Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo khoa học: "Nắm bắt cách mạng tri thức, cách mạng thông tin, nhanh chóng hiện đại hoá giao thông vận tải nước ta" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.26 KB, 6 trang )

Nắm bắt cách m

ng tri thức,
cách mạng thông tin, nhanh chóng
hiện đại hoá giao thông vận tải nớc ta

GS. VS. đặng hữu
ừ những thập kỷ cuối thế kỷ XX đến nay
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại đã có những bớc phát triển
nhảy vọt, đang tác động rất sâu sắc, mạnh mẽ
đến mọi mặt đời sống xã hội loài ngời.
Loài ngời đang chuyển từ xã hội công
nghiệp sang xã hội thông tin, từ nền kinh tế dựa
vào tài nguyên và máy móc sang nền kinh tế dựa
chủ yếu vào tri thức. Đây là bớc ngoặt lịch sử
trọng đại trong quá trình phát triển lực lợng sản
xuất xã hội, có thể so sánh với bớc ngoặt
chuyển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp đã diễn ra cách đây hơn hai thế kỷ do tác
động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất.
Ngày nay tri thức đã trở thành yếu tố quyết
định nhất của sản xuất, tri thức quan trọng hơn
nhiều so với vốn, lao động và tài nguyên. Sức
mạnh của một quốc gia phụ thuộc trớc hết vào
năng lực trí tuệ, khả năng sáng tạo và vận dụng
tri thức khoa học. Máy móc do con ngời làm ra
không chỉ thay thế lao động chân tay mà còn
giúp cho con ngời trong lao động trí óc, xử lý
thông tin, nâng cao vốn tri thức, khả năng sáng


tạo, nhân lên gấp bội sức mạnh lao động trí óc
con ngời; chính đó là nguồn gốc của những biến
đổi mạnh mẽ, sâu sắc ngày nay.
Sự biến động đó không chỉ diễn ra trên lĩnh
vực khoa học - công nghệ, kinh tế mà còn trên tất
cả các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, chính trị, xã
hội, cách giao tiếp, cách làm việc, lối sống;
không một lĩnh vực nào không chịu ảnh hởng to
lớn, sâu sắc của cách mạng khoa học - công
nghệ, cách mạng thông tin, cách mạng tri thức;
giao thông vận tải - một lĩnh vực hoạt động cơ
bản của xã hội loài ngời cũng không tách khỏi
xu thế đó.
T

Hiện nay nền kinh tế mới - kinh tế dựa vo tri
thức (gọi tắt là kinh tế tri thức) đang hình thành ở
các nớc phát triển; đó cũng là nền kinh tế toàn
cầu nối mạng.
Hai chỉ số quan trọng nhất đánh giá mức độ
phát triển kinh tế tri thức là tỷ lệ giá trị kinh tế tri
thức trong GDP và tỷ lệ lao động tri thức trong
tổng lực lợng lao động. Hiện nay tính chung cho
các nớc thuộc khối OECD hai tỷ lệ trên tơng
ứng là 51% và 37%. Ngời ta cho rằng khoảng
vài ba thập kỷ tới các nớc này sẽ trở thành các
nền kinh tế tri thức.
Đặc trng nổi bậc nhất của cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại là sự bùng nổ công
nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ

sinh học, công nghệ nanô. Khoa học phát triển
theo hớng vừa chuyên sâu, vừa liên ngành, kết
hợp với nhau. Ba lĩnh vực công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ nanô có xu
hớng hội tụ nhau thành infonautic - công nghệ
mới của thế kỷ XXI.
Khoa học đã trở thành lực lợng sản xuất
trực tiếp, có nghĩa là khoa học đã trực tiếp cho ra
sản phẩm, không còn ranh giới giữa nghiên cứu
khoa học, phát triển công nghệ, sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm. Hiện nay trong các ngành công
nghiệp công nghệ cao hầu nh không phân biệt
phòng thí nghiệm với công xởng sản xuất. Ngời
làm nghiên cứu khoa học trực tiếp làm ra sản
phẩm, còn ngời sản xuất cũng là ngời làm
nghiên cứu khoa học. Xu thế phát triển lực lợng
sản xuất xã hội diễn ra đúng nh C. Mac đã dự

