Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Sự phát triển công nghiệp trong quá trình CNH-HĐH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.74 KB, 38 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân thì công
nghiệp là một ngành sản xuất vật chất rất quan trọng. “Công nghiệp trở thành
một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó là kết quả của sự phát triển lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội”.
Trong nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay có nhiều thành phần kinh tế
cùng nhau tham gia hoạt động đan xen nhau theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước thì vấn đề công nghiệp hoá-hiện đại hóa ở nước ta là một tất yếu
khách quan của lịch sử nước nhà. Quá trình này diễn ra trong điều kiện nước ta
là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, tụt hậu khá xa
so với các nước phát triển, thua kém nhiều đối với các nước trong khu vực về
trình độ, khó khăn về vấn đề vốn, thị trường tiêu thụ, kinh nghiệm vận hành theo
nền kinh tế thị trường và quản lý sản xuất kinh doanh theo cơ chế mới. Trong
điều kiện như vậy cần nghiên cứu vấn đề công nghiệp của nước ta theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hóa là rất cần thiết. Liệu Việt Nam có thể đi lên thành
một nước phát triển nhờ con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa dựa trên cơ sở
phát triển nghành công nghiệp được hay không đó là vấn đề mà chúng ta đang
cần nghiên cứu.
Thực tế đã chứng minh, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền sản
xuất là điều kiện tiên quyết đối với hầu hết các nước đang phát triển muốn vươn
lên hàng các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao. Tuy nhiên đây
không phải là một quá trình đơn giản, nó không đơn thuần là sự chuyển tiếp
kinh tế, cơ cấu ngành sản xuất theo hướng tăng tỷ lệ công nghiệp trên nông
nghiệp trong phạm vi toàn quốc, mà là một quá trình phức tạp, lâu dài. Đây là
một quá trình chuyển đổi tổng thể, bao quát nhiều vấn đề quan trọng của nền
kinh tế vĩ mô mà sự thành công hay không của quá trình này có tính quyết định
đến mục tiêu CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368



Ở nước ta, từ Đại hội Đảng lần thứ I (9/1960) đã đề ra chủ trương công
nghiệp hóa để tiến lên chủ nghĩa xã hội và qua một thời gian dài trên ba mươi
năm qua chủ trương đó của Đảng vẫn được quán triệt và thực hiện triệt để.
Hướng chủ yếu để thực hiện CNH-HĐH ở Việt Nam là phát triển công
nghiệp - là ngành có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và nó
cũng có vai trò to lớn trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Không thể nào
CNH-HĐH nếu không có sự phát triển công nghiệp vì CNH-HĐH không thể
được thực hiện khi mà nền kinh tế lạc hậu kém phát triển. Đồng thời quá trình
CNH-HĐH lại tạo điều kiện cho công nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ. Vì
vậy việc nghiên cứu sự phát triển công nghiệp trong quá trình CNH-HĐH là rất
quan trọng và cần thiết.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

NỘI DUNG
I. Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
1. Ví trí và vai trò của công nghiệp
Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc
dân bao gồm tất cả các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các xí nghiệp công
nghiệp thực hiện chức năng khai thác, chế biến, sửa chữa. Sản phẩm của công
nghiệp là toàn bộ công cụ lao động phần lớn đối tượng lao động và vật phẩm
tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của xã hội .
Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó
chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã
hội.
Trong nền kinh tế hàng hóa phát triển, sản xuất công nghiệp hoạt động
theo nhu cầu của các quan hệ sản xuất hàng hóa như quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh,...
Công nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vât chất cơ bản của nền kinh

