Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Đề tài: Hệ thống di tích lịch sử Thanh Hóa với việc phát triển du lịch doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.79 KB, 71 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP
Đề tài
Hệ thống di tích lịch sử Thanh Hóa
với việc phát triển du lịch
MỤC LỤC
BÁO CÁO THỰC TẬP 1
Đề tài 1
Hệ thống di tích lịch sử Thanh Hóa với việc phát triển du lịch 1
MỤC LỤC 2
Lời Mở Đầu
Mới nghe em chớ vội cười
Cây rau má “sâm” của người xứ Thanh
Miền quê bão lụt nắng hanh
Vươn lên để sống chỉ nhành má thôi….
Hãy còn văng vẳng đâu đây một lời tâm huyết, xứ Thanh một miền “địa linh,
nhân kiệt”, như một người mẹ đôn hậu và thông minh đã sản sinh cho đất nước biết
bao anh hùng và danh nhân văn hóa. Đây còn là quê hương của ba dòng vua (tiền
Lê, Nhà Hồ, Hậu Lê), là nơi hai dòng chúa: Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn.
Thanh Hóa có bề dày về lịch sử đấu tranh cách mạng từ bao đời và truyền
thống văn hóa, lại có địa hình thiên nhiên sông núi phong phú đa dạng. Vì thế di
tích và thắng cảnh xứ Thanh rất thơ mộng và đặc sắc. Từ lâu bạn bè gần xa vẫn thiết
tha đến với cái đẹp say lòng, với những miền quê vừa duyên dáng, vừa oai hùng của
Hàm Rồng kỳ tú, rung động lòng người trong thập cảnh huyền ảo mộng mơ: Từ
Thức gặp tiên, của Ngàn Nưa lịch sử, Cửa Hà giàu niềm thi cảm, của suối cá Cẩm
Lương có một không hai và Sầm Sơn đón gió đại dương, của vườn Quốc gia Bến
En, Thanh Hóa đã vang danh tên tuổi bởi văn hóa Núi Đọ, văn hóa Đông Sơn,
mảnh đất của Bà Triệu cưỡi voi đánh giặc và Lam Sơn tụ nghĩa của Lê Lợi mười
năm làm rạng rỡ non sông đất nước…
Bên cạnh những truyền thống quý báu của con người xứ Thanh cùng với
những tài nguyên mà thiên nhiên ưu đãi. Những người nông dân nơi đây đang từng
giờ, từng ngày lao động sản xuất hăng say để xây dựng quê hương đất nước. Cũng


chính từ những ưu đãi đó, đã tạo cho xứ Thanh những tiềm năng du lịch phong phú,
tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ngành du lịch. Vì vậy, trong nội dung bài này sẽ
giới thiệu những tiềm năng du lịch và đồng thời đưa ra định hướng phát triển du
lịch trên địa bàn tỉnh.
Nội Dung
1. Khái quát về Thanh Hóa
1.1. Khái quát Thanh Hóa
Thanh Hóa là tỉnh cực Bắc miền Trung Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội
khoảng 150 km về phía Nam và cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560km về hướng
Bắc. Đây là một tỉnh lớn của Việt Nam, đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3 về dân số
trong số các đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, cũng là một trong những địa
điểm sinh sống đầu tiên của người Việt.
Cách đây khoảng 6000 năm con người đã sinh sống tại đây. Các di chỉ khảo
cổ cho thấy nền văn hóa xuất hiện đầu tiên tại đây là văn hóa Đa Bút. Sang đầu thời
đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước
văn hóa Đông Sơn. Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn
văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hóa
Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Và sau đó là nền văn
minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm tiêu biểu văn hoá Đông Sơn. Để hiểu được
hệ thống các di tích lịch sử ở Thanh Hóa thì chúng ta sẽ tìm hiểu khái quát về
Thanh Hóa.
1.1.1. Vị trí địa lý
Theo thiên văn cổ xưa đo đạc năm 1831 (năm Minh Mệnh thứ 10) thì tỉnh
Thanh Hóa thuộc về sao Dực, sao Chẩn, tinh thứ sao Thuần Vĩ, múc cao nhất là 19
độ 26 phân, lệch về phía tây 1 độ 40 phân. Ngày nay, theo số liệu đo đạc hiện đại
của cục bản đồ thì Thanh Hóa nằm ở vĩ tuyến 19°18’ Bắc đến 20°40’ Bắc, kinh
tuyến 104°22’ Đông đến 106°05’ Đông. Phía bắc giáp ba tỉnh: Sơn La, Hòa Bình và
Ninh Bình; phía nam và tây nam giáp tỉnh Nghệ An; phía tây giáp tỉnh Hủa Phăn
nước Lào với đường biên giới 192km; phía đông Thanh Hóa mở ra phần giữa của
vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với bờ biển dài hơn 102km. Diện tích tự nhiên của

Thanh Hóa là 11.106km², chia làm 3 vùng: đồng bằng ven biển, trung du, miền núi.
1.1.2. Lịch sử hình thành
Vùng đất xứ Thanh có lịch sử hình thành lâu đời. Đây là một trong những
nơi hình thành nên các nền văn hóa cổ của nước ta và của khu vực Đông Nam Á.
Các di chỉ khảo cổ cho thấy người Việt đã sống ở đây cách nay 6000 năm.
Thời kì dựng nước nó là bộ Cửu Chân và bộ Quân Ninh của nước Văn Lang. Thời
Nhà Hán chính quyền đô hộ Thanh Hóa thuộc quận Cửu Chân. Thời kì tự chủ thì
Thanh Hóa được đổi tên nhiều, Nhà Đinh và Tiền Lê Thanh Hóa gọi là đạo Ái
Châu, Nhà Lý thời kỳ đầu gọi là trại Ái Châu, về sau vào năm Thuận Thiên 1 thì gọi
là Phủ Thanh Hóa (Thanh: trong sáng; Hóa: biến hóa).
Năm 1430, Hồ Hán Thương đổi phủ Thanh Hóa thành phủ Thiên Xương.
Sau khi nhà Hồ thất thủ, nhà Minh cai trị Đại Việt, lại đổi lại làm phủ Thanh Hóa
như cũ, đặt thêm hai huyện: Lôi Dương, Thụy Nguyên. Về địa giới vẫn không đổi.
Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, nhà hậu Lê cầm quyền. Năm Thuận
Thiên thứ nhất (năm 1428), Lê Thái Tổ chia nước làm 5 đạo, Thanh Hóa thuộc Hải
Tây đạo, đến năm Quang Thuận thứ 7 (năm 1466) đặt tên là Thừa Tuyên Thanh
Hóa, năm Quang Thuận thứ 10 (năm 1469) lại đổi thành Thừa Tuyên Thanh Hoa,
tên Thanh Hoa có từ đây. Thanh Hoa Thừa Tuyên theo “Thiên Nam dư hạ tập” lãnh
4 phủ, 16 huyện và 4 châu. Thời Nhà Lê, Thanh Hóa là thừa tuyên Thanh Hóa, gồm
phần đất tỉnh Thanh Hóa ngày nay và tỉnh Ninh Bình (thời kỳ đó là phủ Trường
Yên, trực thuộc) và tỉnh Hủa Phăn (Sầm Nưa) của Lào (thời kỳ đó gọi là châu Sầm).
Sau khi nhà Nguyễn lên nắm quyền, Thanh Hóa thuộc quyền cai trị của nhà
Nguyễn. Năm Gia Long thứ nhất (1802), gọi là trấn Thanh Hóa. Năm Minh Mệnh
thứ 12 (1831), đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh Thanh Hoa (Hoa: tinh hoa).
Đến năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), lại đổi thành tỉnh Thanh Hóa. Tên gọi Thanh
Hóa không đổi từ đó cho tới ngày nay.
1.1.3. Điều kiện tự nhiên
a. Địa hình, địa mạo
Địa hình Thanh Hóa nghiêng từ tây bắc xuống đông nam. Ở phía tây bắc,
những đồi núi cao trên 1.000m đến 1.500m thoải dần, kéo dài và mở rộng về phía