đoán: Theo đ phát triển của đại công nghiệp,
việc tạo ra của cải trở nên ít phụ thuộc vo thời
gian lao động v số lợng lao động đã chi phí,
m phụ thuộc vo việc ứng dụng khoa học vo
sản xuất; Thiên nhiên không tạo ra máy móc
Tất cả đó l sản phẩm lao động của con ngời,
đều l sức mạnh đã vật hoá của tri thức. Sự phát
triển của t bản cố định l chỉ số cho thấy tri thức
xã hội phổ biến đã chuyển hoá đến mức độ no
thnh lực lợng sản xuất trực tiếp.
Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản
xuất quan trọng nhất. Các doanh nghiệp khoa

học (kinh doanh khoa học công nghệ) phát triển
rất nhanh. Các khu công nghệ cao - các vờn
ơm công nghệ, là động lực then chốt thúc đẩy
sự phát triển nhanh kinh tế. Các doanh nghiệp
đua nhau đầu t mạo hiểm để chiếm lĩnh công
nghệ mới.
Cái cha biết là cái có giá trị nhất. Tìm ra cái
cha biết tức sáng tạo ra cái mới, loại trừ cái đã
biết. Chu kỳ một công nghệ, một sản phẩm từ lúc
ra đời, phát triển, cho đến khi trở nên lỗi thời bị
thay thế ngày càng rút ngắn. Nếu trớc đây có
nhiều công nghệ tồn tại nhiều thập kỷ, thậm chí
hàng trăm năm, thì ngày nay chỉ còn mấy năm,
thậm chí mấy tháng. Vì vậy doanh nghiệp thờng
xuyên đổi mới công nghệ. Sáng tạo trở thành
động lực quan trọng nhất của sự phát triển, yếu
tố quyết định nhất sức mạnh cạnh tranh. Công
nghệ mới, sản phẩm ra đời đẻ ra doanh nghiệp
mới. ở Mỹ hàng năm có trên 50.000 sản phẩm
mới ra đời; từ đầu thập kỷ 90 đến nay đã có hơn
355.000 gazelle - loại doanh nghiệp mới dựa vào
công nghệ mới, ngay từ khi ra đời sản phẩm đã
tung ra trên khắp thị trờng thế giới, tỷ lệ tăng
trởng hàng năm đạt trên 20%; trong đó hàng
năm có đến hơn một nửa các doanh nghiệp có
sẵn phải thay đổi cơ bản về công nghệ.
Công nghệ, sản phẩm không ngừng đổi mới
nên ngành nghề, việc làm luôn thay đổi; việc làm
cũ mất đi, việc làm mới xuất hiện, số chỗ làm việc
mới nhiều hơn số chỗ làm việc cũ đã mất đi; tổng

