Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Khắc phục hậu quả chiến tranh về người và chính sách ưu tiên đời sống cho nhân dân doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.04 KB, 39 trang )

Phần I: Những vấn đề chung về tình hình, kết quả hoạt động ở BHXH thị xã thái
bình
A. Đặc điểm tình hình chung:
I. Điều kiện tự nhiên, dân số và kinh tế - xã hội ở thị xã Thái bình - tỉnh Thái Bình:
1. Điều kiện tự nhiên, dân số.
Tỉnh Thái Bình nằm ở 200 vĩ Bắc và 106,230 kinh Đông, là một tỉnh thuộc Châu
thổ đồng bằng Bắc Bộ.
Phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ
Phía Nam giáp Nam Định
Phía Tây giáp Nam Định
Phía Bắc giáp Hưng Yên và Hải Phòng
Tỉnh Thái Bình được thành lập vào ngày 21/3/1890 với tổng diện tích là 1.579,9
km2 và số dân (tính đến năm 2002) là 1.904.000 người.
Ngày 21/3/1890. Thị xã Thái Bình chính thức được thành lập . Sau nhiều thay đổi
đến nay Thị xã Thái Bình với diện tích là 4618ha và dân số là 1.450.640 người, là
Trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của tỉnh Thái Bình. Thị xã Thái bình
có 8 phường (Phường Lê Hồng Phong) Bồ Xuyên, Đề Thám, Phúc Khánh, Trần
Lãm, Tiền Phong, Kỳ Bá, Quang Trung) và 4 xã(Hoàng Diệu, Vũ Hội, Vũ Lạc,
Phú Xuân). Thị xã Thái bình là nơi tập trung của các cơ quan đầu não của tỉnh,
hiện nay ở thị xã có tới 71 cơ quan hành chính sự nghiệp và Thị xã Thái Bình
cũng là nơi có số đối tượng chính sách tập trung đông nhất. Cụ thể, Thị xã Thái
bình có 13.026 người là đối tượng hưởng chế độ BHXH (chiếm gần 10% dân số),
56 vị lão thành cách mạng, 41 bà mẹ Việt Nam anh hùng và 220 cán bộ trung - cao
cấp.
2. Đặc điểm kinh tế - xã hội:
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp nhưng thị xã lại là nơi tập trung phát triển của
khu công nghiệp lớn nhỏ trong toàn Tỉnh những năm gần đây đựoc sự lãnh đạo chỉ
đạo của Đảng uỷ UBND Tỉnh, UBND thị, Thị xã Thái Bình đã có những bước tiến
triển rõ rệt, với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế là 108% năm, Thị xã Thái Bình đang ngày
càng phấn đấu trở thành thành phố cấp 3 trong năm 2004. Thị xã Thái Bình là nơi
tập trung của 71 cơ quan đầu não của Tỉnh, một trường ĐH, một trường cao đẳng,


ba trường PTTH, năm trường PTCS, năm trường Tiểu học, rất nhiều nhà máy, xí
nghiệp, cơ sở sản xuất với số lượng lao động ngày càng đông với chuyên môn và
tay nghề đòi hỏi tính kỹ thuật cao vì vậy mà cần phải có những chính sách , chế độ
đãi ngộ phù hợp vì quyền lợi của người lao động.Chính yếu tố này đã tác động rất
lớn đến những vấn đề mà chúng ta sẽ đề cập sau đây.
II. Đặc điểm tình hình của BHXH Thị xã Thái Bình:
1. Sự ra đời và hình thành của BHXH Thị xã Thái Bình.
Thị xã Thái Bình là Trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Thái
Bình là nơi tập trung của các cơ quan hành chính sự nghiệp và cũng là nơi số đối
tượng hưởng chính sách lớn nhất trong toàn tỉnh.
Nhằm góp phần ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội thúc đẩy sự nghiệp xây dựng, ngày 12-7-1995 Giám đốc BHXH tỉnh
Thái bình ra Quyết định số 01 thành lập BHXH Thị xã Thái bình. Ngày mới thành
lập, BHXHTX phải làm việc trong điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn: trụ
sở làm việc phải thuê mượn chật chội, thiếu chỗ làm việc, phương tiện làm việc
còn lạc hậu. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ công nhân viên còn mới, kinh nghiệm chưa
nhiều, yêu cầu của công tác BHXH ngày càng chặt chẽ hơn, phức tạp hơn. Nhưng
ngay từ khi mới thành lập BHXH TX luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo của BHXH tỉnh, của Thị uỷ, HĐND và UBND Thị xã. Với mong muốn nâng
cao hiệu quả làm việc, tạo điều kiện thuận lợi cho BHXH Thị xã phát triển, tháng
12-1998 UBNS tỉnh, HĐND, Thị uỷ, BHXH tỉnh ra quyết định xây dựng trụ sở
làm việc cho BHXH Thị xã tại số 74, đường Trần Hưng Đạo, phường Đề Thám
TXTB với tổng diện tích gần 1.000m2 . Từ khi chuyển sang làm việc ở trụ sở mới
với cơ sở hạ tầng và trang thiết bị được nâng cấp hiệu quả làm việc của BHXHTX
ngày càng nâng cao rõ rệt. Đội ngũ cán bộ của cơ quan với sự đoàn kết nhất trí cao
luôn phấn đấu nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của mình đẩy mạnh hoàn
thiện hơn nữa kết quả hoạt động của đơn vị mình. Đến nay BHXHTX là một trong
những phòng làm việc đạt hiệu quả cao luôn hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ được
giao.
2. Hệ thống tổ chức bộ máy.