đông nam. Đồi núi chiếm 3/4 diện tích của cả tỉnh, tạo tiềm năng lớn về kinh tế lâm
nghiệp, dồi dào lâm sản, tài nguyên phong phú. Dựa vào địa hình có thể chia Thanh
Hóa ra làm các vùng miền.
Miền núi và đồi trung du chiếm phần lớn diện tích của Thanh Hóa. Riêng miền đồi
trung du chiếm một diện tích hẹp và bị xé lẻ, không liên tục, không rõ nét như ở
Bắc Bộ. Do đó nhiều nhà nghiên cứu đã không tách miền đồi trung du của Thanh
Hóa thành một bộ phận địa hình riêng biệt mà coi các đồi núi thấp là một phần
không tách rời của miền núi nói chung.
Miền đồi núi chiếm 2/3 diện tích Thanh Hóa, nó được chia làm 3 bộ phận khác
nhau bao gồm 11 huyện: Như Xuân, Như Thanh, Thường Xuân, Lang Chánh, Bá
Thước, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Ngọc Lạc, Cẩm Thủy và Thạch Thành.
Vùng đồi núi phía tây có khí hậu mát, lượng mưa lớn nên có nguồn lâm sản dồi dào,
lại có tiềm năng thủy điện lớn, trong đó sông Chu và các phụ lưu có nhiều điều kiện
thuận lợi để xây dựng các nhà máy thủy điện. Miền đồi núi phía Nam đồi núi thấp,
đất màu mỡ thuận lợi trong việc phát triển cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây đặc sản
và có Vườn quốc gia Bến En (thuộc địa bàn huyện Như Thanh và huyện Như
Xuân), có rừng phát triển tốt, với nhiều gỗ quý, thú quý.
Vùng đồng bằng của Thanh Hóa lớn nhất của miền Trung và thứ ba của cả
nước. Đồng bằng Thanh Hóa có đầy đủ tính chất của một đồng bằng châu thổ, do
phù sa các hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đắp.
Vùng ven biển: Các huyện từ Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Sầm Sơn,
Quảng Xương đến Tĩnh Gia, chạy dọc theo bờ biển gồm vùng sình lầy ở Nga Sơn
và các cửa sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Bạng. Bờ biển dài, tương đối
bằng phẳng, có bãi tắm nổi tiếng Sầm Sơn, có những vùng đất đai rộng lớn thuận
lợi cho việc lấn biển, nuôi trồng thủy sản, phân bố các khu dịch vụ, khu công
nghiệp, phát triển kinh tế biển (ở Nga Sơn, Nam Sầm Sơn, Nghi Sơn).
b. Khí hậu, thủy văn
Thanh Hóa nằm trong vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ, hàng năm có 3 mùa
gió. Gió Bắc do không khí lạnh từ vùng áp cao Siberi qua Trung Quốc thổi xuống.
Gió Tây Nam từ vịnh Bengal qua Thái Lan, Lào thổi vào, rất nóng, gọi là gió Lào

hay gió phơn Tây Nam. Gió Đông Nam thổi từ biển vào đem theo không khí mát
mẻ.
Mùa nóng ở đây bắt đầu từ cuối mùa xuân đến giữa mùa thu, mùa này nắng,
mưa nhiều thường hay có lụt, bão, hạn hán, gặp những ngày có gió Lào nhiệt độ lên
tới 39 - 40°C. Mùa lạnh bắt đầu từ giữa mùa thu đến hết mùa xuân năm sau. Mùa
này thường hay xuất hiện gió mùa đông bắc, lại mưa ít; đầu mùa thường hanh khô.
Lượng nước trung bình hàng năm khoảng 1730-1980mm, mưa nhiều tập trung vào
thời kỳ từ tháng 5 đến tháng 10 âm lịch, còn từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau lượng
mưa chỉ dưới 15%.
Hàng năm Thanh Hóa có khoảng 1700 giờ nắng, tháng nắng nhất là tháng 7,
tháng có ít nắng là tháng 2 và tháng 3. Thành phố Thanh Hóa chỉ cách bờ biển Sầm
Sơn 10km đường chim bay, vì thế nó nằm vào tiểu vùng khí hậu đồng bằng ven
biển, chính nhờ có gió biển mà những ngày có gió Lào, thời gian không khí bị hun
nóng chỉ xảy ra từ 10 giờ sáng đến muộn nhất là 12 giờ đêm. Thanh Hóa cũng như
các tỉnh miền Trung Việt Nam thường hay chịu các trận bão từ Thái Bình Dương.
Theo chu kỳ từ 3-5 năm lại xuất hiện một lần từ cấp 9 đến cấp 10, cá biệt có năm
cấp 11 đến cấp 12.
1.1.4. Điều kiện kinh tế, xã hội
a. Điều kiện kinh tế
Là tỉnh có nguồn tài nguyên đa dạng nhưng nhìn chung nguồn tài nguyên có
trữ lượng không lớn, và thường phân bố không tập trung nên rất khó cho việc xi
măng Nghi sơn, phân bón Hàm rồng, Đa số nguồn tài nguyên đang bị thất thoát
phát triển công nghiệp khai khoáng. Thanh Hóa hiện tại mới chỉ có một số nhà máy
đang tiến hành khai thác nguồn tài nguyên, như: nhà máy xi măng Bỉm sơn, do
kiểm soát không chặt chẽ.
Về công nghiệp, Cũng như Việt Nam, nền công nghiệp Thanh Hóa không
phát triển. Tính đến thời điểm năm 2009, Thanh Hóa có 5 khu công nghiệp tập
trung và phân tán. Một số khu công nghiệp: Khu công nghiệp Bỉm Sơn - Thị xã
Bỉm Sơn; Khu công nghiệp Nghi Sơn (nằm trong Khu kinh tế Nghi Sơn) - Huyện
Tĩnh Gia; Khu công nghiệp Lễ Môn - Thành phố Thanh Hóa; Khu công nghiệp

Đình Hương (Tây Bắc Ga) - Thành phố Thanh Hóa; Khu công nghiệp Lam Sơn -
Huyện Thọ Xuân
Hiện tại Thanh Hóa đang xây dựng khu kinh tế Nghi Sơn. Khu kinh tế này
được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập và ban hành quy chế hoạt động
số 102/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm 2006. Khu kinh tế này nằm ở phía Nam
của tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội 200 km, có đường bộ và đường sắt quốc gia chạy
qua, có cảng biển nước sâu cho tầu có tải trọng đến 30.000 DWT cập bến. Khu kinh
tế Nghi Sơn là một trung tâm động lực của vùng Nam Thanh Bắc Nghệ đang được
quy hoạch, cũng được đánh giá là trọng điểm phát triển phía Nam của vùng kinh tế
trọng điểm Bắc bộ, đồng thời là cầu nối giữa vùng Bắc Bộ với Trung Bộ, với thị
trường Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan.
Về nông nghiệp, Thống kê đến năm 2004, toàn tỉnh có 239.843 ha đất nông
nghiệp đang được sử dụng khai thác. Năm 2002, tổng sản lượng lương thực cả tỉnh
đạt 1,408 triệu tấn. Năm 2003, tổng sản lượng nông nghiệp cả tỉnh đạt 1,5 triệu tấn:
nguyên liệu mía đường 30.000 ha; cà phê 4.000 ha; cao su 7.400 ha; lạc 16.000 ha;
dứa 1.500 ha; sắn 7.000 ha; cói 5.000 ha
Lâm nghiệp, Thanh Hóa là một trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với
diện tích đất có rừng 436.360 ha, trữ lượng khoảng 15,84 triệu m³ gỗ, hàng năm có
thể khai thác 35.000 - 40.000m³ (thời điểm số liệu hiện tại năm 2007). Rừng Thanh
Hóa chủ yếu là rừng cây lá rộng, có hệ thực vật phong phú, đa dạng về họ, loài. Gỗ
quí hiếm có lát, pơ mu, sa mu, lim xanh, táu, sến, vàng tâm, giổi, de, chò chỉ. Các
loại thuộc họ tre nứa gồm có: luồng, nứa, vầu, giang, tre, ngoài ra còn có: mây,
song, dược liệu, quế, cánh kiến đỏ các loại rừng trồng có luồng, thông nhựa, mỡ,
bạch đàn, phi lao, quế, cao su. Nhìn chung vùng rừng giàu và trung bình chủ yếu là
rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, phân bố trên các dãy núi cao ở biên giới Việt -
Lào. Thanh Hóa là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên
50.000ha.
Rừng Thanh Hóa cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: voi,
hươu, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim Đặc biệt ở
phía nam của tỉnh có vườn quốc gia Bến En, phía bắc có vườn quốc gia Cúc