số chỗ làm việc không ngừng tăng lên. ở các
nớc phát triển hàng năm có tới hơn 1/3 lực lợng
lợng lao động chịu sự biến động về việc làm. Có
thể nói trong xã hội công nghiệp việc làm nói
chung là ổn định, sự thay đổi là hãn hữu, còn
trong xã hội tri thức việc thay đổi nghề nghiệp,
việc làm trở thành phổ biến, mặt khác lao động
dựa vào trí lực trở thành chủ yếu. Và trong một
tơng lai xa hơn, trong xã hội sẽ không còn phân
công lao động, mà tất cả mọi quá trình sản xuất
sẽ do máy móc đảm nhận, trừ chức năng điều
khiển, xử lý thông tin, sáng tạo cái mới là do con
ngời đảm nhiệm.
Ngời lao động không thể dựa vào một kỹ
năng đợc đào tạo ở nhà trờng để rồi làm việc
suốt đời, mà phải dựa vào sự học tập suốt đời để
có kỹ năng thích ứng với sự phát triển và sự thay
đổi nghề nghiệp. Giáo dục thờng xuyên, phát
triển kỹ năng nghề nghiệp liên tục đã trở thành
nguyên tắc trong giáo dục đào tạo. Mô hình giáo
dục cổ điển: đào tạo xong ra làm việc suốt đời
đang chuyển dần sang mô hình đan xen đào tạo
và làm việc: nhà trờng chỉ đào tạo khả năng ban
đầu cần thiết để sau đó ngời lao động vừa làm
việc, vừa học tập, học tập suốt đời.
Động lực chủ yếu nhất, trực tiếp nhất thúc
đẩy phát triển xã hội loài ngời, thúc đẩy hình
thành kinh tế tri thức là công nghệ thông tin.
Công nghệ thông tin là tập hợp các phơng
pháp khoa học, các phơng tiện kỹ thuật dùng để

thu thập thông tin, xử lý, lu giữ, khai thác các
thông tin nh là tài nguyên quan trọng nhất của
các hoạt động của con ngời. Công nghệ thông
tin là động lực quan trọng nhất cho tăng trởng
kinh tế, nâng cao chất lợng cuộc sống. Công
nghệ thông tin có khả năng biến thông tin thành
tri thức và quảng bá nhanh tri thức cho mọi ngời,
mà tri thức là yếu tố quan trọng nhất cho sự phát
triển. Các lĩnh vực khoa học trong thập kỷ 90 phát
triển nhảy vọt là nhờ sự phát triển công nghệ
thông tin, đặc biệt là nhờ các máy tính cực mạnh
và siêu xa lộ thông tin. Việc giải mã bộ gen ngời
trớc đây dự kiến năm 2006 sẽ thực hiện đợc,
thế nhng năm 2000 đã hoàn thành đợc là nhờ
có máy tính hơn 12 ngàn phép tính một giây.
Trong lịch sử nhân loại cha có công nghệ
nào đi nhanh vào đời sống con ngời nhanh nh
công nghệ thông tin; nó không chỉ có mặt ở cơ
quan, công xởng, trờng học mà còn ở khắp mọi
gia đình, ở tận thôn làng, ngõ hẻm; không có lĩnh
vực hoạt động nào không cần đến công nghệ
thông tin mà phát triển đợc. Internet bắt đầu
thơng mại hoá năm 1993, chỉ khoảng 1 triệu
ngời dùng, đến nay đã có trên 500 triệu ngời
dùng (hơn 8% dân số thế giới).
Xã hội mạng đang hình thành, nền kinh tế
số hoá (kinh tế thông tin) đang phát triển là đặc
trng chủ yếu nhất của sự chuyển đổi từ kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức, tức là từ kinh tế
dựa vào lực lợng vật chất sang dựa vào trí lực