Bộ máy hoạt động của BHXH Thị xã bao gồm 16 đồng chí được phân công công
việc cụ thể sau:
- Giám đốc: là người đứng đầu, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ về
BHXH.
- Phó Giám đốc: là người giúp việc và chịu sự phân công của Giám đốc. chịu trách
nhiệm thay Giám đốc khi Giám đốc đi vắng.
- Bộ phận thu: (6 cán bộ ) chịu trách nhiệm đốc thu bám sát cơ sở, giải đáp các gút
mắc trong công tác thu.
- Bộ phận chi 07 cán bộ : tổ chức chi trả các chế độ BHXH: kiểm tra, giám sát,
thẩm định việc chi trả chế độ. Báo cáo kết quả thu chi tháng.
- Bộ phận chính sách (3 cán bộ) nhiệm vụ của bộ phận chính sách là giải thích,
hướng dẫn, giải quyết các vấn đề về chính sách BHXH.
Sơ đồ hệ thống tổ chức bộ máy
3. Chức năng - nhiệm vụ chủ yếu của đơn vị.
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thu BHXH theo quy định của Bộ Luật Lao
động, điều lệ BHXH và các quy định của Chính phủ thu của các đơn vị tham gia
bảo hiểm 23% tổng quỹ lương. Trong đó NLĐ đóng 6% tổng quỹ lương + PC.
Người sử dụng lao động đóng 17% tổng quỹ lương + PC.
- Tổ chức chi trả các chế độ bảo hiểm: ốm đau; thai sản; nghỉ dưỡng sức và phục
hồi sức khoẻ; chế độ hưu trí mất sức lao động; tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp; tử tuất, đảm bảo chi trả được đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn.
- Được quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng
BHXH khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá
làm giả hồ sơ, tài liệu để hưởng chế độ BHXH, đồng thời ra văn bản thông báo
việc từ chối chi trả đó cho đương sự, cơ quan sử dụng lao động và cơ quan pháp
luật.
- Bồi thường mọi khoản thu, chi sai các quy định của Nhà nước về BHXH cho các
đối tượng tham gia BHXH.
- Kiến nghị với chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan việc sửa đổi, bổ
sung các chính sách, chế độ BHXH phù hợp với tình hình của đất nước, của địa

phương trong từng giai đoạn.
- Lưu giữ hồ sơ và quản lý sổ BHXH.
- Tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán, hướng dẫn nghiệp vụ thu, chi
BHXH và kiểm tra việc thực hiện tổ chức công tác tuyên truyền, giải thích các chế
độ chính sách về BHXH.
- Giải quyết kịp thời các khiếu nại của người tham gia BHXH về việc thực hiện
các chế độ chính sách BHXH.
- Quản lý tổ chức, viên chức, tài chính, cơ sở vật chất theo quy định.
- Thực hiện việc báo cáo theo định kỳ về thu, chi và các hoạt động về BHXH
với BHXH cấp trên.
4. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lao động .
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của BHXH Thị xã Thái Bình có 16 đồng
chí, nhìn chung còn rất trẻ, khoẻ, nhiệt tình, có trình độ chuyên môn cao, không
ngừng học tập và đoàn kết. Đặc biệt, mặc dù BHXH Thị xã Thái Bình mới được
thành lập thành một ngành riêng nhưng đội ngũ cán bộ của BHXH Thị xã đã qua
quá trình làm công tác bảo hiểm.
Trong đó:
Nam là 3/16 đồng chí chiếm tỷ lệ: 18,75%
Nữ là 13/16 đồng chí chiếm tỷ lệ: 81,25%
Tuổi đời bình quân là: 37
Người cao tuổi nhất là: 52 tuổi
Người thấp tuổi là: 30 tuổi
- Về trình độ học vấn:
Trình độ Đại học là 12/16 đồng chí chiếm tỷ lệ 75%
Trình độ Trung cấp là 4/16 đồng chí chiếm 25%
- 100% cán bộ, công chức, viên chức của BHXH có trình độ ngoại ngữ, có khả
năng sử dụng thành thạo vi tính. Đặc biệt, BHXH Thị xã có 9 đồng chí là Đảng
viên trong đó có 4 đồng chí đã được học qua lớp lý luận chính trị.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ công chức, viên chức của BHXH không ngừng học
tập để nâng cao trình độ chuyên môn. Ngày càng đáp ứng được nhu cầu của công

tác bảo hiểm.
5. Cơ sở vật chất kỹ thuật:
BHXH Thị xã Thái Bình trụ sở tại số 74, đường Trần Hưng đạo - phường Đề
Thám - Thị xa Thái Bình. Với diện tích đất là 999m2, tháng 12/1998 UBND tỉnh
BHXB tỉnh, Thị uỷ, UBND đã ra quyết định xây dựng trụ sở làm việc với diện tích
sử dụng là 300m2. Trụ sở làm việc của BHXH Thị xã là 1 khu nhà 2 tầng với 6
phòng:
- 1 phòng Giám đốc
- 1 phòng Phó Giám đốc
- 1 phòng LĐCS
- 1 phòng thu
- 1 phòng tài vụ
- 1 phòng họp
Từ khi chuyển sang làm việc ở trụ sở mới, BHXH Thị xã đã trang bị các trang
thiết bị phục vụ cho hoạt động quản lý và các nghiệp vụ thu chi bảo hiểm như:
máy vi tính, máy tính cá nhân, ti vi, máy điện thoại, máy điều hoà và một số trang
thiết bị khác. Càng ngày BHXH Thị xã càng được trang bị những cơ sở vật chất kỹ
thuật tiên tiến đẩy mạnh hoạt động của đơn vị ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
6. Những thuận lợi và khó khăn.
* Những thuận lợi.
- Từ ngày được thành lập đến nay, BHXH Thị xã luôn nhận được sự lãnh đạo, chỉ
đạo và quan tâm thiết thực của BHXH tỉnh, của Thị uỷ, của HĐND Thị xã, sự phối
kết hợp của các ban ngành các phường, xã trong Thị xaã
- Nhận thức về công tác BHXH ngày càng có những chuyển biến đáng kể.
BHXH đã thực sự khẳng định được vai trò, vị trí, tầm quan trọng của mình đối với
xã hội nói chung và đối với từng đối tượng chính sách nói riêng.
- Các chủ trương, chính sách, chế độ của Đảng, Nhà nước về công tác
BHXH ngày càng được bổ sung hoàn thiện hơn.
- Đội ngũ cán bộ, công nhân viên của BHXHTX là những cán bộ trẻ, khoẻ,
nhiệt tình, không ngừng học tập và đoàn kết cùng nhau hoàn thành tốt công việc