Phương, phía tây bắc có khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông và khu bảo tồn thiên
nhiên Pù Hu, phía tây nam có khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên là những nơi tồn
trữ và bảo vệ các nguồn gien, động vật, thực vật quý, đồng thời là những điểm du
lịch hấp dẫn.
Ngư nghiệp, Ngư nghiệp Thanh Hóa có nhiều điều kiện phát triển. Thanh
Hóa có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với những bãi cá, bãi
tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi cho tàu thuyền ra
vào. Vì vậy Thanh Hóa có điều kiện phát triển ngư nghiệp rất tốt.
Các ngành dịch vụ
Về ngân hàng, bên cạnh Ngân hàng Nhà nước, hệ thống ngân hàng thương
mại trên địa bàn tỉnh gồm Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư Phát triển,
Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng Chính sách. Hiện nay, các ngân hàng
đang thực hiện đổi mới và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, áp dụng các
công nghệ tiên tiến trong việc chuyển phát nhanh, thanh toán liên ngân hàng, thanh
toán quốc tế bảo đảm an toàn và hiệu quả. Tổng nguồn vốn huy động tín dụng hàng
năm đạt trên 3.000 tỷ đồng, tổng dư nợ năm 2002 đạt trên 4.000 tỷ đồng, tăng 20%
so với năm 2001.
Về Bảo hiểm, Là tỉnh có dân số đông thứ ba cả nước, Thanh Hóa được xác
định là thị trường tiềm năng ở tất cả các loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi nhân
thọ. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có tám công ty bảo hiểm được cấp phép hoạt động
bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm trên địa bàn đang không ngừng mở rộng thị trường,
tạo sự cạnh tranh lành mạnh nhằm mục đích nâng cao chất lượng phục vụ khách
hàng.
Thương mại dịch vụ, Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, thương
mại Thanh Hóa đã có bước phát triển quan trọng. Trên địa bàn đã hình thành hệ
thống bán buôn, bán lẻ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện
lưu thông thuận tiện hàng hóa phục vụ nhu cầu đời sống, sinh hoạt và sản xuất của
nhân dân. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm, năm 2000 đạt trên 30 triệu
USD, năm 2001 đạt 43 triệu USD và năm 2002 đạt 58 triệu USD. Thị trường xuất
khẩu ngày càng được mở rộng, bên cạnh thị trường Nhật Bản, Đông Nam Á, một số

doanh nghiệp đã xuất khẩu sang Mỹ, Châu Âu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
của tỉnh là: nông sản (lạc, vừng, dưa chuột, hạt kê, ớt, hạt tiêu, cà phê ), hải sản
(tôm, cua, mực khô, rau câu), hàng da giày, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ (các
sản phẩm mây tre, sơn mài, chiếu cói ), đá ốp lát, quặng crôm
Giao thông, Thanh Hóa là một trong những tỉnh có cả 3 hệ thống giao thông
cơ bản là đường sắt, đường bộ và đường thủy. Trên toàn tỉnh có 8 ga tàu hỏa là Bỉm
Sơn, Đò Lèn, Nghĩa Trang, Hàm Rồng, Thanh Hóa, Yên Thái, Minh Khôi, Thị
Long trong đó có một ga chính trong tuyến đường sắt Bắc Nam, 4 tuyến đường bộ
huyết mạch của Việt Nam (quốc lộ 1A, quốc lộ 45, quốc lộ 47, và đường Hồ Chí
Minh), trong đó quốc lộ 47 dài 61 km, quốc lộ 1A chạy qua Thanh Hóa dài 123 km;
một cảng nước sâu. Thanh Hóa có sân bay quân sự Sao Vàng. Các dự án đường sắt
cao tốc Bắc Nam, đường cao tốc Bắc Nam đều đi qua Thanh Hóa.
Về du lịch, Thanh Hóa cũng là tỉnh có tiềm năng lớn về du lịch. Năm 2007
du lịch Thanh Hóa năm đón tiếp gần 1,7 triệu lượt khách, chủ yếu là khách trong
nước đến tham quan nghỉ mát tại đô thị du lịch biển Sầm Sơn.
Hiện tại, tỉnh Thanh Hóa xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng. Tỉnh
đã thực hiện quy hoạch hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch. Năm 2007,
Thanh Hóa phối hợp với Hà Nội, Ninh Bình, Nghệ An, Huế trong chương trình
“Hành trình một nghìn năm các kinh đô Việt Nam”. Phối hợp cùng Nghệ An và
Ninh Bình lập định hướng quy hoạch vùng du lịch trọng điểm Bắc Trung Bộ.
Các khu du lịch, di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng của tỉnh:
- Các khu du lịch biển: Bãi biển Sầm Sơn, Bãi biển Hải Hòa.
- Các khu bảo tồn thiên nhiên:
Vườn quốc gia Bến En: Thuộc huyện Như Thanh cách thành phố Thanh Hóa
36 km về phía Tây Nam, rộng 16,634 ha với những cây lim ngàn tuổi, lát hoa, chò
chỉ, ngù hương, săng lẻ và nhiều loài thú như voi, gấu, hổ, khỉ
Vườn quốc gia Cúc Phương: một phần thuộc huyện Thạch Thành.
- Các khu bảo tồn: Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Khu bảo tồn thiên nhiên
Pù Luông, Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, Khu bảo tồn thiên nhiên rừng sến
Tam Quy.

- Suối cá thần Cẩm Lương: Thuộc làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm
Thủy, cách thành phố Thanh Hóa 80 km về phía Tây, là suối cá tự nhiên, có tới
hàng ngàn con cá. Mỗi con cá nặng từ 2 đến 8 kg, có cá chúa nặng tới 30 kg.
- Cụm di tích Nga Sơn: Động Từ Thức, Cửa biển Thần Phù, Chiến khu Ba
Đình, đền thờ Mai An Tiêm
- Cụm di tích thành nhà Hồ, gồm thành Tây Đô (thuộc địa phận 2 xã: Vĩnh
Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hóa khoảng 50 km) và
các di tích kề cận như đàn Nam Giao, động Tiên Sơn (thuộc xã Vĩnh An, huyện
Vĩnh Lộc)
- Khu di tích lịch sử Lam Kinh: Thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, cách
thành phố Thanh Hóa 50 km về phía Tây. Hiện còn lưu giữ các điêu khắc đá như
bia Vĩnh Lăng (Lê Lợi), bia hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao, các di tích cung điện
thành nội, thành ngoại, sân Rồng
- Thái miếu nhà Hậu Lê: thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, có
27 thần vị và có nhiều hiện vật có từ thế kỷ 17, 18.
- Đền Bà Triệu, huyện Hậu Lộc.
- Đền thờ Lê Hoàn, huyện Thọ Xuân.
- Khu di tích lịch sử Phủ Trịnh và chùa Báo Ân, đã được xếp hạng cấp quốc
gia.
- Khu lăng miếu Triệu Tường, huyện Hà Trung, nơi phát tích triều Nguyễn.
- Phủ Na (huyện Triệu Sơn), đền Sòng (Bỉm Sơn).
- Khu di chỉ, khảo cổ văn hóa Đông Sơn.
- Khu di tích Hàm Rồng: gồm cầu Hàm Rồng (một biểu tượng thời Chiến
tranh Việt Nam), đồi Quyết Thắng.
- Tòa Giám mục công giáo Thanh Hóa, chùa Thanh Hà, chùa Chanh và chùa
Mật Đa (thành phố Thanh Hóa).
- Thác Muốn, Điền Quang , Điền Lư, Bá Thước
- Suối cá Văn Nho, Bá Thước