con ngời. Nó làm thay đổi tận gốc cách sản
xuất, tiêu thụ, cách sống, cách làm việc, cách tổ
chức quản lý, và tất nhiên không loại trừ lĩnh vực
giao thông vận tải chúng ta. Chính phủ điện tử,
thơng mại điện tử, làm việc từ xa, chữa bệnh từ
xa, học tập từ xa, thực tế ảo, các máy móc thông
minh, các thiết bị tự động hoá, trí tuệ nhân tạo
đang phát triển nhanh và sử dụng rộng rãi ở khắp
nơi trên thế giới.
Sự phát triển kỳ diệu của công nghệ thông
tin đang làm thay đổi một cách cơ bản các quá
trình sản xuất, cách tổ chức quản lý, đang tạo
tiền đề cho sự hình thành nền sản xuất hoàn toàn
tự động hoá, không có ngời sản xuất trực tiếp:
những máy tính tý hon đợc cài đặt trong mọi
máy móc, dụng cụ, vật thể trong cơ quan, nhà
máy, trang trại nối nhau bằng mạng không dây
thực hiện chức năng kiểm soát, điều khiển mọi
quá trình sản xuất; con ngời không còn đứng
trong quá trình sản xuất, nh C. Mac đã nói:
Thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản
xuất, ngời công nhân lại đứng bên cạnh quá
trình ấy. Dự báo nửa thế kỷ sau thế kỷ XXI xã hội
tự động hoá sẽ hình thành.
Công nghệ thông tin sở dĩ đi rất nhanh vào
cuộc sống không phải chỉ vì hiệu dụng to lớn,
toàn diện của nó, mà còn do công nghệ thông tin
có đặc điểm khác với các công nghệ khác (do sự
phát triển công nghệ vi điện tử và công nghệ số):
cứ 18 tháng tốc độ xử lý tăng gấp đôi, mỗi năm

giảm giá 30% (quy luật Moore); cộng vào đó lĩnh
vực viễn thông cũng phát triển nhanh không kém:
mỗi năm năng lực đờng truyền tăng gấp đôi, giá
giảm 25% (quy luật Gilder).
Công nghệ thông tin làm tăng lên gấp bội
sức mạnh lao động trí óc con ngời, nâng cao
năng lực sáng tạo của con ngời, là ngời bạn
đồng hành của con ngời trong quá trình phát
triển đến vơng quốc tự do.
Nớc ta phải nắm bắt, lm chủ tri thức
khoa học, công nghệ mới, từng bớc phát
triển kinh tế tri thức, rút ngắn quá trình CNH,
HĐH.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định con
đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nớc ta
cần v có thể rút ngắn thời gian, vừa có những
bớc tuần tự, vừa có bớc nhảy vọt. Phát triển
những lợi thế của đất nớc, tận dụng mọi khả
năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt
l công nghệ thông tin v công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngy cng nhiều hơn, ở mức
cao hơn v phổ biến hơn những thnh tựu mới về
khoa học, công nghệ, từng bớc phát triển kinh
tế tri thức.
Nớc ta phải nắm bắt thời cơ, khẩn trơng
chuẩn bị mọi điều kiện để phát triển kinh tế tri
thức. Công nghiệp hoá ở nớc ta phải thực hiện
đồng thời hai quá trình chuyển tiếp, hai nhiệm
vụ cơ bản: chuyển từ kinh tế nông nghiệp
sang kinh tế công nghiệp v từ kinh tế công

nghiệp sang kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ ấy
phải thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ
trợ nhau, bổ sung cho nhau. Để làm đợc nhiệm
vụ đó phải sử dụng các tri thức và công nghệ mới
của thời đại để hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn, đồng thời ra sức phát triển nhanh các
ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức,
vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hớng tăng nhanh các ngành kinh tế
tri thức. Không thể chờ công nghiệp hoá hoàn
thành cơ bản rồi mới chuyển sang kinh tế tri thức
nh các nớc đã phải trải qua.
Nền kinh tế nớc ta phải phát triển theo hai
tốc độ, vừa tuần tự, vừa nhảy vọt: một mặt phải lo
phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản
xuất những ngành công nghiệp cơ bản, lo những
nhu cầu cơ bản và bức xúc của ngời dân, tạo
việc làm, xoá đói giảm nghèo; mặt khác phải phát
triển nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri thức

và công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin để
hiện đại hoá và nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế, tạo ngành nghề mới, việc làm
mới, đạt tốc độ tăng trởng cao, chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế, hội nhập có hiệu quả với
nền kinh tế thế giới.
Sự thnh công của công nghiệp hoá rút
ngắn dựa vo tri thức phụ thuộc chủ yếu vo
các yếu tố sau đây:
Chủ động hội nhập quốc tế kết hợp tăng

