Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn: Thay đổi trong nhu cầu khách hàng và khai thác loại hình hảo hiểm mới tại các Cty bảo hiểm pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.72 KB, 84 trang )












Luận văn: Thay đổi trong nhu cầu
khách hàng và khai thác loại hình hảo
hiểm mới tại các Cty bảo hiểm




Lời nói đầu
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải thiện nâng cao đời
sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục đích hàng đầu của chế độ
xã hội ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một
tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong các kì đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8 đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với
nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực
của đời sống kinh tế xã hội. Nên nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc và phát
triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát ra khỏi tình trạng khủng
hoảng kéo dài, sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế đang được điều chỉnh, đIều kiện
sống của nhân dân không ngừng được cảI thiện và nâng cao. Trong xu thế phát


triển toàn diện đó, ngành bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát
triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra đời,
bảo hiểm nhân thọ là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ mang
tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với các nghiệp vụ
bảo hiểm khác. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bao gồm nhiều loạI hình khác nhau
như: Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục Sở dĩ em chọn
đề tài:“An sinh giáo dục: Thực trạng và một số biện pháp phát triển nghiệp vụ
này ở công ty Bảo hiểm nhân thọ “ cho chuyên đề thực tập của mình là vì những
lý do sau:
- Mặc dù bảo hiểm nhân thọ ra đời rất sớm trên thế giới ( năm 1583, ở Anh) và
khônh ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất muộn ở Việt
nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới để áp dụng
vào thực tế triển khai ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách có ý nghĩa kinh tế lớn
- Do nghiệp vụ “ An sinh giáo dục “mới được triển khai ở nước ta, thêm
vào đó chúng ta lại thiếu một hệ thống luật đồng bộ trong bảo hiểm nói chung và
bảo hiểm nhân thọ nói riêng, nên khó tránh khỏi những hạn chế, những điều bất
hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa
học, tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.
- Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp
vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn
mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty phải trả một khoản tiền
vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách
hàng. Do vậy công ty bảo hiểm nhân thọ cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý
để đảm bảo tài chính của công ty.
- Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa
giáo dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ
em hôm nay, thế giới ngày mai “ thì chương trình “An sinh giáo dục “ là một biện
pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi
sau.

Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, từ đó đưa ra
một số biện pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu
quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới.
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ.
Phần II: Những nội dung cơ bản về nghiệp vụ An sinh giáo dục trong hệ thống
bảo hiểm nhân thọ.
Phần III: Tình hình triển khai chương trình An sinh giáo dục tại công ty bảo hiểm
nhân thọ.
Phần I
lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ.

I. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ.
1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
a. Trên thế giới:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển từ rất lâu trên thế giới. Hình thức
bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là
William Gybbon. Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại
không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên,
nó giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc
sống con người, nên bảo hiểm nhân thọ phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con
người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa
học kỹ thuật nên bảo hiểm nhân thọ đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng
lớn. Với sự xuất hiện các phép tính xác suất Pascal và Fermat thì sự phát triển
của bảo hiểm nhân thọ là một tất yếu khách quan.
Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở châu Mỹ nhưng
chỉ bán các hợp đồng bảo hiểm cho các con chiên trong nhà thờ của họ.
Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là
công ty đầu tiên bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng

nguyên tắc phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm.
Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc Mỹ.
Năm 1860 bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân
thọ.
Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ và đa dạng. Từ
những loại hình nhân thọ cơ bản là Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử
kỳ), Bảo hiểm trọn đời, Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp hưu trí,
mỗi công ty bảo hiểm đều thiết kế những sản phẩm mang những đặc thù riêng để
đáp ứng nhu cầu tài chính của từng khu vực dân cư và phù hợp với chính sách
kinh tế, xã hội của từng quốc gia.
Người ta cũng thường có những điều khoản bổ sung trong đó phạm vi bảo
hiểm là tai nạn hoặc bệnh tật, ốm đau, các bệnh hiểm nghèo xảy ra trong thời hạn
bảo hiểm của hợp đồng chính (là một trong bốn dạng trên).
Trên thế giới, hiện nay doanh số của bảo hiểm nhân thọ chiếm trên 50%
doanh số của ngành bảo hiểm.
Dưới đây là số liệu thể hiện tỷ trọng doanh số bảo hiểm nhân thọ ở các
khu vực trên thế giới trong hai năm 1990, 1996.
Bảng 1: Doanh số của bảo hiểm nhân thọ so với doanh số ngành bảo hiểm ở các
khu vực
Đơn vị tính: %
Khu vực 1990 1996
Châu á 33,8 75
Châu Âu 31,4 50
Châu Mỹ 34,8 43
Nguồn tài liệu: Tạp chí Tái bảo hiểm - 1996.
Trong đó, cho đến năm 1993, ở Đông Nam á tổng doanh thu phí bảo hiểm
là 61,1 tỷ USD, doanh số của bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8% ,
doanh số của bảo hiểm phi nhân thọ là 16 tỷ USD chiếm 26,2%.
b.Tại Việt Nam:
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ,

trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp
vụ này. Với sự ra đời của công ty bảo hiểm nhân thọ, chính thức đầu tiên ở Việt
Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ
mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gần ba năm,
nhưng trong thực tế bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được
bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo
hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm
đã triển khai một số loại hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm
trường sinh” (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20
năm”, nhưng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ
bảo hiểm không được biết đến rộng rãi.
Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng
vào Việt Nam”, nhưng vào lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn
như:
- Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định.
- Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu
thường ngày, phần tiết kiệm rất ít.
- Chưa có điều kiện để công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư.
Công ty bảo hiểm lúc đó chưa được phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu tư, môi
trường đầu tư chưa phát triển.
- Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan
hệ giá công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho người
được bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm.
Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển
nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, Bộ Tài
chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh mạng con người thời

hạn 1 năm”.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy:
- Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủ gia đình bị mất mà chỉ
tính đến trong vòng 1 năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình
bảo hiểm này cũng không thoải mái. Và do đó loại hình bảo hiểm này chỉ đáp
ứng được nhu cầu cho những người già.
- Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có
được nhận lại gì không?
Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt
Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt
đầu tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm nhân thọ với hai loại hình
mang tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài chính dự án thành lập công ty
Bảo hiểm nhân thọ.
Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã ký
quyết định số 568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân
thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát
triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một vài người trong số họ
phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là
năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số
tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là
mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp một phần không nhỏ
vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia bảo hiểm nhân
thọ trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các
nước đang phát triển.ở châu á, những năm gần đây bảo hiểm nhân thọ phát triển
hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân,
tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay
vốn nước ngoài với l•i suất cao.Theo Tài liệu của công ty Bảo Việt nhân thọ, năm

1996, ở châu á, tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD trong đó phí bảo
hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8%. Ơ các nước phát triển có môi trường
đầu tư tốt, bảo hiểm nhân thọ phát triển rất mạnh mẽ.
Bảo hiểm nhân thọ giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải
quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục Hiện nay
hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia bảo hiểm nhân thọ nhằm duy
trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người
chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dải,
tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho
phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh".
Muốn thực hiện được thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội đã đề ra thì
nhân tố vốn đầu tư là rất quan trọng. Vốn đầu tư chủ yếu được lấy từ quĩ tích luỹ
của nền kinh tế quốc dân và nguồn vốn vay nước ngoài. Theo kinh nghiệm của
một số nước phát triển và tình hình kinh tế xã hội thực tế của Việt Nam thì nhất
thiết phải tạo nhanh nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và phải coi đây là
biện pháp chính. Có tích luỹ từ trong nước thì mới tiếp nhận được nguồn vốn từ
bên ngoài. Mà quĩ tích luỹ này được hình thành chủ yếu từ tiết kiệm, để phát huy
nguồn vốn này cần phải đẩy mạnh tiết kiệm, tạo khoản vốn cần thiết để phát triển
kinh tế.
Một trong những mặt yếu kém của nền kinh tế nước ta thời gian qua là nguồn vốn
đầu tư phát triển bằng nguồn vốn trong nước tăng không đáng kể, mặc dù theo
điều tra, vốn trong dân không phải là nhỏ. Báo Đầu tư số ra gần đây cho biết:
Nguồn vốn trong dân ước tính trong các năm :
- Năm 1992: 9419 tỷ đồng chiếm 9,8% GDP.
- Năm 1994: 21.753 tỷ đồng chiếm 12,8% GDP.
- Năm 1995: 34.382 tỷ đồng chiếm 13,2% GDP.