b. Điều kiện xã hội

Thanh Hóa có 27 đơn vị hành chính trực thuộc, chỉ đứng sau thành phố Hà
Nội. Thanh Hóa có 639 đơn vị hành chính cấp xã bao gồm 22 phường, 30 thị trấn
và 587 xã.
Thanh Hóa là tỉnh có dân số lớn thứ ba của Việt Nam hiện nay. Lịch sử hình
thành và phát triển của xứ Thanh gắn liền với quá trình cộng cư của người Việt với
người Mường và các dân tộc khác. Đồng thời có một bộ phận không nhỏ dân cư
Thanh Hóa đang sinh sống tại các đô thị lớn trong nước như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Vinh, cũng như tại một số nước trên thế giới. Theo kết quả
điều tra dân số năm 2009, Thanh Hóa có 3.400.239 người, đứng thứ ba Việt Nam,
chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trong 10 năm từ 1999 đến 2009, quy
mô dân số giảm 0,2%, do số dân tăng tự nhiên không thể bù đắp được số người
chuyển đi làm ăn, sinh sống ở các tỉnh, thành phố khác.
Thanh Hóa là tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống, nhưng chủ yếu có 7 dân tộc là
Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Người Kinh chiếm phần lớn dân số
của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp, các dân tộc khác có dân số và địa bạn
sống thu hẹp hơn, như người Khơ Mú chỉ sống chủ yếu ở 2 bản Đoàn Kết, xã Tén
Tằn và Suối Lách, xã Mường Chanh, huyện Mường Lát.
1.1.5. Văn hóa, con người
a. Văn hóa văn nghệ dân gian
Tại Thanh Hóa có nhiều hình thức văn hóa truyền thống, phần nhiều vẫn còn
tồn tại và đang được phát huy. Về dân ca, dân vũ, được nhiều người biết đến nhất là
các làn điệu hò sông Mã, dân ca, dân vũ Đông Anh, trò diễn Xuân Phả. Ngoài ra
còn có ca trù, hát xoan Các dân tộc ít người cũng có nhiều loại hình văn nghệ dân
gian khá đa dạng như hát xường của người Mường, khắp của người Thái
Kho tàng truyện cổ cũng khá đặc sắc như truyện cổ về sự tích về các ngọn
núi, truyện dân gian của ngư dân ven biển Hậu Lộc, Sầm Sơn, Tĩnh Gia. Đặc biệt là
các sự tích về nguồn gốc dân tộc Mường.
Các lễ hội cũng rất đặc sắc như lễ hội Pôồn Pôông của người Mường, lễ hội
cầu ngư, lễ hội đền Sòng
Văn nghệ thời kì sau cách mạng tháng Tám ở Thanh Hóa có các nhà thơ

Hồng Nguyên, Hữu Loan, Nguyễn Bao, Nguyễn Duy, nhà văn Triệu Bôn Trong
thời kì chiến tranh chống Mỹ những năm 1960-1975, địa danh Hàm Rồng là đề tài
của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật.
Một số tác phẩm thơ viết về quê hương Thanh Hóa như: Về lại xứ Thanh
(Phan Quế), Về với Sầm Sơn (Hà Hồng Kỳ), Quê Mẹ (Lưu Đình Long), Quê tôi
đấy - Xứ Thanh! (Văn Công Hùng), Dô tả, dô tà (Mạnh Lê), Mẹ Tơm (Tố Hữu),
Trụ cầu Hàm Rồng (Mã Giang Lân).
Ẩm thực: Đến Thanh Hóa du khách sẽ được thưởng thức những món đặc sản
độc đáo nổi tiếng cả nước của xứ Thanh như: nem chua Thanh Hóa, chè lam Phủ
Quảng, dê núi đá, gà đồi (của huyện Vĩnh Lộc), bánh gai Tứ Trụ (của huyện Thọ
Xuân), các món chế biến từ hến làng Giàng (huyện Thiệu Hóa), bánh đa cầu Bố
(thành phố Thanh Hóa), mía đen Kim Tân (huyện Thạch Thành), hay các món hải
sản: cua biển, ghẹ, sò huyết, tôm, mực, cá thu, cá tràu từ các huyện ven biển Sầm
Sơn, Tĩnh Gia, Nga Sơn.
b. Con người xứ Thanh
Con người xứ Thanh với một lòng mến khách, tính tình ngay thẳng. Siêng
năng trong lao động sản xuất và anh hùng trong đánh giặc ngoại xâm. Người xứ
Thanh sống nặng tình nặng nghĩa, họ tin vào đời sống tinh thần, vào thế giới tâm
linh, tin vào sự công bằng và chở che của trời đất. Vì thế, những đình làng cổ kính
luôn được gìn giữ với tấm lòng trân trọng và thành kính. Những mái đình còn lại
với thời gian không còn nhiều, nhưng vẫn giữ được những nét chạm trổ tinh xảo của
nghệ nhân xưa với mái ngói âm dương phủ đầy rêu và không gian trang nghiêm pha
chút u tịch của chốn thờ tự.
Thanh Hóa là tỉnh có có truyền thống hiếu học ở Việt Nam, từ thời phong
kiến đã có nhiều vị đỗ đạt cao trong các kì thi. Việc học hành ở Thanh Hóa cho thấy
có nhiều người đỗ đạt. Suốt hai triều Lê, Nguyễn tỉnh Thanh Hóa có 1690 cử nhân
(không có số liệu về tú tài nhưng thông thường mỗi khoa thi cứ 20 cử nhân thì có 70
tú tài).Có 2 trạng nguyên, 7 bảng nhãn ,6 Thám hoa. Nếu kể cả những người đỗ
nhất giáp chế khoa thì có thêm 7 người nữa.
Tại Thanh Hóa có nhiều người là người mở đầu hay tiêu biểu cho nền học

thuật nước nhà như nhà sử học Lê Văn Hưu, Hồ Quý Ly là người có nhận thức mới
về Nho giáo, Lương Đắc Bằng, Đào Duy Từ là nhà quân sự đồng thời cũng là nhà
nghệ thuật, Nguyễn Hữu Hào mở đầu cho dòng truyện Nôm ở Việt Nam, Nguyễn
Thu, Ngô Cao Lãng là những nhà nghiên cứu dày công, có nhiều tác phẩm đồ sộ
về cả sử học, địa lý. Ngày nay, con em xứ Thanh vẫn không ngừng học tập rèn
luyện và là một trong nhiều tỉnh có tỉ lệ học sinh đỗ đạt cao ở các kì thi trong nước
và quốc tế. Họ vẫn đang từng ngày khẳng định vị thế của mình trong xã hội.
Do những yếu tố lịch sử, Thanh Hóa là nơi quần cư của nhiều cư dân địa
phương khác đến, với nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, tuy có khác nhau về tập
quán nhưng tính chất cộng đồng, tinh thần đoàn kết vẫn luôn được giữ, phát huy.
Dẫu chưa thành nét đặc trưng như một số vùng, miền nhưng người Đà Nẵng vẫn có
những tính cách riêng và ngày càng được hun đúc cùng tiến trình phát triển đô thị.
2. Tiềm năng du lịch tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng du lịch rất lớn. Những thắng cảnh đặc sắc
như bãi biễn Sầm Sơn, động Hồ Công, núi Hàm Rồng,…Thanh Hóa cũng có nhiều
di tích gắn với lịch sử của dân tộc như Lam Kinh, thành nhà Hồ,… Đến thăm các di
tích này, du khách sẽ hiểu được một giai đoạn hào hùng, đầy biến động của dân tộc.
Ngoài ra, với hàng trăm đền chùa trong khung cảnh núi non, sông ngòi tươi đẹp,
Thanh Hóa có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch
2.1. Tiềm năng du lịch tự nhiên
2.1.1. Các bãi biển
* Bãi biển Sầm Sơn
Biển Sầm Sơn thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh
Hóa 16km. Bờ biển dài, bằng phẳng, phong cảnh hùng vĩ, đã được người Pháp khai
thác từ năm 1906.
Bãi biển Sầm Sơn là nơi tắm biển rất tốt mà người Pháp đã biết khai thác từ
năm 1906 và Sầm Sơn nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng của Ðông
Dương. Từ những thập kỷ trước, đã có nhiều biệt thự nghỉ mát mọc lên ở đây. Vua
Bảo Ðại, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn cũng xây biệt thự riêng ở Sầm Sơn.
Sầm Sơn có nhiều cảnh đẹp: hòn Trống Mái, đền Ðộc Cước, núi Cô Tiên