cờng năng lực nội sinh của dân tộc. Yếu tố
quyết định nhất đối với năng lực nội sinh của một
dân tộc là văn hoá, giáo dục, khoa học, cũng
tức l sức mạnh tinh thần v trí tuệ của dân
tộc. Trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin
v t tởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới. Đặc biệt là phải đổi mới t
duy kinh tế theo kịp sự phát triển của thời đại.
Phát triển kinh tế phải lấy hiệu quả làm đầu; sản
xuất những gì có hiệu quả cao nhất do có lợi thế
so sánh để đổi lấy những gì mình cần, không phải
sản xuất với bất cứ giá nào để đảm bảo nhu cầu.
Phải kết hợp chặt chẽ các yếu tố tài nguyên, con
ngời và tri thức và công nghệ hiện đại để chọn
những ngành, những sản phẩm có nhiều lợi thế,
đem lại hiệu quả cao nhất. Thời đại ngày nay
công nghệ không ngừng đổi mới, vòng đời công
nghệ rất ngắn, nói chung không nên đầu t vào
những lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn, thời gian xây dựng
kéo dài, mà phải chọn quy mô nhỏ, hoàn vốn
nhanh, linh hoạt dễ chuyển đổi. Công nghiệp hoá
là sử dụng tri thức và khoa học công nghệ mới
nhất để hiện đại hoá nền kinh tế, chuyển nền
kinh tế từ tình trạng năng suất, chất lợng, hiệu
quả thấp sang nền kinh tế năng suất, chất lợng,
hiệu quả cao. Vì vậy, công nghiệp hoá đi liền với
hiện đại hoá, công nghiệp hoá ngày nay phải là
công nghiệp hoá dựa vào tri thức.
Tăng cờng năng lực khoa học công nghệ
của Việt Nam, bắt kịp và làm chủ công nghệ hiện

đại. Không có đủ tri thức, không có đủ năng lực
nội sinh về khoa học công nghệ thì hội nhập chỉ
bị thua thiệt, bị bóc lột, bị chèn ép và sẽ trở thành
bãi thải công nghệ của các nớc khác. Đã đầu t
mới thì dùng công nghệ mới, tiên tiến nhất. Tận
dụng cơ sở hiện có phải đi đôi với sử dụng tri thức
mới; đến lúc không đa lại hiệu quả nữa thì phải
chuyển sang làm việc khác hoặc bỏ đi. Không
chấp nhận dùng công nghệ trung gian, thực
chất đó là những công nghệ đã lỗi thời.
Nhanh chóng phát triển cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin, hình thành mạng xa lộ
thông tin quốc gia, ứng dụng công nghệ thông tin
rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực, phát triển công
nghiệp thông tin, nhất là công nghiệp phần mềm,
để thúc đẩy phát triển nhanh tất cả các lĩnh vực,
dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế. Công nghệ
thông tin l chìa khoá để đi vo kinh tế tri thức.
Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị ngày 17/10/2000 đã
chỉ rõ, công nghệ thông tin là động lực giải phóng
sức mạnh tinh thần, vật chất v trí tuệ của ton
dân tộc, l động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới
các lĩnh vực, nâng cao năng suất, chất lợng,
hiệu quả, tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo
điều kiện để hội nhập kinh tế thế giới
Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân
trí, đo tạo nhân ti l nhân tố quyết định nhất đối
với phát triển kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức đòi
hỏi mọi ngời học tập thờng xuyên, học suốt
đời, có đủ năng lực sáng tạo, đổi mới và phát