của tập thể cũng như nhiệm vụ của mỗi thành viên. Hơn nữa, BHXH Thị xã Thái
Bình tuy mới thành lập nhưng đội ngũ cán bộ nhìn chung đã qua quá trình làm
công tác BHXH.
- Từ ngày thành lập BHXHTX đã được làm việc ở trụ sở riêng, được trang bị
cơ sở vật chất để phục vụ cho công tác như: máy tính, máy điện thoại
* Những khó khăn:
- BHXHTX là một đơn vị mới thành lập, kinh nghiệm công tác của đội ngũ cán bộ
còn ít, yêu cầu của công tác BHXH ngày càng phức tạp hơn, đa dạng hơn.
- Mặc dù đã có trụ sở riêng nhưng do Thái Bình là nơi tập trung đông đối tượng
chính sách, khối lượng công việc cao đòi hỏi đội ngũ cán bộ công nhân viên chức
nhiều vì vậy mà phòng làm việc còn chật chội, chưa đáp ứng được yêu cầu về
phòng làm việc cho đội ngũ cán bộ công nhân viên. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ
thuật của đơn vị còn nghèo nàn: chỉ có 1 maý vi tính, 3 máy điện thoại điều này
cũng làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của đơn vị.
- Chính sách BHXH liên quan trực tiếp đến quyền và trách nhiệm của nhiều tổ
chức, cơ quan, đơn vị và người lao động, những chính sách, chế độ còn nhiều vấn
đề chưa được thể chế hoá, đồng bộ hoá.
- Do quá trình chuyển đổi cơ chế, một số doanh nghiệp làm ăn gặp nhiều khó khăn,
thua lỗ phải giải thể, công nhân không có việc làm, không có thu nhập hoặc thu
nhập thấp ảnh hưởng tới việc thu BHXH.
- Một số tổ chức, cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể nhận thức chưa đầy đủ về
chính sách BHXH, chưa xác định đúng trách nhiệm của đơn vị trong việc lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện chế độ BHXH.
- Công tác tuyên truyền các chính sách, chế độ BHXH tới các đơn vị và người lao
động còn chưa sâu rộng.
- Tổ chức công đoàn chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình để người lao động
có điều kiện tham gia BHXH.
- Bộ Luật lao động chưa có những chế tài xử phạt đối với các đơn vị, doanh nghiệp
né tránh, chưa tham gia BHXH.
b- thực trạng tình hình, kết quả hoạt động của BHXH txtb, tỉnh Thái Bình:

1. Đối tượng tham gia BHXH:
Điều lệ BHXH (Ban hành kèm theo NĐ 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ
quy định, các đối tượng tham gia vào BHXH gồm:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan
hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc
tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước Quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực
lượng vũ trang.
- Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước,
Đảng, Đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
- Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp, người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp
huyện.
Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà
vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt
buộc.
Các đối tượng quy định trên gọi chung là người lao động.
BHXH Thị xã luôn nhận thức được rằng: Cần phải đẩy mạnh phát triển đối tượng
tham gia bảo hiểm, góp phần ổn định đảm bảo đời sống cho người lao động, thúc
đẩy sản xuất phát triển. Chính từ nhận thức đúng đắn trên mà BHXH Thị xã đã đẩy
mạnh các hình thức tuyên truyền động viên để người lao động và chủ sử dụng lao
động hiểu và tham gia bảo hiểm. Những việc làm trên đã khiến cho số lượng các
đơn vị tham gia BHXH trên địa bàn Thị xã ngày càng được mở rộng.
Nếu 6 tháng cuối năm 1995, BHXH Thị xã mới nhận bàn giao và thực hiện việc

thu BHXH ở 7 đơn vị kinh doanh mà 1 đơn vị HCSN ngân sách Trung ương với số
lao động là 196 người. Sang đến năm 1996 BHXH Thị xã đã tổ chức quản lý thu
của 51 đơn vị trong đó có 44 đơn vị HCSN, 7 đơn vị sản xuất kinh doanh với số
lao động là 2.104 người.
Năm 1997: BHXH Thị xã tiếp nhận thêm 3 Trường PTTH và Chi cục thuế Thị xã,
từ đó tổng đầu mối đơn vị của Thị xã đã lên đến 54 đơn vị với 2.324 lao động.
Năm 1998: BHXH Thị xã nhận thêm 1 đơn vị sản xuất ngoài quốc doanh, phát
triển thêm 13 đơn vị phường, xã. Do tách khối dân vận và 1 số phòng ban của Thị
xã cũng tách phòng nên số đầu mối đơn vị tăng lên 71 đơn vị với 2.379 lao động.
Năm 2002: BHXH Thị xã đã có 78 đơn vị tham gia bảo hiểm với 2.829 lao động
trong đó có 5 đơn vị ngoài quốc doanh và 1 đơn vị ngoài công lập, 44 đơn vị
HCSN, 15 đơn vị sản xuất kinh doanh và 13 đơn vị xã phường.
Chỉ sau 7 năm từ khi được thành lập BHXH Thị xã đã phát triển số đầu mối của
mình lên gấp hơn 9 lần, đưa số lao động tham gia từ 196 lao động lên đến 2.829
lao động. Mặc dù do quá trình chuyển đổi cơ chế làm cho một số doanh nghiệp,
một số đơn vị sản xuất kinh doanh do làm ăn không hiệu quả, không tạo được việc
làm cho lao động, có những đơn vị bị giải thể làm ảnh hưởng đến việc thu nộp
BHXH nhưng BHXH Thị xã vẫn phát huy thuận lợi, khắc phục những khó khăn
hoàn thành tốt việc phát triển mở rộng đối tượng tham gia BHXH.
2. Công tác cấp sổ BHXH:
Điều 43 chương V Bộ luật lao động về quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham
gia bảo hiểm quy định rõ một trong những quyền của người lao động là quyền
được nhận sổ BHXH. Sổ BHXH do cơ quan BHXH Việt Nam cấp cho các đối
tượng tham gia bảo hiểm để ghi nhận quá trình làm việc, có đóng BHXH, thông
qua sổ BHXH để giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động theo quy định
của pháp luật.
Thực hiện Thông tư số 09 ngày 25/4/1996 của Bộ Lao động TBXH, Quyết định số
113 ngày 22/6/1996 của BHXH Việt Nam và các quy trình hướng dẫn của BHXH
tỉnh Thái Bình về việc cấp và quản lý, sử dụng sổ BHXH, Thị uỷ - UBND Thị xã
đã chỉ đạo ngành BXH Thị xã phối kết hợp với các ngành, các cấp, các đơn vị cơ

