàng hoá trên cơ sở lợi thé so sánh thì các quốc gia tăng được
sản xuất và tiêu dùng .Vì vậy ,các quốc gia có đIều kiện tăng trưởng nền kinh tế và
điều chỉnh cơ cấu . Đường giới hạn khả năng sản xuất của Đài Loan sau thương
mại song song với đương giới hạn khả năng sản xuất của Việt Nam trước thương
mại ;đường giới hạn của Viêt Nam sau thương mại song song với đương giới hạn
khả năng sản xuất của Đài Loan trước thương mại.
4.1.g.lý thuyết Hekshẻ-Ohlin về lợi thế tương đối .
-Các giả định lý thuyết Hekshẻ-Ohlin là thế giới có hai quốc gia ,hai hàng
hoá ,hai yếu tố lao động và tư bản. Giả định này là bước mở rộng của mô hình D.
Ricardo .
- Một hàng hoá chứa nhiều lao động và tư bản trong một hàng hoá người ta
thường xem xét tỷ lệ K/L:
-Nếu K/N lớn thì hàng có hàm lượng tư bản cao .
-Nếu K/N nhỏ thì hàng hoá này có hàm lượng lao động cao.
- Công nghệ sản xuất ở hai quốc gia không thay đổi ,chi phí sản xuất không
đổi .
-Tỷ lệ thu hồi vốn theo quy mô là hằng số .
-Cạnh tranh hoàn hảo trên thị trương các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra .
Điều này có ý nghĩa là giá cả yếu tố đầu vào và đầu ra được quyết định bởi cung
và cầu .
- không có chi phí vâni tải ,không có hàng rào thuế quan và các trở ngại thác
trong buôn bán của các quốc gia .
-Thương mại hoàn toàn tự do .
Để xét xem hàng hoá giầu lao động hay giầu tư bản cần xem xét tỷ lệ K/L:
hàng hoá nào có tỷ lệ K/L cao thì hàng hoá này được coi là giầu tư bản ;hàng hóa
có tỷ lệ K/L thấp hàng hoá này gọi là hàng hoá giầu lao động .
Để xem xét hàng hoá sử dụng nhiều lao động hay hàng hoá sử dụng nhiều tư bản
phải căn cứ vào chi phí lao động và tư bản để sản xuất ra hàng hoá đó .
Tỷ lệ giữa tư bản và lao động là tỷ lệ tương dối được xêm xét từ góc độ từng

sản phẩm cụ thể ,nếu ở góc độ quốc gia thì để biết được một quộc gia giầu lao
động hay giầu tư bản cần phải căn cứ vào giá cả của lao động hay giá cả của tư
bản . Giá cả của tư bản được thể hiện ở lãi xuất (r) .Giá cả của lao động được tính
bằng tiền lương (w) ,nếu tỷ lệ r/w cao thí đâu là quốc gia giầu lao động bởi lý do
thiếu vốn cho nên giá vốn cao giá lao động thấp .
K/Lcao thì đây là quốc gia giầu vốn
R/Wthấp đây là quốc gia giầu tư bản vì do dư thừa vốn nên lãi suất thấp và
giá lao động cao.
Hàng hoá X là hàng hoá sử dụng nhiều lao động còn hàng hoá Ylà hàng hoá
sử dụng nhiều vốn . Biểu diễn đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc gia :
một quốc gia giầu lao động , một quốc gia giầu vốn.
Quốc gia giầu lao động sẽ sử dụng để sản xuất hàng hoá giầu lao động và
quốc gia giầu vốn sư dụng sản xuất hàng hoá nhiều vốn.
Định lý Hekshẻ-Ohlin.
Một quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu những loại hàng hoá cần sử dụng
nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn đồng thời nhập khẩu những loại hàng hoá mà việc
sản xuất ra chúng cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ỏ nước đó ,đIều này
có nghĩa là một nước tương đối giầu lao động sẽ xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều
lao động và nhập khẩu hàng hoá sử ụng nhiều vốnvà ngược lại.
Cấu trúc cân bằng của Hekshẻ-Chlin.
Để đánh giá sở thích con người sử dụng đường bàng quan tập hợp các điểm có độ
thoả dụng như nhau .
Bắt đầu từ sở hữu của từng cá nhân, cộng đồng người hoặc từng quốc gia cùng với
thu nhập xác định về nhu cầu hàng hoá cuối cùng. Nhu cầu về hàng hoá cuối cùng
làm căn cứ để xác định nhu cầu dẫn xuất về yếu tố như lao động đất đai, vốn,công
nghệ trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo giá cả được xác định trên cơ sở cung và
cầu. Vì vậy gía cả các yếu tố sản xuất được xác định trên cơ sở cung về các yếu tố
và nhu cầu về các yếu tố. Giá cả các yếu tố do tác dụng của công nghệ sẽ quyết
định đến gía cả hàng hoá cuối cùng. Sự khác biệt gữa cácquốc gia về mức giá này
được coi là nguyên nhân trực tiếp của thương mại quốc tế và quyết định hangf hoá