triển. Trong những năm tới phải mạnh dạn đầu t
để phát triển giáo dục và phải tiến hành một cuộc
cải cách giáo dục, cải cách về mục tiêu, hệ
thống giáo dục, nội dung và phơng pháp giáo
dục nhằm xây dựng những thế hệ ngời Việt Nam
có bản lĩnh, có lý tởng, có khả năng sáng tạo,
làm chủ đợc tri thức hiện đại, quyết tâm đa
nớc ta lên trình độ phát triển mới sánh kịp các
nớc. Nội dung và phơng pháp đào tạo phải
thay đổi một cách cơ bản: chuyển trọng tâm từ
truyền thụ kiến thức sang bồi dỡng phơng pháp
giải quyết vấn đề, phơng pháp tự đào tạo, óc
sáng tạo.
Khâu then chốt nhất hiện nay l đổi mới cơ
chế v chính sách nhằm thực sự giải phóng mọi
lực lợng sản xuất, mọi khả năng sáng tạo.
Nhiệm vụ phát triển khoa học công nghệ
trong giao thông vận tải nớc ta
Giao thông vận tải là lĩnh vực hoạt động rất
cơ bản, rất quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, phải đi trớc một bớc tạo điều kiện cho
kinh tế phát triển. Giao thông vận tải phải là
ngành đi đầu trong ứng dụng tri thức khoa học,
công nghệ mới và phát triển theo hớng nh một
ngành kinh tế tri thức.
Thời gian qua ngành giao thông vận tải nớc
ta tiếp thu và vận dụng có kết quả nhiều thành
tựu khoa học công nghệ tiên tiến, phát triển năng
lực nghiên cứu sáng tạo của mình, tuy vậy vẫn
còn chậm và cha theo kịp trình độ chung của

thế giới. Trong thời gian tới cần tăng cờng hơn
nữa năng lực khoa học của ngành, tăng cờng
đào tạo cán bộ, tiếp thu và vận dụng sáng tạo
các tri thức tiên tiến của thời đại để phát triển
ngành giao thông vận tải nớc ta một cách có
hiệu quả, theo hớng hiện đại.
Trên thế giới công nghệ thông tin, công
nghệ vật liệu mới, và nhiều công nghệ cao khác
đã xâm nhập sâu vào lĩnh vực giao thông vận tải.
Giao thông vận tải là lĩnh vực đang phát triển
nhanh theo hớng kinh tế tri thức; các thành tựu
mới nhất về công nghệ thông tin đợc sử dụng
rộng rãi trong quy hoạch, tổ chức quản lý, kiểm
soát, điều khiển các quá trình giao thông vận tải;
các vật liệu mới, công nghệ mới, nhất là tự động
hoá đang đợc vận dụng để tạo ra những phơng
tiện vận tải mới, vận tốc cao, thuận tiện hơn, an
toàn hơn, thông minh hơn; cũng nh các nguyên
lý mới, phơng pháp mới, công nghệ mới trong
xây dựng các công trình giao thông vận tải. Có
thể nói hiện nay đang diễn ra một cuộc cách
mạng trong giao thông vận tải - hệ quả tất yếu
của cách mạng tri thức, cách mạng thông tin.
Nhờ vận dụng những thành tựu khoa học
công nghệ mới nhất, ngành giao thông vận tải
đang có những biến đổi to lớn theo hớng một
ngành kinh tế dựa vào tri thức, sau đây có thể
nêu lên một số ví dụ:
- Xuất hiện nhiều phơng tiện giao thông
mới trên không, trên bộ, dới nớc, sử dụng rất