sở tiến hành việc thẩm định hồ sơ để nghị BHXH tỉnh duyệt cấp sổ cho người lao
động.
- Năm 1996 số lao động tham gia BHXH Thị xã là 2.104 đối tượng và đã cấp được
1.769 sổ đạt 84%.
- Năm 1997 sổ lao động tham gia BHXH ở Thị xã là 2.324 đã cấp được 2.419 sổ
đạt 88%.
- Năm 1998 số lao động tham gia BHXH ở Thị xã là 2.579 đã cấp được 2.419 sổ
đạt 88%.
- Năm 1999 số lao động tham gia BHXH ở Thái Bình là 2.753 đã cấp được 2.753
sổ đạt 100%.
- Năm 2000 số lao động tham gia BHXH ở Thị xã là 2.753 đã cấp được 2.753 sổ
đạt 100%.
- Năm 2001 số lao động tham gia BHXH ở Thị xã là 2.803 đã cấp được 2.803 sổ
đạt 100%.
- Năm 2002 số lao động tham gia BHXH ở Thị xã là 2.829 đã cấp được 2.829 sổ
đạt 100%.
Qua số liệu trên có thể thấy số sổ BHXH được cấp ngày càng cao mặc dù trong
quá trình xét duyệt cũng gặp không ít khó khăn, một số đơn vị quản lý hồ sơ cán
bộ để thất lạc, hồ sơ thiếu những căn cứ để xét duyệt thời gian và tuổi đời của cán
bộ nhưng BHXH Thị xã đã tập trung cùng các đơn vị tháo gỡ, đã hướng dẫn cho
người lao động tìm lại các giấy tờ cũ có liên quan hoặc tới cơ quan cũ để xác nhận
thời gian công tác nên 100% người lao động tham gia BHXH được cấp sổ bảo
hiểm.
2.1/ Trình tự cấp sổ BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH thuộc phạm vi
BHXH Thị xã quản lý.
- Người sử dụng lập 2 bảng "Danh sách lao động đề nghị cấp sổ BHXH" gửi cho
BHXH Thị xã.
- Bộ phận thu BHXH Thị xã tiếp nhận danh sách đề nghị cấp sổ BHXH của người
sử dụng lao động đối chiếu với danh sách lao động và quỹ lương trích nộp BHXH
và danh sách lao động điều chỉnh tăng giảm mức lương nộp BHXH của người sử

dụng lao động để xác định danh sách lao động được cấp sổ BHXH. Đồng thời
hướng dẫn người sử dụng lao động phương pháp tiến hành lập và xét duyệt tờ khai
cấp sổ BHXH.
- Người lao động kê khai 03 bản tờ khai cấp sổ BHXH, người sử dụng lao động
căn cứ hồ sơ lý lịch và quá trình tham gia BHXH của người lao động để đối chiếu
xác nhận ký ghi rõ họ tên và đóng dấu lên chỗ quy định trên tờ khai cấp sổ BHXH.
- Cán bộ thu BHXH Thị xã tiến hành thẩm định, ký duyệt tờ khai cấp sổ BHXH
của người lao động, sau đó ghi số sổ BHXH vào tờ khai cấp sổ BHXH đã duyệt và
danh sách đề nghị cấp sổ BHXH. Sổ BHXH sẽ được ghi số sổ BHXH.
- Người sử dụng lao động căn cứ vào tờ khai cấp sổ BHXH đã được BHXH Thị xã
xét duyệt, tiến hành ghi trên sổ BHXH, ký, ghi rõ họ tên vào nơi quy định.
- Người lao động sau khi kiểm tra các nội dung ghi trên sổ BHXH ký và ghi rõ họ
tên vào nơi quy định.
- Người sử dụng lao động ký và đóng dấu xác nhận vào nơi quy định.
- Cơ quan BHXH Thị xã sau khi đối chiếu với tờ khai có chữ ký của người lao
động, đóng dấu vào nơi quy định trên sổ BHXH trả lại cho cơ quan, đơn vị sử
dụng lao động quản lý sổ BHXH.
2.2/ Công tác quản lý sổ BHXH:
BHXH liên quan trực tiếp đến cuộc sống hiện tại cũng như tương lai của người lao
động. Nhận thức được điều đó, BHXH Thị xã đã tiến hành thực hiện các thủ tục
theo đúng quy định của Nhà nước. Sau khi đã đối chiếu tờ khai của người lao
động, ký và đóng dấu vào số quy định trên sổ BHXH đồng thời đánh dấu giáp lai
vào sổ BHXH, BHXH Thị xã sẽ giao sổ BHXH cho chủ sử dụng lao động và các
cơ quan BHXH đối chiếu, kiểm tra mỗi khi thực hiện các chế độ BHXH đảm bảo
nguyên tắc có đóng, có hưởng. BHXH Thị xã chỉ quản lý sổ BHXH khi người lao
động ngừng đóng BHXH khi thôi việc, hưởng trợ cấp 1 lần, hưởng hưu trí hoặc
hưởng tử tuất. BHXH Thị xã không quản lý sổ BHXH mà giao cho người sử dụng
lao động trực tiếp quản lý, BHXH Thị xã chỉ tiến hành kiểm tra đột xuất hay
thường xuyên để nắm được tình hình quản lý sổ BHXH ở các đơn vị và có những
điều chỉnh khi có sai phạm.

