Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Sự vận dụng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa của đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.34 KB, 74 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

PHẠM XUÂN HỒNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN TRIẾT HỌC

HUẾ, 5/2011

1


ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

SỰ VẬN DỤNG
HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
CỦA ĐẢNG TA TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI

HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:


SINH VIÊN THỰC HIỆN:

TH.S. HOÀNG NGỌC VĨNH

PHẠM XUÂN HỒNG

HUẾ, 5/2011

2


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU…………………………………. ………………………….......
B. NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI…………………………………………
1.1 Phạm trù hình thái kinh tế-xã hội…………………………………………
1.1.1 Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội……………………………………
1.1.2 Kết cấu của hình thái kinh tế - xã hội……………………………………
1.2 Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên .....
1.3 Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa……………………………
1.3.1 Thời kì quá độ…………………………………………………………
1.3.2 Chủ nghĩa xã hội……………………………………………………….
1.3.3 Chủ nghĩa cộng sản……………………………………………………
Chương 2: SỰ VẬN DỤNG HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN
CHỦ NGHĨA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
HIỆN NAY Ở VIỆT NAM………………………………………………
2.1 Sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay…………………………

2.1.1 Giai đoạn những năm trước 1960………………………………………
2.1.2 Giai đoạn từ những năm 1960 đến 1985………………………………
2.1.3 Thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay………………………………………
2.2 Những nội dung cơ bản trong thời kỳ đổi mới định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay ở Việt Nam……………………………
2.2.1 Phát triển kinh tế thị trường là một động lực xuyên suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa………
2.2.2 Đẩy mạnh CNH, HĐH đặc biệt là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam……....
2.2.3 Kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với việc xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong suốt thời kỳ quá độ………………..
2.2.4 Kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và các mặt khác
trong đời sống xã hội…………………....
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và
đang đi vào cuộc sống, xã hội nước ta đang ở vào một thời kỳ mới có ý
nghĩa rất trọng đại trong tồn bộ lịch sử dân tộc, đó là thời kỳ cơng nghiệp
hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Đây là quá trình lịch sử sẽ đưa nhân dân
ta, dân tộc ta thốt khỏi đói nghèo và lạc hậu, đồng thời là q trình rất khó
khăn và có nhiều thách thức lớn. Nó tiếp tục đặt ra và đòi hỏi phải giải đáp
nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách cả về thực tiễn và lý luận, nhằm làm
sáng tỏ hơn nữa con đường phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Qua 25 năm đổi mới nước ta đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp,

nhưng việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cợng sản chủ
nghĩa cũng cịn có những sai lầm, hạn chế. Những sai lầm, hạn chế đó là
do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về nhận thức. Do trình độ
nhận thức về học thuyết cịn hạn chế, thậm chí cịn lệch lạc ở một số vấn
đề cụ thể, mặt khác do sự vận dụng còn mang tính giáo điều, thiếu sáng
tạo, chưa phản ánh đầy đủ hồn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, vì thế
dẫn đến những sai lầm trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, ảnh
hưởng tiêu cực tới tiến trình phát triển của đất nước. Muốn đưa đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội phải đổi mới nhận thức, phải vận dụng sáng tạo
học thuyết vào trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và đặc điểm mới của
thời đại.
Đặc biệt là từ sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở một số nước tan
rã sụp đổ thì học thuyết Mác - Lênin nói chung, học thút hình thái kinh
tế - xã hội nói riêng đang bị xuyên tạc và cơng kích từ nhiều phía. Các
phần tử cơ hội dưới mọi màu sắc, tìm cách phủ nhận học thuyết. Có những
người trong cán bộ, đảng viên cũng tỏ ra nghi ngờ, kém tin tưởng ở sức
sống của học thuyết, do dự trong việc vận dụng học thuyết vào thực tiễn…
Vì vậy việc khẳng định những giá trị khoa học đích thực của học thuyết,
từ đó mà có phương hướng vận dụng đúng đắn và sáng tạo vào trong thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội là vấn đề đang đặt ra.
Xuất phát từ nhận thức trên, em mạnh dạn chọn đề tài “Sự vận dụng
hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa của Đảng ta trong công
cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử
nhân triết học của mình.

4


2. Tình hình nghiên cứu của khóa luận
Vấn đề nghiên cứu và vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội

Cộng sản chủ nghĩa từ lâu đã được nhiều nhà khoa học và chính trị ở Liên
Xơ (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa quan tâm. Đặc biệt từ sau khi chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Đơng Âu khủng hoảng và sụp đổ thì vấn đề trên
được nhiều nhà nghiên cứu ở Trung quốc đề cập tới. Chẳng hạn tác giả Du
Thúy “Mùa đông và mùa xuân Mátxcơva - Sự chấm dứt một thời đại” (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà nội 1995), đã đề cập một số nguyên nhân sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô. Một tập thể tác giả do Mã Hồng làm
chủ biên “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà
nội 1995), đưa ra một số nhận định cần suy nghĩ về xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Ngồi ra cịn có một số bài nghiên
cứu của các tác giả nước ngồi đăng trên các tạp chí khác trong và ngoài
nước.
Vấn đề trên được đặc biệt chú ý ở Việt Nam. Trước đây các cơng
trình nghiên cứu ở nước ta vẫn tập trung giải quyết vấn đề quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy thời gian đó hệ
thống chủ nghĩa xã hội vẫn chưa có khủng hoảng trầm trọng, chưa tan rã,
nhận thức về chủ nghĩa xã hội vẫn chưa có những biến đổi bước ngoặt, cho
nên vấn đề trên được đặt ra và giải quyết có những điểm khác so với hiện
nay. Khơng thể nói những cơng trình nghiên cứu trước đây khơng cịn giá
trị đối với ngày nay, song đúng là thực tiễn đang đặt ra những vấn đề mới,
cần được bổ sung làm sáng tỏ.
Vấn đề nêu trên đã được đề cập tới ở một số khía cạnh trong các
sách và bài viết của tác giả:
- Đào Duy Tùng: “Qúa trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994), đã khái quát
các giai đoạn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Giáo sư Trần Xuân Trường: “Định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam một số vấn đề lý luận cấp bách ”(Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội
1996), đề cập đến một số vấn đề của lý luận hình thái kinh tế - xã hợi và sự
vận dụng nó trong tình hình mới.

- Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Duy Qúy (Chủ biên) “Những
vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1998), là những kết luận có ý nghĩa

5


cả về lý luận và thực tiễn trên cơ sở khái quát quan điểm của C.Mác,
Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ chí Minh về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam của Đảng ta.
- Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đức Bách, tiến sĩ Lê Văn Yên, Nhị Lê:
“Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ”(Nxb Lao
động, Hà nội 1998), đã xem xét những đặc thù của con đường lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và một số nội dung của con đường đó.
- Tiến sĩ Phạm Văn Chung: “Học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội
và lý luận về con đường phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta ” (Nxb Chính
trị quốc gia, Hà nội 2005), đã xem xét nội dung khoa học của học thuyết
Mác về hình thái kinh tế - xã hội và mối liên hệ hữu cơ của nó đối với lý
luận về con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Giáo sư Hồ Văn Thơng: "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay" (Tạp chí Cộng sản số 4-1994),
đã nêu lên sự cần thiết phải bổ sung, phát triển nhận thức về một số vấn đề
của lý luận đó.
- Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Long "Triết học Mác - Lênin với việc
nhận thức xã hội trong thế giới ngày nay" (Tạp chí Cộng sản số 23-1998),
đã đưa ra quan điểm khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung, lý
luận hình thái nói riêng và vận dụng nó vào nhận thức xu thế xã hội hiện
nay.
- Giáo sư, tiến sĩ Lê Hữu Nghĩa "Về nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam"

(Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 1-1999), đã khẳng định việc thực hiện kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước ngoặt trong nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
ta.
- Giáo sư, tiến sĩ Phạm Ngọc Quang "Định hướng và giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa - một số vấn đề lý luận" (Tạp chí Sinh hoạt lý luận
số 1-1999), đã đưa ra quan điểm trong nhận thức về vấn đề định hướng và
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhìn chung các cơng trình trên, đặc biệt là các cơng trình trong nước
đều tập trung vào việc bảo vệ lý luận hình thái kinh tế - xã hội và vận dụng
nó vào việc xác định mục tiêu, thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam trong điều kiện mới. Tuy nhiên thực tiễn luôn vận động, đường

6


hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt ra những vấn đề mới cần được
tiếp tục lý giải và khẳng định.
Với tình hình nghiên cứu này, trên cơ sở kế thừa, tiếp thu và hệ
thống hóa kiến thức về những quan điểm khoa học của những người đi
trước nhằm đi sâu hơn việc nghiên cứu vấn đề con đường phát triển tất yếu
của chủ nghĩa xã hội ở Việt nam dưới góc độ triết học, nhằm góp phần làm
sáng tỏ và đầy đủ hơn về mặt lý luận và thực tiễn của vấn đề cần nghiên
cứu, tôi chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình là “Sự vận dụng hình
thái kinh tế – xã hội Cộng sản chủ nghĩa của Đảng ta trong công cuộc
đổi mới hiện nay ở Việt Nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Mục đích của đề tài khóa ḷn là làm sáng tỏ quan điểm lý luận cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ
nghĩa và sự vân dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

Nhiệm vụ của đề tài khóa luận:
- Một là: Phân tích sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Từ đó làm sáng tỏ xu thế vận
động tất yếu khách quan của chủ nghĩa xã hội trong q trình lịch sử - tự
nhiên của xã hội lồi người.
- Hai là: Làm rõ nguyên nhân của sự lựa chọn con đường quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đọan phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa là
đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Ba là: Nêu lên sự vận dụng của Đảng ta vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận
- Cơ sở lý luận của khóa luận: Phép biện chứng duy vật và quan
điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu của khóa luận: Là các phương pháp phân
tích-tổng hợp, phương pháp lơgíc-lịch sử và một số phương pháp khác.
5. Đóng góp của khóa luận
- Đề tài của khóa ḷn góp phần làm rõ tính đúng đắn thực sự khoa
học của sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời góp phần vào việc tìm ra các

7


nguyên tắc và giải pháp của sự vận dụng hình thái kinh tế-xã hội Cộng sản
chủ nghĩa của Đảng ta trong điều kiện mới của Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu của khóa luận
- Ngồi phần mục lục, phần mở đầu, phần kết luận, và danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của đề tài được chia làm 2 chương với 5 tiết:
Chương 1: Những nội dung cơ bản của triết học Mác-Lênin về hình

thái kinh tế-xã hội.
1.1 Phạm trù hình thái kinh tế-xã hội
1.2 Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên
1.3 Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa
Chương 2: Sự vận dụng hình thái kinh tế-xã hội Cộng sản chủ nghĩa
của Đảng cộng sản Việt Nam vào công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam.
2.1 Sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.2 Những nội dung cơ bản trong thời kỳ đổi mới định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam

8


B. NỘI DUNG KHÓA LUẬN
Chương 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ -XÃ HỘI

1.1 Phạm trù hình thái kinh tế-xã hội
1.1.1 Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội
Khi phân tích tính tất yếu lịch sử của xã hội loài người, các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác-Lênin đã phát hiện ra học thuyết về hình thái kinh tế xã hội. Trước Mác các nhà xã hội học và sử học thường nói về mục đích và
sự tiến bộ của xã hội một cách trừu tượng theo quan điểm của chủ nghĩa
duy tâm chủ quan. Chỉ từ khi có chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác, (vì sao
sau dấu phẩy lại viết hoa?) Thì nhân loại mới có một lý luận thật sự khoa
học để nhận thức bản chất của xã hội, tức là các quy luật khách quan chi
phối sự vận động và phát triển của xã hội.
Trong học thuyết ấy, Mác đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế - xã
hội bằng cách phân tích các quan hệ vốn có giữa người với người trong đời

sống hằng ngày và coi các quan hệ xã hội về mặt vật chất, trong hệ thống
các quan hệ xã hội hết sức phức tạp, Mác đã vạch ra quan hệ sản xuất được
hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất là quan hệ cơ bản
của xã hội, là cơ sở của các quan hệ khác. Lê nin đã chỉ rõ: “Mác đã xây
dựng tư tưởng cơ bản đó bằng cách nào? Bằng cách là trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, ông đã làm bật riêng lĩnh vực kinh tế, bằng
cách là trong tất cả một quan hệ xã hội, ông đã làm nổi bật riêng những
quan hệ sản xuất, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định
tất cả mọi quan hệ khác”[8, 159].
Thực vậy, con người liên hệ và tác động lẫn nhau trước hết là trong
q trình sản xuất vật chất, khơng có những mối quan hệ đó thì khơng
thành xã hội và khơng có quy luật xã hội. Mỗi xã hội điều có kiểu quan hệ
sản xuất riêng của nó nằm trong một phương thức sản xuất nhất định, tiêu
biểu cho chế độ kinh tế của xã hội đó. Trong tác phẩm Lao động làm thuê
và tư bản Mác viết: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành
cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp
thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, xã hội có
tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản
điều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng
thời là đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân
loại”[13, 95]. Từ khái quát đó Mác đã cho chúng ta thấy được tính lặp lại

9


trong mọi xã hội nhờ đó mà tìm ra tính quy luật trong sự phát triển của xã
hội, và mang lại một tiêu chuẩn thật sự khách quan để phân biệt xã hội này
với xã hội khác trong lịch sử.
Mỗi một xã hội điều có kiểu quan hệ sản xuất của nó nằm trong một
phương thức sản xuất nhất định, tiêu biểu cho chế độ kinh tế của xã hội đó.

Các kiểu quan hệ sản xuất ấy đều là những quan hệ vật chất, đều là phương
thức xã hội của mọi quá trình sản xuất. Việc phát hiện ra những quan hệ xã
hội vật chất cơ bản, nguyên thủy và phổ biến của mọi cộng đồng từ xưa tới
nay các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp một tiêu chuẩn hoàn toàn
khách quan bằng cách tách riêng những quan hệ sản xuất, với tư cách là cơ
cấu của xã hội và bằng cách cho chúng ta có khả năng ứng dụng vào
những quan hệ ấy, cái tiêu chuẩn khoa học chung về tính lặp lại, tiêu chuẩn
mà phái chủ quan chủ nghĩa cho là không ứng dụng vào xã hội học được…
Việc phân tích các quan hệ phức tạp khác của đời sống xã hội, của
các tập đoàn người trong đời sống xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định, chính trên cơ sở của sự trừu tượng khoa học nói trên, Mác đã xây
dựng một phạm trù khoa học cho chủ nghĩa duy vật lịch sử, cho xã hội
khoa học mác-xít phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Song Mác không
dừng lại ở lý luận trừu tượng về xã hội về quan hệ sản xuất nói chung mà
đi sâu nghiên cứu một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể là xã hội tư bản và
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
được phân tích sâu sắc và tồn diện trong mối liên hệ hữu cơ với những
quan hệ khác của xã hội tư bản.
Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan cơ bản để phân biệt hình
thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội khác, chế độ xã hội
này với chế độ xã hội khác. Mác nói, đối với hình thái kinh tế - xã hội,
quan hệ sản xuất là “bộ xương’’, ngồi ra cịn có những quan điểm về
chính trị , pháp lý, đạo đức, triết học,… cùng với những thể chế tương ứng
được hình thành trên cơ sở của quan hệ sản xuất ấy. Những quan hệ sản
xuất này gộp thành cơ sở hạ tầng xã hội, trên cơ sở ấy xuất hiện một kiến
trúc thượng tầng tương ứng với nó. Quan hệ sản xuất ln gắn bó khăng
khít với lực lượng sản xuất, hai mặt này tạo thành thể thống nhất hữu cơ
của phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất là nền tảng vật chất của
hình thái kinh tế - xã hội. C.Mác viết: “Về đại thể, có thể coi các phương