nhiều công nghệ cao, đạt tốc độ rất cao, độ an
toàn cao, thông minh hơn. Nếu không kể máy
bay lâu nay vẫn thuộc sản phẩm công nghệ cao
thì bây giờ ô tô đang trở thành những ô tô thông
minh, an toàn, không cần ngời lái (hoặc giúp
ngời lái nhận biết các tình huống, xử lý kịp thời
tránh các tai nạn); các phơng tiện trên ray có
thể chạy với vận tốc trên 500 - 700 km/giờ đang
cạnh tranh với máy bay đó là sản phẩm công
nghệ cao, ngành sản xuất các phơng tiện giao
thông trở thành ngành kinh tế tri thức.
- Với các lý thuyết và phơng pháp toán học
hiện đại, với sự trợ giúp của những siêu máy tính,
những bài toán phức tạp nhất về quy hoạch đã có
thể giải đợc, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với việc hoạch định những chiến lợc,
kế hoạch phát triển giao thông vận tải, cũng nh
trong tổ chức quản lý mạng lới giao thông một
cách đúng đắn, hiệu quả nhất. Đây là khâu đầu
tiên cần đầu t trí tuệ để có thể tiết kiệm nhiều
nhất các nguồn lực vật chất và sức lao động cơ
bắp.
- Tự động hoá khảo sát thiết kế các công
trình giao thông là một khâu rất quan trọng trong
tri thức hoá ngành giao thông vận tải. Việc sử
dụng autocad, công nghệ mô phỏng (simulation),
tự động hoá chọn tuyến, thiết kế đờng, thiết kế
công trình, cùng với các công nghệ viễn thám, hệ
thống định vị toàn cầu (GPS), sử dụng bản đồ số
hoá và hệ thống thông tin địa lý (GIS) đã làm

thay đổi một cách cơ bản quá trình chuẩn bị dự
án đầu t, chuyển từ thủ công là chính sang dựa
vào máy móc và trí tuệ, vừa nâng cao chất lợng,
hiệu quả, vừa rút ngắn thời gian thi công. Công
tác t vấn thiết kế xây dựng đang trở thành một
ngành kinh tế tri thức. Trong gần mời năm qua ở
nớc ta đã có những chuyển biến rất to lớn trên
lĩnh vực này: chuyển từ thủ công sang cơ giới hoá
và tự động hoá. Đội quân khảo sát lao động rất
vất vả nặng nhọc trớc đây đang đợc thay thế
bằng những ngời lao động tri thức.
- Với sự phát triển của toán học, cơ học,
cơ - lý - hoá học, các khoa học về vật liệu và nhất
là với công nghệ thông tin, đã xuất hiện nhiều
nguyên lý kết cấu mới, phơng pháp tính toán
mới các công trình có xét đầy đủ tính năng vật
liệu, điều kiện làm việc các kết cấu khác nhau
dới các loại tải trọng khác nhau, trong các điều
kiện tự nhiên khác nhau. Đang có sự bùng nổ
công nghệ về vật liệu và kết cấu công trình giao
thông.

- Máy móc, thiết bị, công nghệ thi công,
phơng pháp thí nghiệm, đo đạc, kiểm tra cũng
đang có nhiều đổi mới, theo hớng ứng dụng ở
mức cao công nghệ thông tin và kỹ thuật tự động
hoá.
Đặc biệt phải kể đến việc ứng dụng công
nghệ thông tin rất rộng rãi trong mọi lĩnh vực hoạt
động giao thông vận tải. Chính công nghệ thông

tin là yếu tố trực tiếp nhất thúc đẩy cuộc cách
mạng trong giao thông vận tải. Công nghệ thông
tin không những là động lực cho đổi mới và phát
triển các lĩnh vực quy hoạch, thiết kế, thi công
các phơng tiện và công trình giao thông, mà còn
thúc đẩy đổi mới toàn diện, cơ bản trong việc tổ
chức, quản lý toàn bộ hệ thống giao thông vận
tải, làm cho nó phục vụ hữu hiệu hơn, có chất
lợng hơn sự phát triển kinh tế xã hội, góp phần
nâng cao cuộc sống nhân dân, theo nguyên tắc
lợi ích nhiều nhất, chi phí ít nhất. Công nghệ
thông tin hiện nay đang giúp nhiều cho việc kế
hoạch hoá duy tu bảo dỡng, cải tạo, phát triển
đờng (hệ thống quản lý phát triển đờng -
HDM), trong tổ chức giao thông, đảm bảo an toàn
giao thông, giảm tai nạn giao thông, giảm ùn tắc
giao thông, cung cấp thông tin kịp thời phục vụ
ngời sử dụng đờng, từng bớc hình thành hệ
thống giao thông thông minh.
Tiếp thu những thành tựu khoa học công
nghệ mới của thế giới vào nớc ta phải có chọn
lọc và vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể
của nớc nhà, nhằm đạt hiệu quả kinh tế xã hội
cao nhất. Phải có bớc đi thích hợp; cần đi nhanh
nhng thận trọng, chuẩn bị kỹ; vừa có nhảy vọt,
vừa có tuần tự; cần tính toán, cân nhắc kỹ lỡng
đi thẳng vào hiện đại ở khâu nào, lĩnh vực nào,
vùng nào; phát triển tuần tự, tận dụng công nghệ
cổ truyền (kể cả sử dụng nhân lực) ở đâu là tối
u; làm sao cho sự phát triển chung của mạng