3. Tình hình thực hiện chính sách, chế độ BHXH đối với người lao động thuộc
phạm vi BHXH Thị xã:
3.1/ Công tác tiếp nhận và giải quyết đơn thư công văn:
Với phương châm tiếp nhận đến đấu giải quyết đến đó tránh tình trạng ứ đọng, tồn
đọng đơn từ, BHXH Thị xã đã bố trí hợp lý, giải quyết xử lý các đơn thư, công văn
của các đối tượng, cơ quan đơn vị đề nghị giải quyết chế độ chính sách cho người
lao động. Vì vậy mà trong suốt những năm qua BHXH Thị xã không để xảy ra tình
trạng tranh chấp, kiện tụng gây mất lòng tin của người lao động.
3.2/ Thẩm định và xét duyệt hồ sơ tồn đọng:
Công tác thẩm định và xét duyệt hồ sơ tồn đọng theo Công văn số 843/CV-
LĐTBXH được thực hiện kịp thời, đáp ứng nhu cầu BHXH của các đối tượng góp
phần kịp thời giải quyết chế độ chính sách BHXH cho người đủ điều kiện hưởng.
Với thái độ làm việc tận tình, nghiêm túc BHXH Thị xã đã phối hợp với các bên
liên quan giải đáp kịp thời những vướng mắc đảm bảo quyền lợi cho người lao
động.
3.3/ Công tác tiếp dân:
Nhận thức rõ rằng muốn công việc đạt hiệu quả cao phù hợp với từng đối tượng vì
quyền lợi của người lao động, BHXH Thị xã luôn mở rộng công tác tiếp dân để
trực tiếp lắng nghe tâm tư, nguyện vọng giải đáp kịp thời những vướng mắc của
người lao động. Trong suốt thời gian qua, BHXH Thị xã đã thực hiện tốt công tác
tiếp dân theo lịch cũng như đón tiếp dân khi người dân có thắc mắc khi không phải
lịch tiếp dân để giải đáp ổn thỏa, đến nơi, đến chốn cho người dân hiểu rõ hơn về
BHXH tạo lòng tin về phía người dân với BHXH Thị xã riêng và với BHXH nói
chung.
4. Công tác quản lý thu, chi BHXH:
4.1/ Công tác thu BHXH:
Công tác thu BHXH là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành.
Xác định rõ như vậy nên ngay từ ngày đầu mới thành lập BHXH Thị xã đã
tham mưu với Thị uỷ, HĐND, UBND Thị xã tổ chức hội nghị triển khai Nghị định
12/CP của Chính phủ, Thông tư 58 của Bộ Tài chính cùng các văn bản hướng dẫn

của ngành về công tác thu BHXH 20% tổng quỹ tiền lương đối với người lao động
viên chức Nhà nước (trong đó người lao động đóng 5% và người chủ sử dụng lao
động đóng 15%). BHXH Thị xã tổ chức tiếp nhận bàn giao của Phòng tổ chức lao
động Thị xã công tác BHXH 6 tháng còn lại của năm 1995. Từ đó đến nay công
tác thu BHXH của BHXH Thị xã đã đạt được những thành quả đáng kể.
Số đơn vị tham gia 8
Số đối tượng 196
Tổng số tiền 60.078.000
Tỷ lệ HTKH 109,23%

Số đơn vị tham gia 72
Số đối tượng 2.753
Tổng số tiền 2.400.784.000
Tỷ lệ HTKH 103,42% 109%
Từ bảng số liệu trên cho thấy: Qua gần 8 năm hoạt động BHXH Thị xã đã thu
được 19.094.767.000 đồng đạt bình quân 104% kế hoạch. Đây thực sự là một con
số đáng mừng cho thấy người lao động và người chủ sử dụng lao động đã ngày
càng có những nhận thức đúng đắn về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của việc
tham gia BHXH.
Về số đơn vị tham gia BHXH, nếu năm 1995 BHXH Thị xã Thái Bình mới chỉ thu
của 8 đơn vị, doanh nghiệp trong toàn Thị xã thì đến năm 2002 số đơn vị tham gia
đã lên đến 78 đơn vị. Đặc biệt là từ năm 1998 do việc tách khối dân vận và một số
phòng ban của Thị xã, đồng thời với việc thực hiện Nghị quyết 09 của Chính phủ
phát triển thu BHXH của 13 đơn vị xã phường nên số đơn vị tham gia đóng BHXH
của Thị xã đã tăng từ 54 đơn vị năm 1997 lên 71 đơn vị năm 1998. Trong số 78
đơn vị tham gia đóng BHXH nói trên thì Văn phòng Thị uỷ, UBND Thị xã, Công
ty dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp, Công ty thị chính, 35 đơn vị trường trong khối
Giáo dục Thị xã là những đơn vị luôn đảm bảo thu đúng, thu đủ, giải quyết chế độ
cho người lao động kịp thời.
Về số đối tượng tham gia BHXH. Năm 1999 BHXH Thị xã chỉ thu BHXH cho