nào sẽ được đưa ra trao đổi .
Dưới góc đôi tiền tệ thì sự khác nhau vè giá cả là nhân tố quan trọng nhất để
xác định moo hình thương mại của quốc gia .
Giả thiết của HekSher-Ohlin là sở thích và thu nhập của các quốc gia như
nhau , công nghệ không đổi nên sư khác nhau về cung dẫn đến sự khác nhau về giá
cả các yếu tố đó . Đây là cơ sở dẫn đến sự khác về giá cả hàng hoá cuối cùng . Như
vậy nguồn lực phát triển của các quốc gia là cơ sở của hoạt động trao đổi của các
quốc gia.
4.1.h. Định lý về sự cân bắng giá cả các yếu tố sản xuất .
Thương mại tự do giữa hai quốc gia sẻ làm cho giá cả các yếu tố sản xuất ở
các quốc gia đó trở nên cân bằng và nếu hai quốc gia cứ tiếp tục sản xuấthai mặt
hàng đó thì gía cả các yếu tố sản xuất của hai quốc gia sẽ thật sự bằng nhau.
Định lý Stolper-Samuelson.
Một sự gia tăng về giá cả tương đối của mặt hàng cần nhiều lao động sẽ làm tăng
mức tiền lương trong giá cả của hai mặt hàng v à làm giảm mức lãi xuất với cả hai
mặt hàng.
4.1.i. Kiểm nghiệm khả năng vận dụng của các nghịch lý lý thuyết. (Định lý
Leontief).
Leontief đã tiến hành kiểm tra bằng mô hình thực nghiệm của Heksher - Ohlin.
Leontief cho rằng Mỹ là một quốc gia giàu có về tư bản do đó hàng hoá xuất khẩu
của Mỹ xuất khẩu chưa nhiều tư bản hàng hoá xuất khẩu của Mỹ giàu lao động.
Tuy nhiên kết quả thực tế cho thấy rằng hàng hoá nhập khẩu của Mỹ chưa nhiều
hơn 30% tư bản so với xuất khẩu. Kết quả này ngược lại với mô hình của Heksher
- Ohlin nên nó được coi là nghịch lý Leontief.
Nghịch lý này được g iải thích bằng nhiều cách khác nhau nhưng đến nay vẫn còn
tồn tại để bảo vệ cho lý thuyết Heksher - Ohlin có thể dựa vào các lập luận sau:
- Số liệu Leontief thiếu chính xác vì các yếu tố này bị biến dạng vì các yếu tố chủ
quan.
- Trong nghịch lý Leoitief chỉ sử dụng 2 yếu tố lao động và tư bản nên bỏ qua yếu
tố tài nguyên, đất đai, khí hậu.

- Do chính sách thuế quan của Mỹ ảnh hưởng đến nghiên cứu của Leontief.
- Leontief chưa t ính đến tư bản đầu tư vào con người mà chỉ đề cập đến tư bản đầu
tư vào vật chất.
4.2. Lý thuyế hiện đại.
4.2.a. Lý thuyến về chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm.
Lý thuyết này giải thích nguyên nhân của hoạt động thương mại quốc tế thông qua
các giai đoạn chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm. Khi sản phẩm ở vào giai đoạn suy
giảm, triệt tiêu trên vòng đời của nó thì nó được bán ra nước ngoài để kéo dài vòng
đời đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đây chính là nguyên nhân của hoạt động
thương mại quốc tế.
4.2.b. Lý thuyết về đầu tư.
Hoạt động đầu tư quốc tế là nền tảng cho hoạt động thương mại bởi vì đầu tư cho
phép khai thác lợi thế đầy đủ và triệt để hơn, bao gồm: Nguồn lực, công nghệ, thị
trường, uy tín, danh tiếng, nhãn hiệu, kinh nghiệm quản lý để thu lợi ích từ thị
trường nước ngoài và vượt qua các hàng rào thuế quan. Do đó có thể nói đầu tư
quốc tế là sự thay thế tốt hơn cho thương mại quốc tế.
II.Tổng quan về hiệp địng thương mại việt mỹ
1. Bối cảnh cuộc đàm phán thương mại Việt – Mỹ
1.1. Bối cảnh chung.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu
thế nổi bật của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Toàn cầu hoá mà trọng tâm là toàn
cầu hoá kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển thương mại trên phạm vi
toàn thế giới. Cái đích cuối cùng mà quá trình toàn cầu hoá hướng tới là một nền
kinh tế toàn cầu thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế .
Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình liên kết, hợp nhất của các nền kinh tế quốc gia
vào nền kinh tế thế giới trên tất cả các lĩnh vực: sản xuất, thương mại, đầu tư, tài
chính, thông tin, vận tải với trình độ phát triển cao, dẫn đến sự hình thành các hệ
thống sản xuất, phân phối, hệ thống tài chính toàn cầu, các mạng lưới thông tin
liên lạc và các hệ thống giao thông vận tải toàn cầu, trong đó các công ty xuyên
quốc gia, các hệ thống tư nhân và các trung tâm kinh tế đóng vai trò nòng cốt.