10


thức sản xuất Châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại là những thời
đại tiến triển dần của hình thái kinh tế - xã hội”[8, 198].
Như vậy. Căn cứ vào tư vào tư tưởng của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn lịch sử chúng ta có thể khái qt như sau:
Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất
của xã hợi đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất,
và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất của xã hội ấy.
Khái niệm chung đó áp dụng cho mọi xã hội, song phương pháp của
Mác địi hỏi phải phân tích cụ thể khi xem xét hình thái kinh tế - xã hội cụ
thể. Ngoài các mặt cơ bản của xã hội đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã
hội cịn có quan hệ gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan
hệ đó điều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng sự biến đổi
của quan hệ sản xuất. Giữa các mặt cơ bản tạo thành một hình thái kinh tế xã hội tất yếu nảy sinh những mối liên hệ có tính quy luật như mối liên hệ
biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Chính sự liên
hệ và tác động lẫn nhau giữa các mặt nói trên là động lực bên trong của sự
phát triển xã hội, thúc đẩy sự tiến bộ của lịch sử.
1.1.2 Kết cấu của hình thái kinh tế-xã hội
Theo định nghĩa kinh điển trên đây, thì hình thái kinh tế - xã hội là
một hệ thống hồn chỉnh, có cấu trúc phức tạp trong đó có các mặt cơ bản
là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt
của hình thái kinh tế xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau,
thống nhất với nhau:
Lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định, quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ ấy của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng được xây

dựng trên quan hệ sản xuất ấy.
Trong kết cấu này, lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định là kết
quả của những năng lực thực tiễn của con người, là mức độ, năng lực làm
chủ của con người xã hội đối với những sức mạnh tự nhiên, xã hội và bản
thân con người trong một giai đoạn lịch sử, mà trước hết là năng lực làm
chủ đối với tự nhiên.

11


Trình độ của lực lượng sản xuất được thể hiện ở mọi yếu tố cấu
thành của nó, nhưng thể hiện tập trung ở yếu tố công cụ lao động và được
thể hiện ra ở sự phân công lao động xã hội.
Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì người lao động là
yếu tố quyết định. Chính người lao động không những tạo ra những tư liệu
sản xuất, khoa học, tìm ra và biến đổi những đối tượng lao động mới, mà
còn điều khiển các lực lượng sản xuất để tạo ra của cải. Do đó, lực lượng
sản xuất là lực lượng của bản thân con người và trình độ của lực lượng sản
xuất cũng chính là trình độ phát triển của chính bản thân con người, là sự
phát triển năng lực làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân con người qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau. Trình độ đó khơng chỉ tồn tại trong bản thân
con người (trí tuệ, tinh thần, kỹ năng) dưới dạng tiềm năng, mà cịn được
vật hóa, biểu hiện ra ở các công cụ, phương tiện sản xuất, và nhất là trong
hoạt động sản xuất đạt được mục đích thực tiễn của con người. Do đó,
càng làm chủ được những sức mạnh tự nhiên, xã hội và bản thân, thì trình
độ của lực lượng sản xuất của con người càng nâng cao, nghĩa là hiệu quả
sản xuất của con người ngày càng cao.
Như vậy lực lượng sản xuất là nền tảng của vật chất – kỹ thuật của
mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực
lượng sản xuất khác nhau. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản

xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình
thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm các quan hệ giữa người và người trong
việc sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức lao động và phân phối sản phẩm xã
hội. Ở đây quan hệ trong việc sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết
định.
Trong lịch sử, các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất thường là
quan hệ giữa người sở hữu những tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội và
người sở hữu những tư liệu sản xuất không cơ bản hoặc không sở hữu. Bản
chất của các quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người và người về những lợi
ích kinh tế. Người sở hữu những tư liệu sản xuất cơ bản có lợi ích kinh tế
cơ bản, phổ biến và sự sở hữu của họ là sở hữu, làm chủ được những điều
kiện quyết định đối với việc thực hiện lợi ích ấy. Cịn người sở hữu những
tư liệu sản xuất khơng cơ bản hoặc không sở hữu là người bị tước mất hoặc
khơng có khả năng nắm được những điều kiện để thực hiện những lợi ích

12


của mình. Các quan hệ sản xuất tạo thành những hình thức sở hữu hay chế
độ sở hữu đặc trưng cho các giai đoạn phát triển sản xuất xã hội trong lịch
sử.
Có hai hình thức sở hữu phổ biến: sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội:
- Hình thức sở hữu tư nhân là hình thức mà trong đó những tư liệu
sản xuất cơ bản của xã hội nằm trong tay số ít các cá nhân. Trong hình
thức này, nền sản xuất xã hội được tổ chức theo phương thức phục tùng lợi
ích của số ít cá nhân. Sở hữu của chủ nô, phong kiến, địa chủ, tư sản là
những hình thức sở hữu tư nhân điển hình.
- Sở hữu xã hội là hình thức mà trong đó các tư liệu sản xuất cơ bản
của xã hội nằm trong tay đa số các cá nhân, do đó nền sản xuất xã hội được