196 đối tượng sang đến năm 1996 số đối tượng được tham gia đã lên đến 2.104 đối
tượng và từ đó đến nay số đối tượng tham gia đóng BHXH cho BHXH Thị xã
ngày càng tăng đến năm 2002 đã lên đến 2.829 đối tượng.
BHXH Thị xã luôn coi trọng công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH, coi
phát triển đối tượng tham gia BHXH là góp phần ổn định đời sống cho người lao
động, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, là mục tiêu của BHXH. Ngay từ khi
mới thành lập, bên cạnh nhiệm vụ đảm bảo các chế độ BHXH được thể hiện liên
tục, dưới sự chỉ đạo của Thị uỷ Thái Bình, BHXH Thị xã đã rất chú trọng đến
công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH, trên cơ sở rà soát, nắm chắc số
lượng, quy mô và tình hình sản xuất kinh doanh của các cơ quan, doanh nghiệp,
xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu, đối tượng tham gia BHXH, phối hợp chặt
chẽ với các ngành và tổ chức Công đoàn tuyên truyền sâu rộng chính sách BHXH,
triển khai quán triệt điều lệ BHXH và các văn bản chỉ đạo của BHXH Việt Nam.
Vì vậy mà mặc dù chịu sự tác động của nên kinh tế thị trường khối sản xuất kinh
doanh có một số đơn vị làm ăn không hiệu quả đơn vị phải giải thể, thu nhập của
người lao động không đảm bảo ảnh hưởng đến việc tham gia đóng BHXH nhưng
số đối tượng tham gia đóng BHXH của BHXH Thị xã vẫn ngày một tăng.
Về tổng số thu BHXH, trong 8 năm qua BHXH đã thu tổng số tiền là
19.094.767.000 đồng. Số thu BHXH của năm 2002 đạt 3.925.320.000 đồng so với
năm 1996 đã tăng gấp 2,01 lần. Suốt 8 năm công tác thu BHXH Thị xã luôn hoàn
thành vượt mức kế hoạch và luôn đảm bảo số thu của năm sau cao hơn năm trước.
4.2/ Công tác chi BHXH:
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động
khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả
năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình thành,
sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH nhằm góp
phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp
phần bảo đảm an toàn xã hội.
Kết quả chi là kết quả của quá trình thực hiện chính sách BHXH, là khâu cuối cùng
của công tác giải quyết các chính sách BHXH liên quan đến người lao động bị suy

giảm sức lao động, TNLĐ - BNN, ốm đau, thai sản cho đối tượng hưởng lương
hưu và các loại trợ cấp BHXH khi hoàn thành nghĩa vụ. BHXH đã chi trả các chế
độ BHXH theo đúng quy định thông qua Ban chi trả của UBND các phường, các
xã. Đáp ứng nguyện vọng của đối tượng tham gia BHXH.
* Công tác chi ốm đau, thai sản:
Chi trả ốm đau, thai sản là nhiệm vụ thiết thực nhằm đảm bảo quyền lợi của người
lao động, công chức đang công tác, yêu cầu công tác xét duyệt hồ sơ phải chính
xác, kịp thời, đúng chính sách, đúng chế độ. BHXH Thị xã luôn được sự quan tâm
cấp kinh phí kịp thời của BHXH tỉnh để BHXH Thị xã chủ động xét duyệt chi trả
thường xuyên, kịp thời. Riêng trong năm 2002 BHXH Thị xã đã chi trả cho 44 lượt
người nghỉ ốm đau với tổng số tiền là 30.642.400đ; 25 đối tượng hưởng chế độ trợ
cấp thai sản với tổng số tiền là 98.643.100đ.
Quý I 9 6.165.790
Quý II 6 4.216.810
Quý III 24 16.915.470
Quý IV 5 3.344.330
Tổng số 44 30.642.400
- Chế độ thai sản:
+ Thời gian nghỉ phụ thuộc vào điều kiện lao động:
Thời gian 04 tháng nghỉ cho lao động bình thường
Thời gian 05 tháng nghỉ cho lao động làm nghề nặng nhọc, độc hại, làm việc theo
chế độ 3 ca, làm việc nơi có PCKV 0,5; 0,7.
Thời gian 06 tháng nghỉ đối với lao động làm việc ở nơi có phụ cấp KV là 1.
+ Trợ cấp thai sản được thực hiện theo quy định:
Trợ cấp thai sản = TL làm căn cứ đóng BHXH của tháng trước khi nghỉ
x 100% x số ngày nghỉ
* Công tác chi chế độ hưu trí:
- Cách tính lương và chi trả cho người lao động:
CBCNV Nhà nước nghỉ hưu được tính 15 năm công tác đầu được hưởng 45%. Từ
năm thứ 16 trở đi được hưởng thêm 2%/năm nhưng tối đa không quá 75% mức

lương khi còn làm việc (tính mức lương bình quân 6 năm cuối).
Ngoài ra người có trên 30 năm đóng BHXH được hưởng trợ cấp 1 lần với mức
lương là 1/2 tháng tiền lương/1 năm nhưng không quá 5 tháng.
Theo cách tính trên năm 2002 BHXH đã chi trả cho 11.823 đối tượng với tổng số
tiền từ Quỹ BHXH và Quỹ ngân sách Nhà nước là 58.388.331.000đ.
Chính nhờ công tác chi trả lương hưu đúng kỳ, đủ số, nhanh chóng, tận tay người
lao động đã giúp cho đời sống của người hưởng lương hưu ở Thị xã rất ổn định.
* Chi trả chế độ tử tuất:
Trongnăm 2002 BHXH Thị xã đã chi trả cho tổng số 86 người bị chết với tổng số
tiền là 128.026.000 đồng. Trong đó số thân nhân hưởng mức lương tối thiểu là 79
người. Số thân nhân hưởng 70% tiền lương tối thiểu là 7 người.
- Chế độ trợ cấp được tính:
Chế độ MTP bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu. Đối với những thân nhân đủ điều
kiện hưởng tuất, nếu con không đi học được hưởng đến năm 15 tuổi, nếu con còn
đi học thì được hưởng đến năm 18 tuổi.
Ngoài ra người đủ điều kiện hưởng tuất còn có cha mẹ, vợ hoặc chồng người chết
đã hết tuổi lao dộng (60 tuổi trở lên đối với nam, 55 tuổi trở lên đối với nữ).
Với những thân nhân không đủ điều kiện hưởng tuất thì được hưởng trợ cấp 1 lần
theo cách tính.
Số năm đóng BH x 1/2 tháng lương bình quân. Nhưng không được quá 12 tháng.
* Chi trả chế độ TNLĐ - BNN:
Trong năm 2002, BHXH đã chi từ Quỹ ngân sách Nhà nước và Quỹ BHXH cho 48
lao động hưởng chế độ TNLĐ - BNN. Mức phụ cấp phụ thuộc vào tỷ lệ MSLĐ
theo quy định chung.
Mức suy giảm khả năng lao động Trợ cấp hàng tháng
31% - 40% 0,4 tháng tiền lương tối thiểu
41% - 50% 0,6 tháng tiền lương tối thiểu
51% - 60% 0,8 tháng tiền lương tối thiểu
61% - 70% 1,0 tháng tiền lương tối thiểu
71% - 80% 1,2 tháng tiền lương tối thiểu