tế quốc dân, trình độ phát triển của công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn
đanh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia.
Trong những năm qua, công nghiệp nước ta đã trải qua một quá trình lịch
sử đầy thử thách gay go, ác liệt để tồn tại và phát triển. Công nghiệp nước ta đã
bước đầu xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Trong
quá trình phát triển, công nghiệp được vận động theo một trình tự nhất định như
sau:
Công nghiệp với tư cách là một loại lao động sản xuất nằm trong nông
nghiệp do người nông dân sử dụng thời gian nông nhàn để sản xuất ra các sản
phẩm thủ công nghiệp có tính chất tự cấp tự túc phụ thuộc nền kinh tế nông
nghiêp. Như C. Mác đã chỉ ra đó là sự phụ thuộc có tính chất nguyên thủy của
công nghiệp đối với nông nghiệp .
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Công nghiệp tách khỏi nông nghiệp dưới hình thức nghề thủ công nghiệp
độc lập. Nền sản xuất đó là nền sản xuất hàng hóa nhỏ. Quá trình phát triển công
nghiệp từ nền sản xuất hàng hóa nhỏ lên nền đại công nghiệp cơ khí qua 3 giai
đoạn đó là: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí.
Quá trình phát triển của công nghiệp vừa thể hiện sự phát triển lực lượng sản
xuất xã hội vừa thể hiện trình độ phát triển của nền sản xuất hàng hóa trong sản
xuất công nghiệp cũng như ảnh hưởng của sự phát triển sản xuất công nghiệp
đến trình độ phát triển sản xuất hàng hóa nói chung của nền kinh tế quốc dân .
Nghiên cứu lịch sử phát triển công nghiệp cho thấy: “Công nghiệp không
chỉ tái sản xuất cơ sở vật chất cho xã hội mà còn tái sản xuất ra các quan hệ sản
xuất khác nhau trên bước đường phát triển của mình. Quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, công nghiệp là một phạm trù kinh tế với nhiều hình thức phát
triển ở mức độ khác nhau như: công nghiệp gia đình, thủ công nghiệp, tiểu công
nghiệp, công nghiệp hiện đại, công nghiệp tư bản chủ nghĩa, công nghiệp xã hội

chủ nghĩa.
Nhưng đặc điểm chủ yếu của công nghiệp được biểu hiện trong việc áp
dụng rộng rãi các hình thức phân công có tính chất kỹ thuật, trong sản xuất, sản
phẩm có sự tồn tại của hệ thống máy móc, tính liên tục của quá trình sản xuất.
Sản xuất công nghiệp có tính chuyên môn hóa.
Quá trình phát triển sản xuất công nghiệp cả về cơ sở vật chất kỹ thuật
cũng như kinh tế xã hội đã khẳng định vai trò chủ đạo và từng bước phát huy vai
trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân .
Thực chất vai trò chủ đạo của công nghiệp là sự ảnh hưởng quyết định
của công nghiệp đến việc phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế
quốc dân đồng thời công nghiệp có khả năng tạo ra những hình mẫu để các
ngành kinh tế khác phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Vì
công nghiệp có lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất tiên tiến hơn các
ngành kinh tế quốc dân khác. Trong sản xuất công nghiệp con người sử dụng
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

các công cụ lao động chủ yếu là máy móc thiết bị còn như nông nghiệp chỉ sử
dụng công cụ lao động thô sơ. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được bắt nguồn
từ chỗ nó tập hợp và không ngừng phát triển giai cấp công nhân đội quân tiên
phong trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế, đổi mới xã hội. Do đó mà công
nghiệp có quan hệ sản xuất luôn được củng cố và hoàn thiện cho phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Công nhân trong ngành công nghiệp
có trình độ cao hơn trong sản xuất nông nghiệp. Đối tượng lao động của công
nghiệp rất phong phú và đa dạng (cả tự nhiên và nhân tạo ).
Mặt khác, sản xuất công nghiệp là sản xuất chuyên môn hóa phân công
lao động và hợp tác lao động chặt chẽ. Hình thức sở hữu là hình thức toàn dân
còn phân phối theo hình thức tiền lương: đây là hình thức phân phối tối ưu nhất
và hình thức tổ chức quản lý ở trình độ cao nên hình thành các nhà máy, các xí
nghiệp công nghiệp.