tổ chức theo phương thức phục tùng lợi ích của đa số các thành viên trong
xã hội. Có thể thấy rõ các hình thức sở hữu xã hội trong lịch sử là: sở hữu
công xã thời cổ, sở hữu nhà nước trong chủ nghĩa xã hội, sở hữu tập thể.
Như vậy, “các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội
quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác”[8, 159]. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội bao gồm các hình thái ý thức xã
hội như chính trị, pháp quyền, triết học, tơn giáo, nghệ thuật,... những hình
thái ý thức xã hội này là những quan niệm tư tưởng xã hội và những thiết
chế tương ứng của chúng. Kiến trúc thượng tầng khơng bao gồm tồn bộ
đời sống tinh thần xã hội. Những bộ phận của đời sống tinh thần được xã
hội ý thức và chủ động tổ chức quá trình tạo ra và vận dụng chúng vào đời
sống xã hội thì chắc chắn thuộc về kiến trúc thượng tầng, cịn những q
trình tinh thần nảy sinh một cách ngẫu nhiên, tự phát trong đời sống hằng
ngày của con người thì khơng hồn tồn thuộc về kiến trúc thượng tầng.
Trong kiến trúc thượng tầng xã hội, thì hình thái ý thức chính trị, pháp
quyền đóng vai trị quyết định. Kiến trúc thượng tầng được hình thành và
phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là cơng cụ để bảo vệ,
duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Những yếu tố cơ bản nói trên của hình thái kinh tế - xã hội, liên hệ
chặt chẽ với nhau làm thành những mối liên hệ bên trong, căn bản, tất yếu
và quyết định toàn bộ chế độ xã hội. Lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định là yếu tố xét đến cùng quyết định các yếu tố khác và quyết định

13


mối liên hệ giữa chúng. Sự hình thành, biến đổi của mỗi hình thái kinh tế xã hội đều bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
thay đổi về chất của lực lượng sản xuất, rõ nhất là sự thay đổi của công cụ
lao động, quyết định sự thay đổi về chất của quan hệ sản xuất và do đó

quyết định sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng xã hội. Khi quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thì
lực lượng sản xuất chính là lực lượng của những cá nhân đang sở hữu nó,
cịn quan hệ sản xuất, hình thức sở hữu thống trị chính là hình thức tất yếu
mà trong đó lực lượng sản xuất đang phát triển.
Tuy nhiên, trong tính độc lập của nó, quan hệ sản xuất cịn là yếu tố
trực tiếp quy định kiến trúc thượng tầng của xã hội. Và đến lượt mình, kiến
trúc thượng tầng trực tiếp xác lập tính tồn vẹn của đời sống xã hội, nó
biểu hiện quan hệ sản xuất dưới hình thức các quan hệ chính trị, pháp
quyền và tinh thần xã hội nói chung. Về thực chất, kiến trúc thượng tầng
xã hội là hệ thống của giai cấp, lực lượng thống trị về kinh tế, thể hiện rõ
nhất ở hệ thống chính trị, nhà nước và pháp quyền.
Như vậy là chỉ có thể xác định nội dung khái niệm hình thái kinh tế xã hội dựa vào tất cả các yếu tố nói trên với những mối liên hệ chỉnh thể
giữa chúng. Chính chúng quy định tính tất yếu khách quan của các chế độ
xã hội trong lịch sử.
Hình thái kinh tế - xã hội với ba yếu tố cơ bản và những mối liên hệ
được tạo nên giữa chúng và là một trong những cách hiểu thường thấy về
hình thái kinh tế - xã hội. Những yếu tố và những mối liên hệ này được
hiểu dưới hình thức thuần khiết nhất của chúng, nghĩa là chúng đặc trưng
cho một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và chỉ xuất hiện trong hình thái
ấy, khơng pha tạp với các yếu tố lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng của các hình thái kinh tế - xã hội khác. Việc hiểu
hình thái kinh tế - xã hội theo cách xem xét này cho phép nắm được cái cốt
yếu của nó, để khơng thể nhầm lẫn với hình thái kinh tế - xã hội khác.
Ngồi các mặt cơ bản đã nêu trên, cấu trúc của một hình thái kinh tế
- xã hội cịn có thêm các quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội
khác. Các quan hệ đó gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng
với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.

14



1.2 Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn
nối tiếp nhau từ thấp đến cao tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái
kinh tế - xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã
hội trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan đó là q
trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Trong “Lời tựa” tác phẩm Góp phần phê
phán khoa kinh tế - chính trị C.Mác viết “Tơi coi sự phát triển của những
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”[16, 21]. Điều
này khẳng định các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển theo các
quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người.
V.I.Lênin viết “Mác coi sự vận động xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên chịu chi phối của những quy luật khơng những phụ thuộc vào ý chí,
ý thức và ý định của con người”[8, 200]
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã
quyết định làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất
thay đổi sẽ làm kiến trúc thượng tầng thay đổi theo và do đó mà hình thái
kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao
hơn tiến bộ hơn. Điều này đã được V.I.Lênin lý giải như sau “Chỉ có đem
quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem quy những
quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta
mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”[8, 163].
Trong lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác coi quan hệ sản xuất,
lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng là những mặt cơ
bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội. Các mặt đó khơng thể tách rời
mà liên hệ biện chứng với nhau, chính mối liên hệ biện chứng trong quá

trình vận động của các yếu tố đó mà hình thành nên những quy luật phổ
biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính do sự tác động
của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động,
phát triển và thay thế nhau từ thấp đến cao trong lịch sử như một quá trình