81% - 90% 1,4 tháng tiền lương tối thiểu
91% - 100% 1,6 tháng tiền lương tối thiểu
Với mức trợ cấp được chi trả nhìn chung chỉ trợ giúp 1 phần khó khăn của người
lao động, đời sống của bản thân và gia đình họ còn gặp nhiều khó khăn.
5. Công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện chính sách chế độ BHXH thuộc
thẩm quyền và việc xử lý các vi phạm:
Thanh tra, kiểm tra là nhiệm vụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý Nhà nước
nói chung và trong quá trình thực hiện công tác BHXH nói riêng.
Trong quá trình thực hiện công tác BHXH, đối tượng hưởng BHXH không cố định
luôn phát sinh, thay đổi vì vậy phải tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra để đảm
bảo việc thực hiện các chính sách, chế độ BHXH theo quy định của pháp luật.
Trong 8 năm qua, ngành BHXH Thị xã đã kết hợp với Phòng kiểm tra BHXH tỉnh,
với các ngành và các phường xã, các tổ chi trả thường xuyên phát hiện những đối
tượng hưởng sai chính sách, chế độ, đối tượng vắng mặt lâu ngày, đối tượng phạm
pháp để báo cáo cấp trên xử lý kịp thời. Qua kiểm tra đã phát hiện 41 trường hợp
hưởng tuất quá tuổi, 3 trường hợp cấp trùng hợp và 5 trường hợp vi phạm pháp
luật. Tất cả những trường hợp sai phạm trên đã được BHXH cấp trên xem xét và
xử lý.
Bên cạnh việc thực hiện chi trả, BHXH Thị xã đã hướng dẫn các tổ chi trả nắm
vững chế độ chính sách để giải thích cho đối tượng, vận động đối tượng chuyển sổ
lĩnh lương hưu, trợ cấp về nơi cư trú để tiện việc quản lý. Chính vì vậy 8 năm qua
trên địa bàn Thị xã về lĩnh vực BHXH không có đơn thư khiếu nại vượt cấp, góp
phần ổn định tình hình địa phương.
6. Những vướng mắc, tồn đọng trong việc thực hiện chế độ BHXH đối với người
lao động và biện pháp giải quyết.
6.1/ Những vướng mắc, tồn đọng:
- Các chính sách trước đây thực hiện cho đối tượng thuộc diện ngân sách chi trả
còn nhiều vấn đề tồn đọng, còn nhiều đơn thư thắc mắc, khiếu nại đề nghị giải
quyết chính sách, chế độ BHXH.
- Còn nhiều lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc chưa tham gia, chủ yếu

là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân.
- Việc thanh tra, kiểm tra thực hiện chính sách BHXH ở các cơ sở chưa được
thường xuyên liên tục, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan
quản lý BHXH chưa chặt chẽ.
- Tình trạng thiếu hoặc nợ đóng BHXH ở một số đơn vị đã làm ảnh hưởng đến
nguồn thu và việc thực hiện giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động.
6.2/ Các biện pháp:
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền tạo mối quan hệ chặt chẽ và có hiệu
quả đối với các cơ quan thông tin đại chúng để mọi người lao động nâng cao nhận
thức về BHXH.
- Phấn đấu nâng cao hơn nữa công tác chi trả để chi trả đúng kỳ, đủ số, đúng chế
độ tận tay đối tượng một cách thuận lợi, an toàn và thuận tiện, kịp thời theo đúng
quy định hiện hành.
- Tăng cường nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác BHXH.
- Phát huy tinh thần gương mẫu, chủ động, sáng tạo của từng cá nhân trong việc
thực hiện nhiệm vụ chung.
- Tăng cường công tác thanh tra nội bộ trong việc quản lý tài sản, thu - chi BHXH
không để xảy ra những sai phạm, thất thoát.
- Phối kết hợp với các tổ chức công đoàn của người lao động để công đoàn phát
huy hết vai trò của mình vì lợi ích của người lao động trong việc tham gia BHXH.
- Thực hiện thanh tra, giám sát, phối kết hợp với Thanh tra Sở Lao động TBXH,
BHXH tỉnh để thực hiện thanh tra, giám sát các đơn vị sử dụng lao động.
7. Thực trạng đời sống của người hưởng lương hưu:
Chính sách hưu trí và người có công là một trong những chính sách lớn của Đảng
và Nhà nước, thời gian qua BHXH Thị xã luôn luôn quan tâm đến đời sống vật
chất, đời sống tinh thần của lực lượng hưu trí và của những người có công với
nước, đây là một trong những việc làm góp phần quan trọng ổn định đời sống
chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội của địa phương.
Về đời sống vật chất của người hưởng lương hưu: Riêng trong năm 2002 Quỹ
BHXH và Quỹ NSNN đã chi trả tổng số tiền là gần 60.000.000.000 đồng cho hơn