Bờ biển Sầm Sơn dài 10km bằng phẳng và nhiều hải sản quý như tôm he, cá
thu, mực Sầm Sơn có cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vùng biển bao la với những
thắng tích và huyền thoại mang đậm chất nhân văn và lòng mến khách. Bãi biển
Sầm Sơn là một trong những bãi biển rộng và đẹp ở phía bắc.
* Biển Hải Hòa, Tĩnh Gia
Nằm trên địa phận huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, biển Hải Hoà gần như
chưa có tên trên “bản đồ” du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, với nét đẹp “hoang sơ” và
bờ biển rất sạch, biển Hải Hoà sẽ sớm trở thành điểm đến của khách du lịch trong
thời gian tới. Biển có nét đẹp “hoang sơ” với bờ cát mịn trải dài xen lẫn những rặng
phi lao. Người dân Hải Hoà rất mến khách, họ chủ yếu sinh sống bằng nghề đánh
bắt hải sản và ai đến đây cũng được họ đón tiếp bằng như nụ cười thân thiện.
Đến với Hải Hoà, chúng ta có thể thưởng thức những món ăn đặc trưng của
biển và món “đặc sản” mà gần như chỉ ở Hải Hoà mới có: gỏi sứa chấm nước sốt,
nộm sứa và bánh đa. Mới đây, bãi biển Hải Hoà đã được tỉnh Thanh Hóa đưa vào
quy hoạch thiết kế trong khu sinh thái du lịch. Trong tương lai không xa, bãi biển
Hải Hoà sẽ trở thành điểm đến quen thuộc của những du khách muốn có được một
kỳ nghỉ mát lý thú, vui vẻ.
2.1.2. Thắng cảnh
* Hòn Trống Mái
Hòn Trống Mái nằm trên núi Trường Lệ thuộc địa phận thị xã Sầm Sơn. Hòn
Trống Mái chính là sự xếp đặt từ ba khối đá thiên nhiên đã có từ bao đời nay. Hòn
lớn bằng phẳng ở dưới trông như cái bệ lớn.
Một hòn có đầu nhọn nằm chồng lên trên trông giống hình dáng con gà
trống; hòn đối diện nhỏ hơn, có dáng tựa con gà mái. Các khối đá có hình dáng đẹp
thơ mộng được gắn với truyền thuyết về một mối tình chung thủy, đã cùng nhau
chết trong một trân đại hồng thuỷ
Theo truyền thuyết dân gian, thì thuở xa xưa, bờ biển Sầm Sơn ăn vào tận
nơi này. Một lần có chàng trai đánh cá l àng Trường Lệ, thấy một cô gái bị sóng
biển xô vào bờ. Chàng trai đã cứu sống nàng, rồi hai người yêu nhau, nguyện kết
làm vợ chồng.

Nhưng cô gái vốn là công chúa người nhà trời, vì mắc tội nên bị Ngọc
Hoàng đày xuống hạ giới. Hết hạn đày, Ngọc Hoàng sai chư thần xuống đưa công
chúa về trời, nhưng nàng quyết ở lại với chồng dưới trần thế. Ngọc Hoàng tức giận,
sai Thiên Lôi xuống hỏi tội. Khi Thiên Lôi tới thì thấy vợ chồng công chúa và tất cả
đồ đạc, gia súc trong gia đình đều đã biến thành đá. Ngày nay, hòn đá lớn chính là
người chồng, hòn đá nhỏ hơn chính là người vợ. Xung quanh hòn trống mái còn
thấy nhiều hòn đá nhỏ khác, hình thù giống đàn lợn, con mèo, chiếc mâm, bếp
núc… Đó chính là gia đình của đôi vợ chồng có một tình yêu hết sức chung thuỷ đã
biến thành đá, để được vĩnh viễn bên nhau.
* Núi Vọng Phu
Núi Vọng Phu thuộc Xã Đông Hưng, Huyện Đông Sơn, cách Thành phố
Thanh Hóa ba kilometre về phía Tây Nam. Đây là một ngọn núi đá vôi được thiên
nhiên tạo nên hình một người phụ nữ đang quay mặt về phía biển Đông. Hình tượng
này gắn với truyền thuyết người đàn bà chung thủy chờ chồng đến hóa đá. Vì vậy
mà ngọn núi có tên là Vọng Phu.
Truyền thuyết kể về câu chuyện của hai vợ chồng trẻ, vốn là hai anh em ruột
nhưng không biết nên lấy nhầm nhau. Khi phát hiện ra vợ chính là em gái mình,
người chồng quyết định giữ lấy bí mật đó cho riêng mình, quyết tâm dứt bước ra đi.
Anh đi biển mà mãi mãi không trở về.
Người vợ ở nhà ngày ngày ngóng trông mòn mỏi. Mỗi chiều nàng lại bồng
con trèo lên hòn núi ở cửa biển, con mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời mù mịt.
Tuy nước mắt bấy giờ đã khô kiệt, nhưng người phụ nữ vẫn không quên trèo núi
trông chồng. Về sau cả hai mẹ con đều hóa ra đá, trở thành hình bóng quen thuộc
vĩnh viễn. Người ta vẫn gọi là đá Trông Chồng hay đá Vọng Phụ.
* Sông Mã - Núi Rồng - Núi Ngọc
Một vùng đất có nhiều di tích lịch sử, văn hóa, có nhiều hang động, nhiều
danh thắng. Một vùng đất sôi động những chiến công qua các thời kỳ lịch sử.
“Thanh Hóa thắng địa là nơi
Rồng vờn hạt ngọc, hạc bơi ven thành”
Câu ca dao trên là nói tới dãy núi Rồng. Dãy núi này kéo dài từ Dương Xá

(làng Giàng, thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa) chạy ngoằn nghèo, nhấp
nhô uốn lượn ven bờ sông Mã, khi chạy hết tầm nó ngóc cao tạo thành một cái đầu
giống như đầu Rồng, có mắt, có mũi với cái mồm đang chực đớp lấy viên ngọc.
Trông hình dáng ấy người ta gọi là Hàm Rồng - tên chữ là Long Hạm. Đối diện với
Hàm Rồng bên kia sông có một hòn núi tròn trĩnh xinh xắn gọi là núi Ngọc, tên chữ
là Hỏa Châu. Nếu không có dòng sông Mã chảy giữa núi Rồng và núi Ngọc thì
vùng núi Rồng có đủ 100 ngọn, “Chín mươi chín ngọn bên đông. Còn một ngọn Nít
qua sông chưa về” theo người xưa nói thì nơi nào có đủ con số một trăm như 100
ngọn núi, 100 con sông, 100 cồn đất, 100 cái giếng (tự nhiên), thì nơi đó sẽ trở
thành đế đô trường cửu. Chung quanh núi Rồng còn có rất nhiều ngọn núi mang
những tên các con vật thuộc loại tứ linh: long, ly, quy, phượng.
Từ phía làng Dương Xá (làng Giàng) đi lên ta gặp ngọn Ngũ Hoa Phong hay
còn gọi là núi Ngũ Nhạc, từ xa giống như năm bông sen chụm lại giữa một cánh
đồng rộng mênh mông. Ở đó có nhiều núi đá vôi và hang động, đẹp nhất là động
Tiên. Vào trong động rộng và sáng, nhũ đá rủ xuống tạo thành nhiều hình thù kỳ
thú trong hang có đường lên trời, có đường xuống âm phủ.
Ngọn Phù Thi Sơn trông giống một thiếu nữ đang nằm ngủ, đầu gối vào thân
rồng. Gần đấy có hai quả núi trông một to, một nhỏ, người ta gọi là núi Mẹ, núi
Con. Bên cạnh núi Mẹ và núi Con có một quả núi giống như tiều phu đang nằm
nghỉ quay đầu về phía đông để ngắm trời mây non nước. Sát với hòn Tiều Phu là
núi con Mèo. Đi về phía đầu rồng ta lại gặp ngọn núi con Lợn, núi con Cóc rồi
đến núi Cánh Tiên - Tay Tiên. Trên dãy núi này có 3 ngọn cao vút được gọi là Ba
Hiệu. Trên sườn núi Ba Hiệu trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước người ta đắp hai
chữ “Quyết Thắng” cực to, ta đi xa hàng cây số vẫn nhìn rõ chữ, nên còn có tên là
núi “Quyết Thắng”.
Về phía tay phải núi Cánh Tiên có một quả núi trên đỉnh có nhiều phiến đá to
dựng đứng và chụm vào nhau như một bó đũa, người ta đặt tên là núi “So Đũa”.
Tiến về làng Đông Sơn là núi Mã Yên giống như yên ngựa. Dưới chân núi
Mã Yên có một cái giếng thiên tạo, nhân dân địa phương gọi là giếng Tiên. Nước
giếng Tiên trong vắt và ngọt lịm. Dù trời làm hạn hán lâu ngày hay lụt bão kéo dài