Dự đoán từ nay đến năm 2000 tỷ lệ này đạt 15% GDP.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng
thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng
cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng
gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản
tiền nhàn rỗi.
Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà
nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn
trong dân cho đầu tư phát triển.
Bảo hiểm nhân thọ từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được
một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo
hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều,
nhưng lượng vốn mà công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam huy động được cũng
là hết sức cần thiết trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay. Nếu như đối với
nghiệp vụ bảo hiểm khác thời gian bảo hiểm thường ngắn, mức phí đóng thường
là thấp thì ở nghiệp vụ " An Sinh Giáo Dục " thời gian bảo hiểm dài, mức phí
định kỳ cao. Điều này cho thấy huy động vốn bằng cách tăng cường triển khai
nghiệp vụ "An Sinh Giáo Dục " là hết sức cần thiết đối với công ty bảo hiểm
nhân thọ.
II - Mục đích, ý nghĩa và đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ
1.Mục đích
Bảo hiểm nhân thọ là một sự đảm bảo và mang tính chất tương hỗ - đó là
mục đích chính, và do đó bảo hiểm nhân thọ mang tính chất xã hội rất lớn. Số
tiền được trả cho thân nhân và gia đình người tham gia bảo hiểm khi không may
gặp rủi ro được bảo hiểm sẽ giúp những người thân chi trả những khoản chi tiêu
rất lớn như: tiền thuốc thang và bác sỹ, tiền ma chay, khoản tiền cần thiết để ổn
định cuộc sống, chi phí giáo dục con cái, nuôi dưỡng chúng nên người.
Không ai muốn nghĩ tới cái chết, nhưng không ai biết nó đến lúc nào. Việc
mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là thể hiện sự chu đáo của mình đối với gia

đình. Và nếu như may mắn trong suốt thời hạn bảo hiểm không có rủi ro thì
người được bảo hiểm vẫn nhận lại được số tiền đã nộp cộng thêm lãi nhờ hoạt
động của công ty bảo hiểm. Nhiều khoản tiền nhỏ lúc đó cộng lại đã thành khoản
tiền lớn để chi tiêu cho những công việc lớn, hoặc như dành dụm cho con bằng
cách mua hợp đồng “An sinh giáo dục” thì khi đứa trẻ 18 tuổi đã có một khoản
tiền để cấp vốn cho nó làm ăn hoặc chi phí cho nó tiếp tục đi học đại học. Chi phí
giáo dục - một vấn đề lớn trong ngân sách của mỗi gia đình hiện nay và càng trở
nên nóng bỏng trong tương lai.
So với các hình thức tiết kiệm, bảo hiểm nhân thọ có ưu điểm sau:
- Bảo hiểm nhân thọ là hình thức tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch.
Khi đã quyết định mua một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì các khoản phí nhỏ
đóng hàng tháng được coi như là các chi phí thường xuyên như tiền ăn, tiền điện,
tiền nước và người đại lý chính là người thường xuyên nhắc nhở và thu khoản
tiền này.
- Bảo hiểm nhân thọ hỗ trợ khó khăn về tài chính cho thân nhân và gia
đình người được bảo hiểm khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bằng một khoản
tiền lớn ngay cả khi họ mới kịp tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ.
2 . ý nghĩa của bảo hiểm nhân thọ
Cũng giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác , bảo hiểm nhân thọ có vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân , mỗi gia đình nói riêng và của xã hội
nói chung .
a.Đối với mỗi cá nhân , gia đình .
- Bảo hiểm nhân thọ thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia đình đối với
con cái hay những người phụ thuộc . Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển ,
các công nghệ hiện đại giúp cho cuộc sống tiện lợi hơn , văn minh hơn nhưng
những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào , nó cướp đi mạng sống của
con người hoặc gây cho con người những thương tật mà không thể phục hồi trở
lại . Chính vì thế , trong xã hội văn minh hiện nay vẫn có một thực trạng đáng
buồn là nhiều gia đình trở nên khó khăn , túng quẫn khi người trụ cột gia đình
không may gặp rủi ro dẫn tới mất mát hoặc giảm thu nhập. Do đó, nếu tham gia