lới giao thông đi nhanh lên hiện đại có trọng
điểm, đảm bảo là động lực thúc đẩy và sự đồng
bộ, hài hoà với sự phát triển kinh tế xã hội cả
nớc và từng vùng.
Phải kết hợp tốt việc tăng năng lực nội sinh
về khoa học công nghệ với tiếp thu tri thức, công
nghệ của thế giới. Không đủ năng lực khoa học
thì không thể tiếp thu làm chủ công nghệ nhập từ
ngoài; hơn nữa do điều kiện đặc thù trong nớc,
có những công nghệ từ nớc ngoài nếu không có
nghiên cứu, cải tiến thì không phù hợp.
Các chơng trình nghiên cứu khoa học phải
tập trung vào những vấn đề cơ bản và có tính đặc
thù của Việt Nam để có thể tiếp thu nhanh và làm
chủ các công nghệ nhập. Phải phát triển và ứng
dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong tất cả
các lĩnh vực. Tăng cờng công tác đào tạo và
đào tạo lại cán bộ khoa học kỹ thuật.
Chuyển giao công nghệ là khâu rất quan
trọng để nâng cao trình độ công nghệ trong nớc,
cần đợc tổ chức tốt, có phơng pháp, đảm bảo
hiệu quả cao. Chuyển giao công nghệ phải đạt
đợc mục tiêu là trong nớc nắm vững, làm chủ
đợc công nghệ nhận, biến thành công nghệ của
mình (trang thiết bị có thể còn phải mua). Nắm
vững một công nghệ có nghĩa là phải nắm đ
ợc
nguyên lý công nghệ, phơng pháp, trình tự, quy
trình thực hiện công nghệ, cách xử lý các vấn đề
phát sinh, các bí quyết công nghệ để đảm bảo

chất lợng yêu cầu, có đủ các thông tin t liệu
cần thiết, phơng pháp thu thập xử lý các thông
tin đó, và có một đội ngũ cán bộ đợc đào tạo để
có thể tổ chức làm các công việc đó.
Để việc chuyển giao công nghệ đạt kết quả
và hiệu quả, cần tổ chức tiến hành một cách có
nền nếp, theo quy định của pháp luật. Chuyển
giao công nghệ có thể thực hiện độc lập, hoặc có
thể đi đôi với hợp tác đầu t. Dù trong trờng hợp
nào cũng cần có hợp đồng chuyển giao công
nghệ, quy định rõ mục tiêu cần đạt, quyền lợi,
nghĩa vụ, trách nhiệm các bên. Hiện nay ta nhận
đợc nhiều công nghệ chuyển giao nhng hầu
nh không có hợp đồng, do đó có trách nhiệm
các bên không rõ, không đánh giá đợc kết quả,
hiệu quả chuyển giao công nghệ. Liên quan đến
chuyển giao công nghệ phải thực hiện nghiêm
chỉnh, đầy đủ các pháp luật về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ

×