thì mực nước trong giếng cũng không hề thay đổi.
Đã đi thăm núi Rồng mà không đến động Long Quang thì đó là một thiếu sót
lớn. Động Long Quang chính là mắt rồng. Bên trong động còn khắc nhiều bài thơ
của các bậc vương giả, các bậc tao nhân mặc khách mà điển hình là Lê Thánh tông,
Lê Hiển tông. Chếch xuống phía dưới quãng 7-8 mét có các phiến đá chồng lên
nhau và tách ra làm hai. Phần trên phình ra và nhô cao trông giống như cái mũi
rồng, trán rồng. Phần dưới lại như rủ xuống sông trông giống hệt miệng rồng đang
há to gọi là Hàm Rồng.
Dưới chân núi Mã Yên có ngôi đền Thánh Cả. Trong đền thờ vị thần có duệ
hiệu “Tham Xung Tá Quốc” hay “Chàng út Đại vương”. Họ tên của vị thần này là
Lê Hữu. Ngôi đền kiến trúc bằng đá. Tuy nhỏ nhưng rất linh thiêng Gần như đối
diện với đền Đức Thánh Cả qua một cánh đồng rộng về sườn núi đất phía tây có
ngôi đền thờ vị nữ thần có duệ hiệu “Thiên Tiên Thánh Mẫu” hay “Thượng ngàn
thiên tiên công chúa”. Vị thần này có 50 làng thờ. Hàng năm cứ đến ngày mùng 3
tháng 3 các làng lại rước kiệu thần và cỗ bàn về đây để tổ chức lễ hội. Ngày lễ hội
này dân trong vùng gọi là ngày giỗ Mẹ. “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”.
Đối diện với Hàm Rồng là Núi Ngọc. Dưới chân núi Ngọc còn một ngôi
chùa nằm về phía đông đó là chùa “Tiên Đồng”. Ta lấy trung tâm là núi Hàm Rồng
với đường kính từ 5 đến 7km ta sẽ gặp các đền miếu qua các thời. Ta đi từ bắc qua
tây thì sẽ gặp đền thờ Dương Đình Nghệ (làng Giàng), chùa Vốn (tên chữ là chùa
Đại Hùng) ở làng Vồm, Thiệu Khánh. Chùa Tăng Phúc Tự ở Hạc Oa. Đền thờ
Trang Quốc Công ở làng Đại Khối. Chùa Đại bi - làng Mật. Đền thờ Tướng Công ở
làng Vệ Yên. Thái miếu nhà Lê làng Bố Vệ. Chùa Thanh Hà - Đức Thọ Vạn. Chùa
Chanh ở làng Hương Bào Nội. Chùa Mật Đa, đền thờ Chu Nguyên Lương ở Nam
Ngạn
Di chỉ làng Đông Sơn được phát hiện vào năm 1929 nay thuộc phường Hàm
Rồng (thành phố Thanh Hóa). Làng Đông Sơn nằm lọt vào một thung lũng của dãy
núi Hàm Rồng sát bên bờ sông Mã về phía hữu ngạn. Đây là một địa danh mang tên
cho cả một nền văn hóa - nền văn hóa Đông Sơn.
Hàm Rồng trên có núi non kỳ thú, dưới có dòng sông Mã chảy qua đêm ngày

quả là một vùng “non nước hữu tình”. Theo An Nam chí lược đã ngợi ca cảnh sắc
nơi đây: “Núi cao và đẹp trông ra sông Định Minh (sông Mã), lên cao thấy nước
trời một sắc thật là giai cảnh ”.
* Cụm thắng cảnh Tiến Nông
Thắng cảnh Tiến Nông thuộc xã Tiến Nông, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh
Hóa. Cụm thắng cảnh này gồm các di tích chùa Hoà Long, Phúc Vạn và bãi cò Tiến
Nông. Thắng cảnh này được tạo nên bởi sự kết hợp giữa nét cổ kính của những ngôi
chùa và cảnh trí tự nhiên của các cây cổ thụ tạo thành nơi cư ngụ cho chim, cò được
người dân gọi là “Bãi cò Tiến Nông”.
* Khu di tích thắng cảnh Phố Cát
Khu di tích thắng cảnh Phố Cát thuộc xã Thành Vân, huyện Thạch Thành.
Nơi đây có đền thờ Liễu Hạnh, có thác nước đẹp và cũng là một trong những trung
tâm lễ hội dân gian hàng năm.
* Danh thắng Biện Sơn
Cụm di tích danh thắng Biện Sơn thuộc vùng của biển Lạch Bạng, trên vùng
đất hai xã Hải Thượng, Hải Bình, huyện Tĩnh Gia. Đây là vùng cửa sông, có núi,
bãi tắm, các di tích lịch sử tạo nên cụm di tích và danh thắng đẹp.
* Suối cá Cẩm Lương
Chỉ cách thành phố Thanh Hóa 80 km về phía Tây, suối cá thần thôn Lương
Ngọc xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thuỷ là một danh lam thắng cảnh diệu kỳ, một
tuyệt phẩm của thiên nhiên có một không hai.
Gọi là Suối cá thần (hay Mó Ngọc) vì suối ở đây toàn là cá, mật độ cá dày
đặc, mà kỳ lạ thay nước lại chẳng tanh. Người dân ở đây vẫn thường sinh hoạt nấu
nướng bằng thứ nước của dòng suối này từ khi lập bản cho đến giờ.
Gọi là cá thần vì cá ở đây ngày ngày sống chung bầu bạn với người, chẳng
thấy chết khi nào, và chẳng ai ăn thịt bao giờ, cá cứ thế sinh sôi đàn đàn lũ lũ, đủ
các thế hệ. Cá cũng ăn thức ăn như người như: lạc rang, mỳ tôm, ngô và chẳng
bơi đâu xa, chỉ tung tăng bơi lội từ cửa hang đến lòng suối chừng một độ hơn trăm
mét rồi quay trở vào. Nước suối ngọc trong vắt, nhìn rõ lớp đá cuội như có ai lát
dưới lòng suối. Mỗi khi có ánh nắng chiếu xuống, những viên đá trở nên long lanh

như ngọc. Suối cá thần vì thế mà có sức hút kỳ lạ, nam thanh nữ tú, tài tử giai nhân
đến đây như trẩy hội.
Dòng suối ôm ấp trong mình nó nhiều điều diệu kỳ, tuyệt phẩm của tạo hóa,
chảy ra từ một hang lớn trong núi Bồ Um thuộc dãy Trường Sinh.
Cửa hang chỉ rộng bằng cái mẹt, nhưng lòng hang thì rộng và sâu. Đàn cá
sinh sống ở đây rất đông đúc, đến mức rẽ cá mới múc được nước, ước khoảng có tới
hàng vạn con. Con nhỏ chừng 500g đến 700g, con trung bình chừng 5kg, ban ngày
từ dòng suối ngầm trong hang núi, theo dòng nước bơi ra đùa giỡn ở nơi suối Ngọc,
ban đêm lại bơi vào dòng suối ngầm nằm sâu trong lòng núi. Lạ kỳ thay, chẳng ai
be đập đắp bờ vậy mà loài cá này vẫn chỉ bơi tung tăng trong giới hạn chừng 150m
rồi quay vào mà chẳng bao giờ vượt qua giới hạn để vùng vẫy tự do nơi các ruộng
nuớc, ao đầm gần kề.
Loài cá này được người dân Mường gọi là “cá phốôc” có hình thù mình tựa
cá trắm, căng tròn ở phần giữa thân, vẩy như vẩy cá chép, lưng hơi sẫm, môi có
màu phớt hồng, vây và đuôi có chấm đỏ. Thi thoảng vào những dịp đặc biệt người
ta còn thấy xuất hiện những con “cá chúa”, mang có vành đỏ như đeo khuyên tai,
mắt có hai mí xanh đỏ, đuôi lại có chấm đỏ viền xanh. Người già Mường cho hay
dấu ở nơi đuôi cá gọi là “mặt nguyệt”. Chẳng ai cân đo được bao giờ nhưng ước
chừng phải nặng tới 30 đến 40kg . Các cụ già cam đoan rằng con cá Chúa phải sống
lâu năm bằng tuổi họ. Giờ đây chuyện cá chúa xuất hiện chỉ còn như huyền thoại
qua lời kể của các cụ cao niên sống bên cạnh con suối. Các cụ cho hay rằng cá chúa
chỉ xuất hiện đóng vai trò như vị chỉ huy đàn cá múa mừng Chàng Rắn xuất hiện.
Bây giờ du khách đến suối cá Thần chỉ còn thấy dấu tích của Đền thờ Chàng Rắn
được xây dựng vào thế kỷ 14 và nghe con trẻ ngâm lại lời ca của già làng truyền
cho, ngợi ca quá trình lập làng giữ bản chống chọi với thiên tai giặc giã, mưu cầu
bình an, thóc lúa khoai sắn đầy bồ, rượu đầy chum đầy choé:
Chàng Rắn, chàng Rồng
Ba đầu chín mắt
Vảy sắt răng đồng
Mắt to bằng núi Cồng