bảo hiểm nhân thọ thì họ sẽ có một khoản tiền để chi trả, trang trải những chi phí
như nằm viện , phẫu thuật , thuốc men , nợ nần , chi phí mai táng hoặc bù đắp
một phần những khoản thu nhập thường xuyên của gia đình bị mất hoặc bị giảm .
Vì thế , bảo hiểm nhân thọ góp phần giảm bớt khó khăn về tài chính khi không
may người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro .
-Bên cạnh đó , mỗi người dân lao động đều có ý thức tiết kiệm , dành dụm tiền
để thực hiện những dự định trong tương lai . Bảo hiểm nhân thọ là một trong
những biện pháp để thực hiện tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch đối với
từng gia đình . Đặc điểm ưu việt của loại hình bảo hiểm nhân thọ là khi hết thời
hạn bảo hiểm , người được bảo hiểm vẫn được nhận lại toàn bộ số tiền bảo hiểm
cho dù trong thời gian bảo hiểm có xảy ra rủi ro hay không . Không ai dám nói
trước về tương lai và tiết kiệm từ hôm nay để đảm bảo cho ngày mai là biện pháp
tích cực và có ý nghĩa nhất vì tương lai tốt đẹp của con cái , của gia đình luôn
được đảm bảo bằng trình độ học vấn , bằng cấp khoa học , vị trí xã hội vững vàng
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần thực hiện kế hoạch tài chính của từng gia đình :
tạo quỹ dành cho giáo dục con cái , có tiền để chi dùng khi về hưu .
Tóm lại , bảo hiểm nhân thọ có vai trò hết sức quan trọng, to lớn đối với
mỗi thành viên trong toàn xã hội. Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của
mọi người và nhờ có bảo hiểm nhân thọ mà cuộc sống của con người trở nên
hạnh phúc hơn , an toàn hơn .Tham gia bảo hiểm nhân thọ làm người ta tự tin
hơn, quyết đoán hơn vì bảo hiểm nhân thọ giúp người tham gia giảm bớt sự ràng
buộc đối với người thân mà người tham gia phải có trách nhiệm nuôi dưỡng .
Chính sự tự tin này làm cho mọi hoạt động của người tham gia đạt hiệu quả cao
hơn . Nhờ những đặc tính ưu việt của mình mà bảo hiểm nhân thọ đã và đang
phát triển rất nhanh rộng khắp các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có
trình độ phát triển, trình độ dân trí và bình quân thu nhập đầu người cao. Đây là
nhuyên nhân chính thúc đẩy bảo hiểm nhân thọ phát triển mạnh ,và ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn so với các hoạt động của cả ngành bảo hiểm nói chung.
b.Đối với xã hội .
- Bảo hiểm nhân thọ là một hình thức quan trọng để huy động nguồn vốn nhàn

rỗi trong nhân dân, đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
nhằm giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Với nguồn vốn lớn
thu được từ phí bảo hiểm đã giúp cho công ty đầu tư vào các lĩnh vực, công trình
lớn, đặc biệt là các công trình cơ sở hạ tầng .
Hiện nay ở một số nước trên thế giới, lượng vốn do các công ty bảo hiểm nhân
thọ cung cấp lớn hơn nhiều so với các tổ chức tài chính khác. Ví dụ như ở Mỹ,
năm 1970 số vốn do các công ty bảo hiểm nhân thọ cung cấp vào thị trường là 9
tỷ USD, trong khi đó số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp là 37 tỷ USD.
Nhưng cho đến năm 1991 con số đó đã là: số vốn do công ty bảo hiểm nhân thọ
cung cấp: 90,2 tỷ USD, số vốn do hệ thống ngân hàng cung cấp: 85,7 tỷ USD.
Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư Việt
Nam là 11 tỷ USD, trong đó có khoảng 50% là dự trữ bằng vàng. Đây là một
lượng vốn nhàn rỗi lớn, mà các tổ chức tài chính chưa huy động được hết, do đó
đã để lãng phí nhiều. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, vì thế vốn càng là một nhu cầu tất yếu , bức thiết để tiến hành công
cuộc này,với các chính sách mở cửa đất nước nhằm thu hút vốn đầu tư của nước
ngoài song chúng ta lại chưa khai thác hết tiềm năng trong nước. Trước tình hình
này bảo hiểm nhân thọ cần có biện pháp, kế hoạch huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân để phục vụ cho nhu cầu đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước .
- Bên cạnh vai trò huy động vốn trong nước thì bảo hiểm nhân thọ còn có vai trò
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư cho một công ty bảo hiểm lúc đầu
thường rất lớn , khi có một chính sách phù hợp sẽ thu được một lượng vốn đầu tư
bên ngoài đáng kể, vì bảo hiểm nhân thọ là một thị trường hết sức mới mẻ và hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa đặc điểm của nghiệp vụ bảo
hiểm nhân thọ có tính chất dài hạn nên nguồn vốn cung cấp cho nền kinh tế cũng
lớn. Trong khoảng thời gian này các nhà đầu tư chưa thu được nhiều lợi nhuận,
do đó họ sẽ tiếp tục đầu tư mà không rút khỏi thị trường Việt Nam.
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo nên phong cách , tập quán sống mới. Tham gia
bảo hiểm nhân thọ thể hiện một nếp sống đẹp, đó là biết lo lắng cho tương lai