15


lịch sử - tự nhiên không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng chủ quan của
con người.
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác nhấn mạnh quy luật về sự phù hợp
của các quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
và coi đó là quy luật có vai trị quyết định nhất. Trong đó, một mặt của
phương thức sản xuất tức là lực lượng sản xuất – là yếu tố đảm bảo tính kế
thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định khuynh hướng phát
triển từ thấp đến cao; còn mặt khác của phương thức sản xuất là quan hệ
sản xuất – biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử, những
quan hệ sản xuất lỗi thời được xóa bỏ và thay thế bằng những kiểu quan hệ
sản xuất mới cao hơn và do đó hình thái kinh tế - xã hội mới, cao hơn cũng
ra đời.
Như vậy, sự xuất hiện, sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội, sự
chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội
mới cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động có quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất bởi đó là quy luật thể hiện khuynh hướng tự tìm đường cho mình
trong sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế - xã hội.
Từ đó có thể hiểu, q trình “lịch sử tự nhiên” có nghĩa là con người

làm ra lịch sử của mình, đó là xã hội nhưng xã hội đó vận dụng theo quy
luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
C.Mác coi phương thức sản xuất Châu Á, cổ đại, phong kiến, tư sản và
hiện đại là những thời đại tiến triển dần của các hình thái kinh tế - xã hội.
Trong đó mỗi hình thái kinh tế - xã hội được coi như là một cơ thể xã hội
phát triển theo quy luật vốn có của nó. Sự thay thế kế tiếp nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội từ xã hội cộng sản nguyên thủy lên xã hội chiếm
hữu nô lệ, từ xã hội chiếm hữu nô lệ lên xã hội phong kiến, từ xã hội
phong kiến lên xã hội tư bản chủ nghĩa đó là q trình tiến hóa bao hàm
những bước nhảy vọt đã tạo nên sự tiến bộ trong lịch sử lồi người.
Trên cơ sở đó, khi nghiên cứu các quy luật của sự phát triển xã hội
nói chung và của chủ nghĩa tư bản nói riêng C.Mác đã đi đến kết luận khoa
học rằng sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế - xã hội mới đó là hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

16


Theo Mác sự thay thế của một hình thái kinh tế - xã hội này bằng
một hình thái kinh tế - xã hội khác thường được thực hiện thông qua cách
mạng xã hội. Nguyên nhân sâu xa của các cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất; khi quan hệ sản xuất trở
thành xiềng xích của lực lượng sản xuất. Trong những thời kỳ cách mạng,
khi cơ sở kinh tế thay đổi thì sớm hay muộn tồn bộ kiến trúc thượng tầng
đồ sộ cũng phải thay đổi theo. Từ đó, các nhà kinh điểm của chủ nghĩa
Mác–Lênin đi đến kết luận hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa nhất
định sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và
sự thay thế này cũng là một quá trình lịch sử tự nhiên. Quá trình này được
Mác chỉ rất rõ trong bộ “Tư bản”.
Một cống hiến to lớn nữa của các nhà kinh điển là các ơng đã chỉ ra

q trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người được thực hiện thơng qua
những thời kỳ q độ giữa các hình thái kinh tế - xã hội. Theo các ơng, từ
hình thái kinh tế - xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế - xã hội khác có
một giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết cấu và hình
thức biểu hiện khác nhau đó là thời kỳ quá độ. Quan niệm về thời kỳ quá
độ đã được Mác–Lênin nói rất rõ nhưng chủ yếu về thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản chủ nghĩa.
Một yếu tố khác cũng nằm trong nội dung quan niệm về quá trình
lịch sử - tự nhiên đó là quan niệm về sự phát triển “rút ngắn”. Theo các
nhà kinh điển, nếu xem xét ở phạm vi lịch sử tồn nhân loại thì lịch sử xã
hội loài người đã phát triển qua một số hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Song do đặc điểm về lịch sử, không gian, thời gian cho nên không phải
quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội có tính
tuần tự từ thấp đến cao theo một sơ đồ chung. Thực tế lịch sử chứng tỏ
rằng, có nhiều quốc gia trong những điều kiện lịch sử nhất định đã phát
triển tuần tự qua các hình thái kinh tế - xã hội, đồng thời một số quốc gia
khác lại phát triển theo con đường bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội
nào đó để tiến lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
Từ thực tế lịch sử đó, C.Mác đã nêu lên tư tưởng về khả năng phát
triển “rút ngắn” trong những điều kiện nhất định, cịn Lênin đã nêu lên khả
năng “khơng phải trải qua gia đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội đối với những nước lạc hậu, ông cho rằng trong
những điều kiện nhất định con đường phát triển của các dân tộc tiền tư bản