Trong cách mạng quan hệ sản xuất: công nghiệp quyết định sự phát triển
của các ngành kinh tế quốc dân chủ yếu lên sản xuất lớn, sản xuất hàng hóa.
Công nghiệp là ngành duy nhất trang bị công cụ lao động cho tất cả các ngành
kinh tế quốc dân khác.Vì vậy, tốc độ và sự phát triển của công nghiệp quyết
định đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động và hiệu
quả sản xuất. Đồng thời quá trình đó cũng tác động tới quá trình phân công lao
động. Công nghiệp thông qua việc trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế (nhất
là nông nghiệp). Như vậy, sức mạnh của công nghiêp không chỉ có tác dụng
củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong bản thân công
nghiệp mà còn có tác dụng to lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân .
Trong cách mạng khoa học kỹ thuật: "Công nghiệp giữ vai trò vô cùng to
lớn .Vai trò đó thể hiện chủ yếu ở việc đem các thành quả của công nghệ áp
dụng vào các ngành kinh tế quốc dân bằng cách trang bị kỹ thuật cho nó làm cho
các ngành đó có những bước tiến mới về cơ sở vật chất kỹ thuật đẩy mạnh quá
trình cách mạng khoa học kỹ thuật của mình
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Công nghiệp là tiền đề vật chất để thay
đổi tận gốc các tư tưởng và văn hóa cũ, xây dựng tư tưởng và văn hoá mới,
nânbg cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân góp phần bảo đảm sự phát
triển và tiến bộ đồng đều giữa các vùng: vùng miền núi - đồng bằng, thành thị -
nông thôn, lao động trí óc - lao động chân tay,... tạo sự nhất trí về chính trị và
tinh thần trong nhân dân.
Ngoài ra trong các lĩnh vực khác: công nghiệp cũng đóng vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển của lĩnh vực đó.
2. Cơ cấu ngành công nghiệp
Xuất phát từ vai trò chủ đạo của công nghiệp ta xem xét đến cơ cấu kinh
tế của công nghiệp. Cơ cấu ngành công nghiệp là số lượng ngành công nghiệp
chuyên môn hóa và mối liên hệ kinh tế sản xuất giữa các ngành đó biểu hiện

quan hệ tỷ lệ về mặt lượng trong lĩnh vực sản xuất giữa các ngành đó với nhau.
Cơ cấu ngành công nghiệp biểu hiện trình độ phát triển công nghiệp của đất
nước, trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tự chủ của nến kinh tế cũng như trình
độ tăng năng suất lao động xã hội và mức độ hiệu quả của sản xuất. Cơ cấu
ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát huy vị trí chủ đạo của
công nghiệp. Do đó, kế họach cơ cấu ngành công nghiệp là một bộ phận trọng
yếu trong kế hoạch hóa công nghiệp . Vì vậy để kế hoạch hóa kinh tế ngành
công nghiệp cần phải có sự nhận thức đầy đủ về các nhân tố ảnh hưởng đến cơ
cấu ngành công nghiệp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công nghiệp đó là:
- Nhân tố ảnh hưởng quyết định là tiến bộ KHKT. Nhân tố này làm xuất
hiện các ngành sản xuất công cụ lao động mới, làm xuất hiện nhiều ngành hiện
đại như: chế tạo công cụ, sản xuất phương tiện tự động hóa , sản xuất máy vô
tuyến, sản xuất vật liệu cao cấp.
- Trình độ và tính chất phát triển của công nghiệp thể hiện ở mối quan hệ
gắn bó lâu đời giữa hai ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế.
Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm, lao động, nguyên liệu cho công
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368

nghiệp và là thị trường tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp.
- Cơ cấu ngành công nghiệp phụ thuộc vào tình hình tài nguyên thiên
nhiên của đất nước. Nhân tố này tạo điều kiện tiên quyết hay hạn chế việc hình
thành các ngành công nghiệp - Trên cơ sở đó xây dựng một cơ cấu công nghiệp
phong phú và cũng thể hiện được tính riêng biệt, tính mũi nhọn của công nghiệp
một nước.
- Điều kiện lịch sử kinh tế xã hội sẽ để lại những đặc điểm riêng về cơ cấu
công nghiệp mỗi nước, đồng thời cũng tạo ra những thay đổi cơ cấu công nghiệp
trong thời kỳ. Phong tục, tập quán, truyền thống sản xuất công nghiệp ở mỗi
nước cũng được thể hiên rõ nét trong cơ cấu. Nhân tố này tác động gián tiếp qua