mình và quan tâm đến tương lai của người thân, đồng thời góp phần giáo dục con
em mình về đức tính tiết kiệm, cần cù và sống có trách nhiệm với người khác.
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, để
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế .
Vấn đề thất nghiệp luôn được quan tâm bởi chính phủ, các tổ chức xã hội, người
lao động Tỷ lệ thất nghiệp cao hay thấp đều ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã
hội như tình trạng nền kinh tế, sự ổn định chính trị, tệ nạn xã hội .v.v. Giảm bớt
tỷ lệ thất nghiệp là mục tiêu của tất cả các chính ohủ và là mong muốn của toàn
thể nhân dân lao động . Để thực hiện mục tiêu này các nước phải chống lại tình
trạng gia tăng dân số, hạn chế sự tác động của khoa học kỹ thuật . Chính sự mâu
thuẫn này làm cho xã hội luôn có tình trạng thất nghiệp dù chúng ta có cố gắng
thế nào đi chăng nữa. Với tư cách là tổ chức hoạt động kinh doanh, công ty bảo
hiểm cũng đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của toàn xã hội, đó là tạo ra
công ăn việc làm, hạn chế tình trạng thất nghiệp . Trước hết, để đảm bảo cho bộ
máy của mình hoạt động, bảo hiểm nhân thọ đã trực tiếp tạo việc làm cho một bộ
phận không nhỏ lực lượng lao động . Nhữnh người này làm việc trong các mạng
lưới của công ty như nhân viên , đại lí , môi giới bảo hiểm .v.v. Chẳng hạn như
riêng ở Hồng Kông chỉ với 6 triệu dân nhưng đã có 35 000 người hoạt động trong
lĩnh vực vực bảo hiểm nhân thọ.
Mặt khác công ty bảo hiểm nhân thọ còn là một tổ chức tài chính trung gian, do
đó nó có chức năng gián tiếp tạo công ăn việc làm thông qua việc đầu tư , cho
vay vốn mà công ty thu được từ những người tham gia bảo hiểm . Như vậy, bảo
hiểm nhân thọ có một chức năng , một vai trò to lớn trong việc tạo việc làm , giải
quyết thất nghiệp cho xã hội .
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần giải quyết một số vấn đề như :
+ Vấn đề giáo dục
Đầu tư giáo dục phải được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát
triển . Trong khi ngân sách Nhà nước còn eo hẹp và chi phí cho giáo dục ngày
càng tăng , chúng ta đã thực hiện một số giải pháp như : kêu gọi sự đóng góp của
các cơ quan , doanh nghiệp cho việc đào tạo giáo dục , triển khai cho sinh viên

vay vốn ngân hàng , hỗ trợ học tập . . . Tuy nhiên đó chỉ là những biện pháp vĩ
mô và mang tính chất tình thế , chưa thực sự huy động các tầng lớp trong xã hội
tham gia . Bảo hiểm nhân thọ - cụ thể là chương trình An sinh giáo dục là một
biện pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho việc giáo dục từ việc tiết
kiệm thường xuyên và có kế hoạch của mỗi gia đình . Đấy cũng là một giải pháp
góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội . Tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ
đảm bảo được quỹ giáo dục cho con cái ngay cả khi người trụ cột trong gia đình
mất hoặc giảm thu nhập .
+ Vấn đề xoá đói giảm nghèo
Mặc dù điều kiện sống đã được nâng cao nhưng không ai lường trước được rủi ro
và nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào . Tham gia bảo hiểm nhân thọ là một cách để
bảo vệ mỗi cá nhân trong gia đình chống lại sự bất ổn về mặt tài chính khi rủi ro
xảy ra . Xét về mặt xã hội , bảo hiểm nhân thọ đã góp phần làm giảm người bần
cùng nghèo khổ do những rủi ro gây ra .
+ Vấn đề người về hưu và cao tuổi
Điều kiện sống được cải thiện thì đời sống của con người cũng được nâng cao ,
dẫn tới tỉ lệ người già ngày càng cao trong dân số . Chính vì thế ta cần phải lo
cho tương lai khi về hưu , bảo hiểm nhân thọ chính là một công cụ để thực hiện
điều đó . Nói cách khác bảo hiểm nhân thọ đã góp phần giảm bớt gánh nặng trách
nhiệm cho xã hội đối với người về hưu , người già
- Bảo hiểm nhân thọ góp phần nâng cao phúc lợi xã hội
Tham gia bảo hiểm nhân thọ là quyền lợi của mỗi công dân , sự xuất hiện của
bảo hiểm nhân thọ đã làm cho cuộc sống con người được bảo đảm và phát triển
một cách có kế hoạch . Sự phát triển này khiến chúng ta có độ thoả mãn cao hơn
về vật chất và tinh thần . Khi tham gia bảo hiểm nhân thọ chúng ta sẽ sống thoải
mái hơn vì đã có sự đảm bảo nhất định của công ty bảo hiểm . Do vậy, đứng trên
phương diện nào đó thì bảo hiểm nhân thọ đã và đang nâng cao phúc lợi xã hội .
Thêm vào đó ,bảo hiểm nhân thọ đang góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội như
cướp bóc , mãi dâm , cờ bạc v.v Nếu như không có bảo hiểm nhân thọ thì khi
một người là lao động chính trong gia đình gặp tai nạnvà mất khả năng lao động,