17


chủ nghĩa không nhất thiết phải diễn ra một cách tuần tự như lịch sử sinh
thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản mà các nước tư bản đã trải qua.
Lênin giải thích theo quy luật kế thừa của lịch sử lồi người ln

cho phép cộng đồng nào đó trong những điều kiện nhất định, do tác động
của các nhân tố các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài có thể bỏ qua giai
đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ tiên tiến của nhận loại.
Trong lịch sử thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản
xuất vật chất, kỹ thuật, văn hóa, chính trị,... Sự giao lưu hợp tác với các
trung tâm đó và những nhân tố khác làm xuất hiện khả năng một số nước
đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không phải lặp lại tuần tự các
quá trình đã qua của lịch sử nhân loại.
Trong thời đại ngày nay, chủ trương phát triển “rút ngắn” để đi lên
chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia tiền tư bản chẳng những không mâu
thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính lịch sử - tự nhiên mà cịn
biểu hiện sinh động của q trình lịch sử - tự nhiên và thực tiễn đã chứng
minh sự đúng đắn lý luận của chủ nghĩa Mác về con đường “rút ngắn”
bằng sự ra đời của một số nước chủ nghĩa xã hội như ở Việt Nam, chủ
nghĩa xã hội đã hình thành mà khơng trải qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa.
Tóm lại, từ sự phân tích trên có thể thấy rằng quan niệm về sự phát
triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả
sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong những điều
kiện lịch sử nhất định để tiến lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
ơ

1.3 Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa
1.3.1 Thời kì q độ
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội: Để chuyển từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa – xã
hội mà chủ nghĩa xã hội phát triển trên chính cơ sở vật chất – kỹ thuật của
nó, cần phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ

những căn cứ sau:
Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất.
Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất; dựa trên chế độ áp bức và bóc lột. Chủ nghĩa xã hội

18


được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn
tại dưới hai hình thức là nhà nước và tập thể; khơng cịn các giai cấp đối
kháng, khơng cịn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần
phải có một thời kỳ lịch sử nhất định.
Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên sản xuất đại công
nghiệp có trình độ cao. Q trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
cơ sở vật chất – kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn cho
cơ sở vật chất – kỹ thuật đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần có thời gian
tổ chức, sắp xếp lại.
Đối với những nước chưa từng trải qua q trình cơng nghiệp hóa
tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất
– kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội có thể phải kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm
của nó là tiến hành cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội khơng tự phát nảy
sinh trong lịng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng
và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở
trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình
thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có
thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
Bốn là, cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cơng việc mới
mẻ, khó khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp cơng nhân
từng bước làm quen với những cơng việc đó.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát
triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra với thời gian dài - ngắn khác
nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình
độ cao thì khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ có thể tương đối
ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình
độ trung bình, đặc biệt là những nước cịn ở trình độ phát triển tiền tư bản,
có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó
khăn, phức tạp.
Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân

19


tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại
một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân
thống nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, khơng thể dùng ý trí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành
phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước cịn ở trình độ chưa trải
qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng về tính tất yếu của sự tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần vào quá trình chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
Xơ viết, V.I.Lênin đã phân tích kết cấu nền kinh tế nước Nga lúc đó với 5
thành phần, được xếp theo trình độ phát triển của chúng từ thấp đến cao
trong lịch sử, đó là: kinh tế nơng dân kiểu gia trưởng, kinh tế hàng hóa
nhỏ, kinh tế tư bản, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Các thành phần kinh tế này tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất, vừa
mâu thuẫn và đấu tranh với nhau. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế
đó chỉ có thể được giải quyết trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở
hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan
xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau,
trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trị là
hình thức phân phối chủ đạo.
Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp xã hội trong thời
kỳ này cũng đa dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân, tầng lớp tri thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư
sản. Các giai cấp, tầng lớp này, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Trong một giai
cấp, tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, có ý thức khác nhau.
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hóa khác nhau. Bên
cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm
lý tiểu nông,... V.I.Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư sản là “ kẻ thù giấu
mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng
công khai”[10, 285-286]. Trên lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại các yếu tố văn

20


hóa cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau. Thực chất của thời
kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc
đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại khơng cịn là giai cấp
thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công
nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra

trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà
nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp
với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh
tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tun truyền vận động là chủ yếu bằng hành
chính và luật pháp.
Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Trong lĩnh vực kinh tế: Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các
tư liệu sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng
quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh
tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất định
khơng thể theo ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu
khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Vận dụng tư tưởng đó vào q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước Nga, V.I.Lênin chẳng những coi trọng các chính sách phát triển một
nền kinh tế nhiều thành phần mà còn coi trọng các quan hệ kinh tế hàng
hóa – tiền tệ, chủ trương coi trọng thương nghiệp, coi đó là “mắt xích” cực
kỳ quan trọng trong điều khiển hoạt động của nền kinh tế mà chính quyền
nhà nước vơ sản và Đảng Cộng sản đang nắm quyền lãnh đạo, “phải đem
tồn lực ra nắm lấy”, nếu khơng như vậy, chúng ta sẽ khơng đặt được nền
móng của những mối quan hệ kinh tế và xã hội trong xã hội xã hội chủ
nghĩa. Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I. Lênin đưa ra là một trong
những chính sách điển hình của việc tôn trọng và vận dụng quy luật phát
triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước Nga, phù hợp với bối cảnh lịch sử
lúc đó.
Đối với những nước chưa trải qua q trình cơng nghiệp hóa tư bản
chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nhằm
tạo ra được cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa. Đối với những


21


nước này, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ phải là tiến hành cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở
các nước khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến
hành với những nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng
là quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể trong việc xác định nội dung, hình
thức và bước đi trong tiến trình cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
ơ

Trong lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành cuộc đấu tranh chống
lại những thế lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội;
tiến hành xây dựng, củng cố Nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ trong hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động; xây dựng các tổ chức
chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động; xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang
tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực
tư tưởng – văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện
tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp
cơng nhân trong tồn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh
hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền
văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của cá nền văn hóa
trên thế giới.