nhu cầu và là nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư.
- Trình độ phân công lao động quốc tế , tính đa dạng của nhu cầu, sự khác
nhau về diều kiện thuận lợi trong sản xuất ở các nước đòi hỏi bất kể nền kinh tế
nào cũng cần có sự trao đổi kết quả hoạt động lao động, Chính vì vậy cần phải
mở rộng .
- Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, mở rộng thị trường thế giới.
Các nhân tố trên tạo thành một hệ thống phức tạp có quan hệ mật thiết với
nhau
và đồng thời phát huy tác dụng ảnh hưởng đối với cơ cấu ngành công
nghiệp. Quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp nước ta cũng là quá trình
cải tiến cơ cấu công nghiệp nói chung và cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng.
II. Quan đIểm của đảng ta về vấn đề công nghiệp qua các kỳ đại hội
Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ rằng để thủ tiêu tình trạng nghèo nàn, lạc hậu,
khai thác tối ưu các nguồn lực và các lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng
nhanh và ổn định, giải quyết cơ bản các vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách,... Con
đường để đạt được nhanh nhất là công nghiệp hóa (CNH). Sự nghiệp CNH ở
nước ta được bắt đầu từ năm l960, từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368

(9/1960). Đảng đã khẳng định: “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở
miền Bắc nước ta là CNH XHCN mà mấu chốt là phát triển nền công nghiệp
nặng”
(1)
và chủ trương CNH là “Xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và
hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm nền tảng,
ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển
công nghiệp và công nghiệp nhẹ”
(2)
. Chiến lược này được củng cố và bổ sung

qua các thời kỳ đại hội IV (12/1976) V(1981) và các hội nghị trung ương, đại
hội Đảng. Để thực hiện chiến lược này, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực
trong nước và nước ngoài, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và
nước ngoài, tranh thủ sự viện trợ và giúp đỡ của các nước bạn XHCN... chú
trọng một khoảng thời gian chúng ta đã hình thành được một nền kinh tế đa
ngành, có các ngành quan trọng như cơ khí, luyện kim, điện năng, khai thác
than...
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1976) đề ra đường lối: “ xây dựng
kinh tế XHCN, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý, xây dựng công nghiệp với nông nghiệp cả nước thành cơ cấu kinh tế
công-nông nghiệp…”
(3)
.
Sau năm 1975 thống nhất đất nước do vậy đòi hỏi phải có chiến lược
CNH thích hợp hơn. Nhưng thực tế, đường lối CNH do Đảng đề ra vẫn giữ
nguyên. Do chủ trương nôn nóng chủ quan duy ý chí và với sai lầm trong công
tác chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nền thời kỳ đầu 1974-1980 nền kinh tế
lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất
hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng. Nông nghiệp kém phát triển không đáp ứng
được nhu cầu trong nước, công nghiệp nặng không phát huy được tác dụng.
Thời kỳ 1976-1980 tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%; thu nhập quốc dân chỉ
tăng 0,6%. Trong khi đó dân số tăng 2,24%/năm, sản xuất công nghiệp bình
(1)
Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại biểu to n quà ốc lần III, 1960.
(2)
Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại biểu to n quà ốc lần III, 1960.
(3)
Trang151 - Giáo trình Lịch sử Đảng.
8