lúc đó cuộc sống của toàn thể gia đình sẽ gặp muôn vàn khó khăn . Ai cũng có
mưu cầu hạnh phúc , mưu cầu tồn tại nhưnh khi không thể kiếm sống được bằng
lao động , bằng chính sức lực của mình thì rất có thể họ sẽ kiếm tiền bằng các
biện pháp phi pháp để đạt được mưu cầu này .Với sự đóng góp của mình , công
ty bảo hiểm nhân thọ đã góp phần hoàn thiện các công trình phúc lợi , các khu
vui chơi giải trí công cộng .
c. Đối với doanh nghiệp:
Doanh nghiệp hoặc cá nhân làm kinh doanh thường mua bảo hiểm nhân
thọ với một trong hai lý do sau:
• Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cá nhân có thể đảm bảo trả một khoản tiền
để công việc kinh doanh vẫn tiếp tục trong trường hợp tử vong của chủ doanh
nghiệp, đối tác hoặc những người chủ chốt.
• Một doanh nghiệp có thể mua bảo hiểm nhân thọ để đảm bảo một số chế
độ đãi ngộ cho người làm công.
Điều đó có nghĩa là bất cứ một doanh nghiệp tư nhân hay các công ty cổ phần
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn đều có thể duy trì hoạt động kinh doanh của
mình nếu người chủ doanh nghiệp hoặc nhân vật chủ chốt bị tử vong.
Nếu người chủ doanh nghiệp chết cổ phần của anh ta trong doanh nghiệp sẽ trở
thành một phần tài sản thừa kế của anh ta và tài sản phải trả được dùng để trả các
khoản nợ - kể cả nợ kinh doanh . Nếu không đủ tiền trả nợ người thực hiện di
chúc bị buộc phải bán doanh nghiệp với khoản lỗ lớn để có được số tiền cần thiết
trả các khoản nợ. Đồng thời chỉ định một nhân viên có năng lực tiếp tục kinh
doanh. Thêm vào đó, người chủ sở hữu cho phép bán tài sản của anh ta cho
doanh nghiệp theo điều khoản hợp đồng mua bán nếu thành viên kia không đủ
tiền mua doanh nghiệp thì hoạt động bảo hiểm nhân thọ là cách phổ biến nhất đề
cấp vốn cho hoạt động này. Nhân viên mua hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của chủ
sở hữu doanh nghiệp vừa là chủ hợp đồng vừa là người trả phí bảo hiểm và là
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm đủ để người đó mua
doanh nghiệp.
Bảo hiểm nhân thọ thể hiện ở việc bảo hiểm tính mạng con người. Do đó khi chủ

doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nhân thọ thì sẽ đảm bảo cho quá trình kinh
doanh của công ty và cái chết của người này có thể gây thiệt hại về tài sản của
công ty.
Không chỉ có thế, bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo lập nên mối quan hệ vững
chắc giữa chủ doanh nghiệp và cán bộ công nhân viên trong công ty thông qua
chế độ đãi ngộ. Với việc doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nhân thọ cho các nhân
viên, doanh nghiệp đã góp phần ổn định đời sống cho người lao động nếu không
may họ gặp rủi ro.
3. Đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ
a. Tính đa mục đích của bảo hiểm nhân thọ:
Đối với các loại bảo hiểm khác, người mua bảo hiểm chỉ có một mục đích là khi
xảy ra rủi ro được trả một số tiền đủ để thanh toán các chi phí phát sinh. Trong
bảo hiểm nhân thọ, người tham gia trông mong nhiều hơn và thực sự bảo hiểm
nhân thọ mang tính đa mục đích hơn, thể hiện ở:
Thứ nhất, bảo hiểm nhân thọ tạo ra một khoản tiền đáng kể giúp người được bảo
hiểm thực hiện được các ý định, công việc của mình.
Thứ hai, khi người được bảo hiểm đóng vai trò là người trụ cột trong gia đình
không may tử vong, số tiền bảo hiểm lúc này là khoản thu nhập quí giá giúp gia
đình người được bảo hiểm trang trải các chi phí cần thiết.
Thứ ba, trong một giới hạn nhất định, hợp đồng bảo hiểm trong thời hạn hiệu lực
được coi như một Tài sản thế chấp để người được bảo hiểm vay tiền của ngân
hàng.
Thứ tư, bảo hiểm nhân thọ đảm bảo được cuộc sống cho chính người được bảo
hiểm lúc tuổi già hay không may bị tàn tật.
b. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm hai sự
kiện trái ngược nhau trong cùng một hợp đồng:
Đó là hai sự kiện sống và chết. Trong bất kỳ một loại hình bảo hiểm nào khác, sự
kiện được bảo hiểm chỉ là một rủi ro gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Nếu
như không có rủi ro xảy ra trong thời hạn bảo hiểm nhà bảo hiểm sẽ hết trách
nhiệm với người được bảo hiểm. Nhưng trong bảo hiểm nhân thọ cụ thể trong

loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả một số tiền
nhất định nếu người được bảo hiểm bị chết trước một thời điểm nào đó đã được
ghi trong hợp đồng hoặc nếu người được bảo hiểm còn sống đến hết thời hạn hợp
đồng.
Như vậy, việc trả tiền của nhà bảo hiểm là chắc chắn, nó chỉ còn tuỳ thuộc vào
thời gian xảy ra rủi ro và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm của người được bảo
hiểm.
Đây là một đặc trưng rõ nét nhất của bảo hiểm nhân thọ mà không một loại hình
bảo hiểm nào khác có được.
c. Vấn đề duy trì sức mua của đồng tiền trong bảo hiểm nhân thọ:
Vì thời gian của hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ là dải nên người ta không thể
không tính đến sức mua của đồng tiền. Trong thực tế, ở Việt nam có thời kỳ đồng
tiền bị mất giá tới hơn 90% trong 10 năm.
Giải quyết vấn đề này nhà bảo hiểm có thể áp dụng các phương pháp sau:
- Thông qua cơ chế đánh giá lại bằng cách xác định được thời điểm tính được sự
mất giá của đồng tiền. Điều này sẽ làm được nếu tính mức phí theo các năm. Đây
là một công việc khá phức tạp, hiện nay bảo hiểm nhân thọ ở Việt nam tính theo
mức phí cố định.
- Thông qua các cam kết của đôi bên (giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm) không được biểu hiện bằng tiền. Nghĩa là số tiền bảo hiểm trong các hợp
đồng bảo hiểm sẽ được biểu hiện qua các hình thức như:
+ Các ngoại tệ (đặc biệt là các ngoại tệ mạnh) có mức mất giá ít. Tuy nhiên điều
này liên quan tới luật pháp của các nước khác nhau.
+ Vàng, chứng khoán có giá, nhà cửa người ta hy vọng rằng giá trị của các loại
này sẽ tăng, ít nhất cũng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền.
Ngoài các đặc trưng trên, một đặc trưng nữa của bảo hiểm nhân thọ đó là bảo
hiểm nhân thọ chịu sự tác động giao thoa của hai nhân tố: Nhân tố tuổi thọ và
nhân tố Tài chính. Cả hai nhân tố tuổi thọ và nhân tố Tài chính đều tác động đến
quá trình tính phí bảo hiểm và việc đem đầu tư số phí thu được của công ty bảo
hiểm nhân thọ.

Trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, cần phải duy trì sự công bằng trung thực
giữa nhà bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm.
Điều này được thể hiện rõ qua việc định phí bảo hiểm đối với các rủi ro có độ
trầm trọng tăng lên hoặc trong trường hợp rủi ro rất xấu. ở trường hợp thứ nhất
phải tăng phí, hoặc trong trường hợp thứ hai thì phí phải rất cao. Đó là điều quan
trọng đối với người làm bảo hiểm.
Trong bảo hiểm tử kỳ thuần tuý, để đảm bảo sự công bằng, người tham gia bảo
hiểm không được phép thu về những khoản tiền tiết kiệm tích luỹ được khi họ bị
tử vong hay sắp bị tử vong.
Trên đây là những đặc trưng của bảo hiểm nhân thọ, thể hiện sự khác biệt giữa
các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ với các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trong
hệ thống bảo hiểm.
III . Các loại hình bảo hiểm nhân thọ và chương trình An sinh giáo dục trong bảo
hiểm nhân thọ
Như trên đã nêu, bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ mang ý nghĩa kinh tế - xã
hội sâu sắc . Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những khoản phí
trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty bảo hiểm quản
lívà công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền khi kết thúc thời hạn hợp
đồng bảo hiểm hoặc khi có sự kiện rủi ro xảy ra cho người được bảo hiểm hoặc
cho người thừa kế hợp pháp . Do đó bảo hiểm nhân thọ được hiểu như một sự
đảm bảo , một hình thức tiết kiệm và mang tính chất tương hỗ .Bảo hiểm nhân
thọ trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung cho bảo hiểm xã hội
khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ bảo hiểm xã hội chưa đáp
ứng được .
1 . Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản đang được triển khai
Hiện nay , hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ ở các nước trên thế giới đang
triển khai 4 loại hình bảo hiểm nhân thọ sau :
a. Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn
Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn bao gồm các loại hình bảo hiểm trong đó tiền
bảo hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm bị chết trong thời hạn bảo hiểm.

b. Bảo hiểm trọn đời
Bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm nhân thọ mà thời gian bảo hiểm không
xác định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo
hiểm chết. Người được bảo hiểm sẽ đóng phí ngay từ khi ký hợp đồng cho đến
khi chết hoặc đến một độ tuổi nhất định
c. Bảo hiểm trợ cấp hưu trí
Đây là loại hình bảo hiểm đóng phí ngay một lần và công ty bảo hiểm nhân thọ
có trách nhiệm trả trợ cấp định kì cho người được bảo hiểm đến khi chết . Người
mua bảo hiểm thường kết hợp dạng bảo hiểm này với dạng bảo hiểm hưu trí .
Nghĩa là khi về hưu , người được bảo hiểm được số tiền khá lớn của hợp đồng
bảo hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống
ngay sau khi về hưu cho đến lúc chết .
d. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm . Số tiền bảo
hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến hết hạn hợp
đồng . Thời hạn bảo hiểm được xác định trước . Riêng loại hình này cũng rất
phong phú,đa dạng như “ Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn , chương trình đảm bảo
cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( An sinh giáo dục ) , bảo hiểm hưu trí , bảo
hiểm cưới xin . Ngoài ra còn có các hợp đồng bảo hiểm mang tính chất đầu tư ,
trong đó số tiền trả khi hết hạn hợp đồng, phụ thuộc vào lĩnh vực và hiệu quả
mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn .
Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân , mỗi
người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm bảo hiểm nhân thọ sao cho
phù hợp với mục đích của mình .
2 . Giới thiệu hai loại hình bảo hiểm nhân thọ đầu tiên đươc Bảo Việt triển khai
ở Việt Nam ( theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài
chính ).
a. Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm hoặc 10 năm .
- Khi hết hạn hợp đồng , nếu người được bảo hiểm còn sống sẽ được nhận số tiền
đã đóng khi kí hợp đồng .

- Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hợp đồng hết hạn , Bảo Việt sẽ trả số
tiền đã chọn khi kí hợp đồng cho người thừa kế hợp pháp của người được bảo
hiểm . Nếu khi qua đời ( không phải do tai nạn ) hợp đồng chưa đủ 1 năm thì Bảo
Vệt Nhân Thọ sẽ hoàn lại 80 % số phí bảo hiểm đã nộp .
- Nếu người được bảo hiểm bị thưong tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn , Bảo Việt
Nhân Thọ sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm, đồng thời ngừng thu phí nhưng hợp
đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực và bảo đảm đầy đủ các quyền lợ bảo hiểm .
- Ngoài số tiền bảo hiểm , tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty sẽ trả cho người
được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh của Bảo Việt tại nghiệp
vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng bảo hiểm .
- Trong thời hạn bảo hiểm hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên , nếu người
tham gia bảo hiểm gặp khó khăn về tài chính thì có thể yêu cầu huỷ bỏ hợp
đồngvà nhận được số tiền gọi là giá trị hoàn lại hoặc duy trì miễn phí với số tiền
bảo hiểm giảm .
b. Chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành ( chương trình An
sinh giáo dục ) .

×