Trong lĩnh vực xã hội: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phải thực hiện việc khắc phục những
tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát
triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu bình đằng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với
người theo mục tiêu lý tưởng là tự do của người này là điều kiện, tiền đề
cho sự tự do của người khác.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử
tất yếu trên con đường phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh
tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ

22


nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hồn thành các nội dung đó.
1.3.2 Chủ nghĩa xã hội
Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa:
Xã hội xã hội chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của của
chủ nghĩa cộng sản) là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là
nền đại công nghiệp.
Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng
của nó, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Cơng
cụ thủ cơng là đặc trưng cho cơ sở vật chất – kỹ thuật của các xã hội tiền tư
bản chủ nghĩa. Nền đại cơng nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất – kỹ thuật cho
chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội nảy sinh với tính cách là một chế độ xã
hội phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật chất – kỹ thuật của
nó phải là nền sản xuất đại cơng nghiệp có trình độ cao hơn so với trình độ

của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
Trong tác phẩm tuyên ngơn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.
Ăngghen có nhận định rằng: sau khi giành được quyền nhà nước, “giai cấp
vơ sản sẽ dùng sự thống trị chính trị cảu mình để từng bước một đoạt lấy
tồn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ
sản xuất vào trong tay nhà nước…”[14, 626].
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt
lấy tư liệu sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những tư liệu ấy
vào trong tay nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội. Do vậy, chỉ đến xã hội
xã hội chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác lập
đầy đủ. Tới thời kỳ này, tư liệu sản xuất cịn tồn tại dưới hai hình thức là
cơ sở toàn dân và cơ sở tập thể; người lao động làm chủ các tư liệu sản
xuất của xã hội, do đó khơng cịn tình trạng người bóc lột người.
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được
cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã
hội hóa, khơng cịn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều
kiện cho người lao động kết hợp hài hịa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập

23


thể và lợi ích tồn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội cũng tạo ra được
cách thức tổ chức lao động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý thống nhất của nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở vật chất – kỹ thuật là
nền đại công nghiệp ở trình độ cao, do vậy địi hỏi một kỷ luật lao động

chặt chẽ trong từng khâu, từng lĩnh vực, trong sản xuất của toàn xã hội
theo những quy định chung của luật pháp
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng: lao động được tổ chức
có kế hoạch trên tinh thần tự giác, tự nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa. Đương nhiên, để có một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự
giác cao như vậy, một mặt đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền
vận động, mặt khác phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác
phong của người sản xuất nhỏ.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy sản xuất đã phát triển nhưng vẫn
cịn có những hạn chế nhất định, vì vậy thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động là tất yếu. “Mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một
số lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương với số lượng, chất
lượng, hiệu quả lao động mà họ đã tạo ra cho xã hội, sau khi đã trừ đi một
số khoản đóng góp chung cho xã hội”[15, 32].
Ngoài phương thức phân phối theo lao động là phương thức cơ bản
nhất, người lao động còn được phân phối theo phúc lợi xã hội. Bằng thu
thuế, những đóng góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây
dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường giao thông,... Đó là những
cơng trình phúc lợi, phục vụ cho mọi người trong xã hội.
Nguyên tắc phân phối này vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế - xã hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động coi đó là
nguyên tắc cơ bản nhất, là một nội dung quan trọng trong thực hiện công
bằng xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Thứ năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước
mang bản chất giai cấp cơng nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc
sâu sắc.


24


Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp cơng nhân vì nhà
nước xã hội chủ nghĩa là cơ quan quyền lực tập trung của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thực hiện trấn
áp những thế lực phản động, những lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nhà nước
này tập hợp đại biểu các tầng lớp nhân dân, nhằm bảo vệ những lợi ích
chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia ngày càng
nhiều vào công việc của nhà nước với tinh thần tự giác, tự quản. Nhà nước
xã hội chủ nghĩa ngày càng thực hiện tốt hơn quyền tự do dân chủ của
nhân dân. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân
dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Giai cấp cơng
nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có những lợi ích cơ bản
thống nhất với lợi ích của dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đoàn
kết được các dân tộc, tạo nên sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc cả
trên cơ sở pháp lí và trong thực tiễn cuộc sống, đấu tranh bảo vệ những lợi
ích chân chính của dân tộc, khơng ngừng phát huy những giá trị của dân
tộc, nâng chúng lên ngang tầm với yêu cầu của thời đại.
Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự
giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội,
tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi
sự bóc lột về kinh tế, nơ dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người
phát triển toàn diện. Xã hội xã hội chủ nghĩa đã thực hiện xóa bỏ chế độ
chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất đã thực hiện việc xóa bỏ đối kháng giai cấp, xóa bỏ bóc lột,

con người có điều kiện phát triển tài năng cá nhân, mang tài năng đó đóng
góp cho xã hội, thực hiện được cơng bằng, bình đẳng xã hội, trước hết là
bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Tuy nhiên, do giới hạn phát triển
của những điều kiện khách quan, sự bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội vẫn
chưa đạt tới mức hoàn thiện như trong giai đoạn cao của xã hội cộng sản
chủ nghĩa.

25


×