Mồng to bằng lá Cọ
Trừ quái lập công.
Ơn ông to bằng bể
Công ông to bằng trời.
Du khách thích ngao du mê cảnh sông nước hữu tình có thể đi bằng ca nô,
tàu thuyền qua Ngốc - Vọ dừng lại ngắm cảnh trời mây non nước Cửa Hà cho thêm
niềm cảm hứng một lần lên với vùng cao. Để thoả chí nam nhi rong ruổi thoả thích
ngắm núi ngắm đồi, thăm thú đây đó, du khách có thể đi xe máy theo đường 217
qua thành nhà Hồ thuộc huyện Vĩnh Lộc dừng chân thưởng thức công trình kỳ vĩ
của cha ông, rồi đến phố huyện vùng cao thuộc thị trấn Cẩm Thuỷ, thăm thú chợ
phiên, ghé cửa hàng thổ cẩm mua quà cho mình cho bạn.
Đến suối cá thần Cẩm Lương, bạn có thể được thưởng thức món ngô nướng,
ngô luộc đặc sản của vùng này. Hạt ngô to, mẩy, căng đều mà mềm, thơm ngọt. Ở
đây còn có quả bầu ngô trồng núi đá, quả to chừng bằng cái bát to rất thơm, bùi và
ngon đến lạ lùng. Vào mùa mưa, bạn nên tìm mua loài ốc đá, thứ ốc ăn lá cây rừng
thịt thơm ngon bổ mát. Một điều hút hồn du khách đến suối cá thần Cẩm Lương là
cảm giác được khám phá hang động. Cách cửa hang suối cá chưa đến một trăm mét,
theo cô cậu dẫn đường mến khách ngược lên mái núi đá là gặp động. Động Cây
Đăng (hay còn gọi hang Dơi- vì có vô số dơi trú ngụ ở đây). Động cao chừng 70m
so với khu vực suối, đường lên xuống khá dễ dàng nhờ các bậc đá tự nhiên. Vượt
qua khóm lá, rừng cây đến nơi cửa động mở ra như đón như mời với muôn hình vạn
trạng nhủ đá nguyên sơ. Càng vào sâu trong động, cảnh sắc càng đẹp lung linh,
huyền bí như muốn níu giữ, mời gọi du khách.
Chỉ cần mất vài đồng bạc lẻ cho đám trẻ địa phương, bạn sẽ có cả đèn pin
chạy bằng ắc qui đủ sáng để ngắm cảnh và nghe lời giới thiệu mê lơi của các em.
Chẳng hiểu ai soạn sẵn cho mà chúng thuyết minh cứ như hướng dẫn viên chuyên
nghiệp cừ khôi. Này đây đụn vàng đụn bạc, đây vú mẹ với dòng sữa ngọt ngào
không ngừng chảy. Này đây rồng chầu hổ phục, đây sông Ngân Ngưu Lang Chức
Nữ bước chân tài tử gót tiên. Này đây mai đào cúc trúc, long ly quy phượng, rồng
quấn mây bay, đây bánh chưng bánh dày quả na quả táo, muôn sắc màu lung linh

huyền ảo khó lòng dứt được. Này đây hình Chư Bát Giới mồm rộng quá tai đang
nhai nhồm nhoàm, kia là hình Ngưu Ma Vương mặt mày quái dị. Còn đây Vị Cao
Tăng hiền từ phúc hậu tay lần tràng hạt miệng Nam mô thương từ cây cỏ, con người
đến sinh linh bé bỏng. Hộ giá đi bên có Tôn Ngộ Không, một tay cắp thiết bổng một
tay che mắt dõi về phía trước đi mây về gió trừ khử yêu ma. Còn đây nữa cảnh hội
Vườn Đào với bao tiên nữ đang múa hát mừng sự có mặt của các thánh các quan,
các bụt đang tọa thiền. Bên cạnh cảnh thanh bình những nhũ đá còn phô bày ra cảnh
đại chiến giữa quân của Cun Tối Cun Lang với quân của Lang Cun Khương trong
sử thi “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường anh dũng quật cường.
Chỉ một lần say ngắm thỏa thuê cảnh sắc nơi đây, bao phiền muộn ưu tư lo
lắng sẽ tan biến, chẳng ai nghĩ đến bon chen danh lợi tiền bạc làm gì. Bạn thấy
mình thư thái thoải mái đến lạ lùng như được uống thuốc tiên thuốc thánh. Tầng
tầng rừng núi nguyên sinh với đủ loài cây cỏ để say ngắm tìm hiểu, muôn ngàn
tiếng chim oanh líu lo để tơ tưởng mơ màng. Tiếng chào mời của các hướng dẫn
viên nhí chưa thạo tiếng Kinh cũng làm bạn thích thú như thích thú vẻ nguyên sơ
thuở hồng hoang ở nơi đây. Suối cá thần Cẩm Lương là một sản phẩm độc đáo của
thiên nhiên, với cảnh quan tuyệt đẹp, có rừng có sông suối bản làng hiền lành và
những người dân giản dị, hòa quyện làm nên bức tranh sơn thuỷ hữu tình.
2.1.3. Vườn quốc gia, khu bảo tồn
* Vườn quốc gia Bến En
Với hệ sinh thái tự nhiên phong phú, mang tính đa dạng sinh học cao, Vườn
quốc gia Bến En, cách thành phố Thanh Hóa 45 km về phía tây nam, không những
là địa điểm nghiên cứu của những nhà khoa học và các sinh viên, mà còn là điểm du
lịch sinh thái hấp dẫn.
Được bao bọc giữa vùng đồi núi của hai huyện Như Xuân và Như Thanh,
Bến En có tổng diện tích tự nhiên hơn 16.600 ha và 30.000 ha rừng vùng đệm. Mặc
dù chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhưng nhiệt độ trung bình ở đây
chỉ ở mức 23 độ C. Vườn có hệ thực vật gồm 462 loài, 125 bộ. Bên cạnh các loài
quý hiếm như lim xanh, chò chỉ, sau sau, trai lý, vù hương còn có các loại cây đặc
sản có giá trị cao làm nguyên liệu cho sản xuất đồ mỹ nghệ, lấy dầu và trên 300 loài

cây dược liệu. Hệ động vật ở đây cũng rất phong phú. Đặc biệt nơi đây còn có nhiều
loài động vật quý hiếm như voi, sóc đá, gấu ngựa, hổ, báo, vượn
Trong lòng vườn còn có hồ sông Mực rộng trên dưới 3.000 ha, là thủy vực
của 4 con suối lớn. Trên hồ có 21 hòn đảo lớn nhỏ và nhiều bán đảo với rừng xen
lẫn các mỏm đá tạo thành nhiều hình thù kỳ vĩ. Bên cạnh đó là dãy núi đá Hải Vân
ẩn chứa nhiều hang động đẹp nổi tiếng như cụm hang Ngọc dài hơn 80 m, rộng hơn
20 m, trong hang có nhiều thạch nhũ mang hình thù khác nhau.
Bến En không chỉ có cảnh đẹp mà xen giữa vùng thiên nhiên kỳ thú này là
hàng chục bản, làng của trên 14.000 đồng bào thuộc các dân tộc Mường, Kinh,
Thái, Tày sinh sống. Đến đây du khách sẽ được hòa mình vào các hoạt động văn
hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc.
* Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên
Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên được thành lập tháng 12 năm 1999 với
tổng diện tích khu vực là 27.668ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là
19.800ha, phân khu phục hồi sinh thái 7.848ha, phân khu dịch vụ, hành chính 20ha.
Ngoài ra, vùng đệm của khu bảo tồn thiên nhiên có diện tích 33.590ha. Tuy nhiên
một tài liệu khác cho rằng tổng diện tích của khu bảo tồn là 23.610 ha thuộc địa
phận các xã Bát Mọt, Yên Nhân, Xuân Khao, Xuân Liên, Xuân Mỹ, Vạn Xuân,
huyện Thường Xuân.
Sau khi các xã Xuân Mỹ, Xuân Liên và Xuân Khao (vùng lòng hồ chứa nước
Cửa Đặt) được giải thể năm 2008, Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên thuộc địa bàn
các xã Bát Mọt, Yên Nhân, Vạn Xuân, huyện Thường Xuân. Khu bảo tồn nằm gần
biên giới Việt - Lào, được giới hạn bởi sông Cao ở phía bắc, ranh giới với tỉnh
Nghệ An ở phía tây và phía nam. Và nằm trên một dãy núi chạy từ Sầm Nưa ở Lào
đến các huyện Thường Xuân và Như Xuân của tỉnh Thanh Hoá với nhiều đỉnh cao
như núi Tà Leo (1.400m), núi Bù Chó (1.563m), Bù Hòn Hàn (1.208m) và một
ngọn núi không có tên cao đến 1.605 là đỉnh cao nhất. Nền địa chất của vùng rất đa
dạng bao gồm cả đá trầm tích, đá phiến, spilite, aldezite, và nhiều loại đá biến chất
khác như đá lửa và đá kính.
* Khu bảo tồn Pù Hu

Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu được thành lập năm 1999 với diện tích
23.249,45 ha. Giai đoạn 1 từ năm 1999 đến 2005 cơ bản đã hoàn tất việc rà soát
động, thực vật trong các khu rừng thuộc khu bảo tồn. Giai đoạn 2 từ năm 2005 đến
2010 chủ yếu là xây dựng và quy hoạch du lịch, trong đó chú trọng vào hai tuyến
chính: tuyến sông Mã và tuyến du lịch trên đỉnh Pù Hu. Pù Hu đóng vai trò quan
trọng đối với việc phòng hộ đầu nguồn sông Mã.
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu là sự kết hợp giữa hệ sinh thái núi đá vôi với
hệ sinh thái núi đất và hệ sinh thái rừng độc đáo, với nhiều loài động, thực vật quý
hiếm. Pù Hu có 2 kiểu rừng chính. Rừng thường xanh đất thấp phân bố ở độ cao
dưới 700 m, với các loài thực vật ưu thế thuộc họ Đậu, họ Xoan và họ Bồ hòn. Ở
những nơi có độ cao thấp hơn, kiểu rừng này đã bị tàn phá để lấy đất làm nương
rẫy. Kiểu rừng thường xanh núi thấp phân bố ở độ cao trên 700 m, với các loài thực
vật ưu thế của họ Dẻ, họ Dâu tằm và họ Re(Anon. 1998a).
Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu đã được ghi nhận 508 loài thực vật và
266 loài động vật, thông tin được thu thập từ các đợt khảo sát thực địa ở tỉnh Thanh
Hoá năm 1997. Rừng Pù Hu có nhiều loại cây gỗ quý như kim giao, lát hoa, sến
mật, trầm hương, trường mật, song mật , qua điều tra sơ bộ có 28 loài quý hiếm
được xếp trong sách đỏ Việt Nam.
Trong số các loài động vật ở Pù Hu, có tới hơn 30 loài đã được ghi vào sách
đỏ Việt Nam và thế giới. Một số loài thú có giá trị bảo tồn như gấu ngựa, gấu chó,
bò tót, voọc quần đùi trắng Trong năm 2010 đã phát hiện ở Pù Hu có khoảng 7 - 8
con bò tót và được tách riêng làm hai đàn riêng biệt và có dấu hiệu cho thấy đã có
sự xuất hiện của con non.
Khu hệ chim ở Pù Hu chưa được khảo sát đầy đủ, mặc dầu vậy cũng đã ghi
nhận được 1 loài chim có vùng phân bố hẹp là Trèo cây mỏ vàng (Sitta solangiae)
(Theo Lê Trọng Trải, 2000).
2.1.4. Hang động
* Động Từ Thức
Động thuộc xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trước đây được
gọi là động Bích Đào, sau được đổi tên là động Từ Thức vì gắn với câu chuyện tình

“Từ Thức lấy vợ tiên” được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
Động Từ Thức rất đẹp và gồm có hai động. Động ngoài hẹp, sáng sủa, có
miếu Sơn Thần và có bài thơ của Lê Quí Đôn khắc vào đá. Động trong rộng hơn và
có nhiều cảnh trí tuyệt đẹp. Dưới ánh đuốc, thạch nhũ muôn hình vạn trạng lóng
lánh sắc màu được nhân hoá thành một thế giới gần gũi với đời sống như “cây bạc”,
“cây vàng”, “ao bèo”, “rồng ấp trứng”. Đi sâu vào nữa lại có cả giá chiêng, giá
trống, phường bát âm, bàn cờ tiên, trong động có “đường lên trời” và lối “xuống
lòng đất”.
Động Từ Thức không những là một danh thắng mà còn là một di tích lịch sử
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
* Hang Con Moong
Nằm trong quần thể hệ sinh thái đá vôi của Vườn quốc gia Cúc Phương,
Hang Con Moong ở xã Thành Yên huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá là di chỉ
khảo cổ học được xác định có thời gian tồn tại của con người dài nhất và liên tục
nhất ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Những mẫu vật mà các nhà khoa học tìm thấy cho chúng ta thấy những hình
ảnh rõ nàng nhất về văn hoá vật thể và văn hoá tinh thần của cư dân cổ. Đây sẽ là
một địa chỉ hấp dẫn cho những người ưa thích và khám phá miền đất mới.
Hang Con Moong là di chỉ khảo cổ học được phát hiện vào năm 1975.
Những kết quả khai quật, nghiên cứu mới nhất, cho thấy hang Con Moong là nơi
quần cư liên tục của người Việt cổ, phát triển qua ba tầng văn hóa là Sơn Vi, Hòa
Bình và Bắc Sơn. Trong tầng văn hoá Sơn Vi các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 3 mộ
táng, cùng nhiều công cụ và thực phẩm của người Việt cổ.
PGS - Tiến sĩ Nguyễn Khắc Sử cho biết: “Niên đại sớm nhất được xác định
là cách chúng ta 13 nghìn năm và muộn nhất là 7000 năm thể hiện việc định cư
truyền thống của loài người cùng bước phát triển từ săn bắt, hái lượm sang trồng
trọt sơ khai, chuyển từ hang động ra cư trú ngoài trời, tạo bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử nhân loại”.
Với ý nghĩa và giá trị khoa học to lớn, mới đây, Bộ Văn hoá Thể Thao và Du
lịch đã trao Bằng xếp hạng di tích quốc gia cho hang Con Moong. Ngay trong ngày

đầu mở cửa Hang Con Moong đã đón hàng nghìn du khách. Sức hấp dẫn của hang
Con Moong bởi đây là nơi duy nhất ở Đông Nam Á có thời gian tồn tại của con
người dài nhất và liên tục nhất. Đồng thời nơi đây cũng cho chúng ta thấy những
hình ảnh rõ ràng nhất về văn hoá vật thể và vă hoá tinh thần của cư dân cổ. Điều
quan trọng là chính những cư dân cổ này là cội nguồn của người Việt ta.
Tỉnh Thanh Hóa đã và đang cùng các nhà khoa học triển khai xây dựng hồ sơ
khoa học di tích hang Con Moong để trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị UNESCO
công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đồng thời xây dựng các phương án để hang
Con Moong trở thành địa chỉ hấp dẫn nằm trong quần thể các điểm du lịch của
Vườn quốc gia Cúc Phương.
* Động Tiên Sơn
Nhân dân xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa vừa phát hiện một
hang động được coi là đẹp nhất từ trước tới nay ở Thanh Hóa, được tạm gọi là động
Tiên Sơn. Động ăn sâu vào trong lòng núi đá vôi hàng kilômet, bên trong có cảnh
quan đẹp, còn nguyên vẻ hoang sơ với nhiều nhũ đá vôi có hình thù khác nhau như:
hình Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi thiền trên tòa sen, đàn đá, hình các loài vật, thác
bạc, giếng ngọc Theo nhiều khách tham quan, cảnh đẹp trong động Tiên Sơn có
thể sánh ngang với động Thiên Cung ở Hạ Long và Phong Nha ở Quảng Bình.

×