11.000 người. Như vậy bình quân mỗi người hưởng HC được nhận
500.000đồng/tháng/người. Bên cạnh đó những người thuộc diện hưởng lương hưu
của Thị xã còn tham gia vào các hoạt động kinh tế phù hợp khác của gia đình, làng
xóm vì vậy theo thống kê của Phòng thống kê Thị xã Thái Bình, thu nhập của
người hưởng lương hưu bình quân là 600.000đồng/tháng/người. Người thu nhập ít
nhất cũng được hơn 200.000đồng/tháng/người. Cá biệt có những người hưởng
lương hưu có TN gần 2.000.000.000đồng/tháng/người.
Về đời sống tinh thần cho người hưởng lương hưu: Thị uỷ, HĐND, UBND Thị xã
luôn quan tâm đến các hoạt động của Ban liên lạc hưu trí và Người cao tuổi, coi đó
là những hoạt động văn hoá rất quan trọng đối với cán bộ hưu trí. BHXH Thị xã đã
kết hợp với MTTQ Thị xã, Ban liên lạc hưu trí các phường, xã, các ngành văn hoá,
y tế, TDTT đẩy mạnh các hoạt động CLB hưu trí, người cao tuổi ở các phường xã.
Về tổ chức bộ máy: 13 phường xã trong Thị xã có 13 Ban liên lạc hưu trí, 13 CLB
hưu trí và 1 CLB trung cao lão thành cách mạng Thị xã. Các CLB này thường
xuyên hoạt động hàng tháng, hàng quý thu hút sự quan tâm tham gia của 70% lực
lượng hưu trí. Nội dung của buổi hoạt động CLB rất phong phú và đa dạng như nói
chuyện thời sự, nói chuyện sức khoẻ, các bệnh tuổi già và các cách đề phòng
chống bệnh, rèn luyện TDTT như: chạy, tập dưỡng sinh, đánh cầu lông, bóng bàn,
cờ tướng, sáng tác thơ ca, đọc thơ, bình thơ Các phong trào trên đã góp phần
nâng cao đời sống tinh thần, bảo vệ sức khoẻ giúp đội ngũ hưu trí "Sống vui, sống
khoẻ, sống có ích". Nhiều thành viên của các CLB hưu trí ở Thị xã đã đoạt các giải
thể thao của Tỉnh, của Thị. Nhiều phường xã hàng năm đã xuất bản những tập thơ:
phường Quang Trung đã ra được 3 tập thơ, hơn 600 bài; phường Phúc Khánh đã ra
được 6 tập thơ "Hoa trái vườn nhà", tổ chức thi cầu lông, liên hoan văn nghệ được
Sở Văn hoá Thông tin tặng Bằng khen; phường Bồ Xuyên có phong trào văn nghệ,
hoạt động dưỡng sinh khá mạnh, đã ra được 3 tập thơ "Đường xuân"; phường Kỳ
Bá với CLB dưỡng sinh hoạt động thường xuyên hiệu quả, đã ra được 4 tập thơ
"Hương sen"; phường Đề Thám cũng ra được 2 tập thơ "Hoa hương sắc". Các
phường xã còn lại đều tổ chức sinh hoạt CLB đều đặn hàng tháng, hàng quý.
Ngoài ra Thị xã còn có CLB trung cao lão thành cách mạng có 150 đến 200 cán bộ

hàng tháng sinh hoạt đều đặn vào ngày mồng 1 với nhiều nội dung phong phú.
Ngày 01/10 hàng năm BHXH Thị xã cùng Phòng Tổ chức Lao động TBXH, Ban
bảo vệ sức khoẻ tỉnh tham mưu với Thị uỷ, UBND Thị xã chức kiểm tra sức khoẻ
định kỳ cho các cán bộ trung cao lão thành cách mạng, có biếu thuốc và quà các cụ
nhân ngày Quốc tế Người cao tuổi.
Hoạt động văn hoá thể thao của các CLB hưu trí còn cung cấp cho các phường xã
đội ngũ cán bộ cơ sở đông đảo. Theo thống kê sơ bộ tới 80% số cán bộ tổ trưởng,
xóm trưởng. Có phường như phường Phúc Khánh có tới 100% số cán bộ là cán bộ
hưu trí.
Các Ban liên lạc hưu trí còn tổ chức các hội hiếu, hội từ thiện thăm hỏi giúp nhau
lúc ốm đau hoạn nạn, thăm viếng lúc qua đời. Rất nhiều các cán bộ hưu trí đã trở
thành những tấm gương sáng cho mọi người noi theo.
Phần II Chuyên đề:
Thu nhập và đời sống của người hưởng chế độ hưu trí hàng tháng ở thị xã thái bình
- thực trạng và giải pháp
I – Lý do chọn chuyên đề và những đặc điểm có liên quan trực tiếp đến chuyên đề
nghiên cứu
1. Lý do chọn chuyên đề.
Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người là trung tâm
của sự phát triển Đảng ta đã khẳng định: “Đi đôi với phát triển, tăng trưởng kinh tế
phải quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Kinh tế phát triển là cơ sở, nguồn
lực đảm bảo cho các chương trình xã hội, giáo dục y tế, văn hoá phát triển. Song
phát triển xã hội với nền giáo dục y tế văn hoá phát triển sẽ thúc đẩy phát triển
nhanh và bền vững
BHXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng của Đảng và Nhà nước ta.
BHXH la sự chia sẻ rủi ro và các nguồn quỹ nhằm bảo vệ người lao động khi họ
không còn khả năng làm việc. Hiện nay, số người cao tuổi nói chung và người lao
động trong độ tuổi nghỉ hưu ở nước ta nói riêng ở nước ta ngày càng gia tăng.
Người lao động trong độ tuổi nghỉ hưu là tầng lớp có cống hiến lớn lao trong cuộc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chính vì vậy bảo vệ, chăm sóc và nâng cao đời sống

cho người hưởng lương hưu hàng tháng không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, chính trị,
xã hội mà còn mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc thể hiện truyền thống “Uống nước
nhớ nguồn” ; “thương người như thể thương thân” của dân tộc ta. Người hưởng
lương hưu hàng tháng cần được tôn trọng chăm lo để tạo điều kiện cho họ tiếp tục
phát huy những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm trong sản xuất mà họ đã tích luỹ
được góp phần xây dựng xã hội mới. Qua thời gian thực tập ở phòng BHXH Thị
xã Thái Bình được sự giúp đỡ của các cô, chú, anh chị trong cơ quan và sự hướng
dẫn của các thầy cô giáo, em xin trình bày chuyên đề:
“Đời sống và thu nhập của người hưởng lương hưu hàng tháng thực trạng và giải
phap”
Tuy bản thân đã hết sức cố gắng, song thời gian thực tập và trình độ có hạn nên bài
viết còn gặp nhiều hạn chế. Vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo
của các thầy cô giáo để chuyên đề có thể hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
2 – Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề.
2.1. Cơ sở lý luận.

×