Toàn cầu hoá kinh tế là bước phát triển cao của quá trình quốc tế hoá đời sống
kinh tế - bước phát triển tất yếu khách quan được quyết định bởi sự phát triển
không ngừng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhờ có
công nghệ toàn cầu phát triển, sự hợp tác giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh
doanh có thể mở rộng từ sản xuất đến phân phối trên phạm vi toàn cầu. Một nền
công nghệ toàn cầu xuất hiện là cơ sở cho các quan hệ kinh tế toàn cầu phát triển.
Đầu tiên là các quan hệ thương mại, chi phí vận chuyển liên lạc ngày càng giảm đi
thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng tăng lên, thương mại toàn cầu càng
có khả năng phát triển. Đồng thời quá trình phân công, chuyên môn hoá sản xuất
càng có thể diễn ra giữa các quốc gia và châu lục. Các quan hệ sản xuất, thương
mại có tính toàn cầu đã kéo theo các dòng tiền tệ, dòng vốn, dịch vụ vận động
trên phạm vi toàn cầu. Công nghệ thông tin đã làm cho các dòng vận động này
thêm náo động và nhanh nhậy. Cơ cấu kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ do có
sự bùng nổ tự do hoá thương mại toàn cầu. Từ năm 1950 đến 1996, tổng sản phẩm
thế giới tăng 6 lần trong khi khối lượng mậu dịch tăng 16 lần. Sản lượng công
nghiệp tăng 9 lần trong khi khối lượng trao đổi các sản phẩm công nghiệp tăng 31
lần. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP của thế giới trong thập kỷ 90 cao hơn 60% so với
tỷ lệ ở năm 1913. Năm 1997, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thương mại thế giới
đạt 6500 tỷ USD - 1/5 sản lượng toàn cầu. Thương mại điện tử xuất hiện với khả
năng ngày càng phát triển và đang trở thành một loại hình buôn bán toàn cầu đầy
triển vọng. Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầu
đang ngày càng xung đột với các thể chế quốc gia, với các rào cản quốc gia. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế toàn cầu đang công phá
các bức tường thành quốc gia. Bước vào thập kỷ 90 các bức tường thành quốc gia
này đã bị phá vỡ ở các quốc gia trong Liên minh Châu âu, ở các quốc gia Bắc Mỹ
với mức độ thấp hơn. Các quốc gia ASEAN đã cam kết giảm bớt rào cản quốc gia.
Các nước thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới cũng đã cam kết một lộ
trình dỡ bỏ hàng rào này, tuy nhiên hàng rào thương mại vẫn còn rất mạnh ở nhiều
nước và ở ngay cả Liên minh Châu âu hay Bắc Mỹ với những hình thức biến
tướng đa dạng đã và đang cản trở quá trình toàn cầu hoá.

Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc, đòi hỏi
phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Chúng ta có thể dẫn ra hàng loạt
các vấn đề toàn cầu như: thương mại, đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực, năng
lượng, môi trường …Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn tài
nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt; dân số thế giới đang gia tăng nhanh chóng
trở thành một thách thức toàn cầu; các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có
sự phối hợp điều tiết đã làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu âu,
Châu Mỹ và Châu á trong thập kỷ 90. Vì vậy cần thiết phải có sự phối hợp toàn
cầu để đối phó với các thách thức đó. “Bàn tay hữu hình” của các Chính phủ chỉ
phát huy tác dụng ở các quốc gia riêng lẻ còn trên phạm vi toàn cầu hiện đang có
quá nhiều “bàn tay hữu hình” va đập vào nhau chứ chưa có một “bàn tay hữu
hình” chung làm chức năng điêù tiết toàn cầu. Ngoài ra chiến tranh lạnh chấm dứt
vào đầu thập kỷ 90 đã kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, tạo ra một thời kỳ
hoà bình, hợp tác và phát triển mới.
Toàn cầu hoá là một quá trình tất yếu trong lịch sử phát triển xã hội loài người, là
hệ quả của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, của các phương tiện khoa
học công nghệ. Toàn cầu hoá, khu vực hoá dẫn đến một hệ quả là hình thành xu
thế hội nhập quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, tính tuỳ thuộc
lẫn nhau giữa các nước, các khu vực không ngừng gia tăng, tạo điều kiện đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh thế giới, duy trì môi trường hoà bình và ổn định, tạo những
điều kiện và cơ hội thuận lợi cho sự hợp tác trên quy mô khu vực và toàn cầu vì
mục tiêu phát triển bền vững của mỗi nước và của toàn thế giới.
Việc tự do hoá thương mại, huỷ bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan,
xoá bỏ mọi phân biệt đối xử trong quan hệ buôn bán quốc tế đã đánh dấu sự hoà
nhập các nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi vào một hệ thống đa
phương. Như vậy là thời đại của hàng rào thuế quan cao, của cách thức đóng cửa ở

×