Website: Email : Tel : 0918.775.368

quân chỉ tăng 0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông
nghiệp tăng bình quân 1,9%. Quá trình CNH diễn ra có nhiều khó khăn và chậm
chạp vì thiếu những tiền đề kinh tế cơ bản. Hiệu quả kinh tế rất thấp so với
nguồn vốn và công sức bỏ ra. Nguồn lực bị lãng phí nhiều, chưa có tích lũy nội
bộ.
Nóng vội trong cải tạo XHCN, hạn chế sự phát triển của các thành phần
kinh tế tư nhân và cá thể vì vậy không huy động được các nguồn lực trong nước
tham gia vào CNH đất nước. Trước tình hình đó Đại hội Đảng toàn quồc lần thứ
V (3/1982) đã xác định: “Nội dung chính của CNH XHCN trong những năm tới
là tập trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng,
tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng”
(4)
. Sự thay đổi đó
bước đầu đã có tác dụng đến phát triển kinh tế - xã hội và CNH. Bình quân hàng
năm sản xuất công nghiệp tăng 0,5%; TNQD tăng từ 20,5% năm 1980 lên 30%
năm 1985. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa V của Đảng cộng
sản Việt Nam đã coi “Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ
và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ
cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu
quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân" (KTQD) và cho đến Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã quán triệt tư tưởng CNH: "Đẩy
mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả"
(5)
và đại hội Đảng VI đã khẳng định : "Tiếp tục nắm vững hai chiến lược: xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại
hóa".


Để tiếp tục những quan điểm, chủ trương chính sách đổi mới, Đại hội
Đảng lần thứ VII (6/1991) đã chỉ rõ: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước
(4)
Văn kiện Đại hội Đại biểu to n quà ốc lần thứ V.
(5)
Trang 33- Văn kiện Đại hội Đảng VI.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368

mạnh theo con đường XHCN điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình
trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, phát triển lực lượng sản xuất CNH theo
hướng hiện đại gắn liền với việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
XHCN không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân”
(8)
. Đại hội Đảng VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5
năm (1991-1995): “Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định phát triển và
nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống
nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế”
(9)
.
Quá trình đổi mới đã tạo nên được những thành tựu phát triển kinh tế - xã
hội, thành tựu CNH trong những năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng
hơn, đi vào thực tế hơn so với nhiều năm trước đây - lạm phát được kiềm chế,
tốc độ tăng giá trị xuất khẩu lớn hơn tổng sản phẩm xã hội. Cán cân thanh toán
chuyển từ thiếu hụt 9% GDP giữa năm 1980 sang thặng dư 2%GDP. Tổng sản
phẩm trong nước 1991 tăng 6,1% so với năm 1990. Trong đó giá trị tổng sản
lượng công nghiệp tăng 10,4%; nông nghiệp tăng 1,9%; xuất khẩu tăng
13,2%.Sự phát triển công nghiệp trong những năm đổi mới không chỉ thể hiện ở

tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở sự chú trọng đổi mới công nghệ, tăng
khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, và ở sự chuyển dịch cơ cấu theo
hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các
ngành có lợi thế so sánh, các ngành có tác động đến sự phát triển chung của nền
KTQD và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng cộng
sản Việt Nam đã coi “Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ
và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ
cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu
quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân".
(8)
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
(9)
Văn kiện Đại hội đại biểu to n quà ốc lần thứ VII.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Đến đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (7/1996) Đảng ta đã quán
triệt tư tưởng CNH: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao,
bền vững và có hiệu quả"
(10)
và đạ hội VIII xác định mục tiêu của cách mạng
Việt Nam đến năm 2020 và năm 2000 là: ” Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Mục tiêu của công nghiẹp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phong, an ninh vững chắc, dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”

(11)
. Đại hội xác định: Giai
đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển- đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thữ IX (4/2001) của Đảng đã xác định: “
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển sản xuất, đồng
thời xây dưng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN…”
(12)
. Để thực
hiện đường lối và chiến lược kinh tế, đến năm 2010, Đại hội đề ra chủ trương,
giảI pháp sau:
- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần (3 hình thức sở hữu cơ bản và 6
thành phần kinh tế)
- Tiếp tục lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực
quản lý kinh tế nhà nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Các quan đIểm của Đảng về vấn đề công nghiệp qua các kỳ đại hội đã và
đang xuyên suốt sự phát triển của công nghiệp Việt Nam.
(10)
Trang 33- Văn kiện Đại hội Đảng VIII.
(11)
Trang 174 – Giáo trình Lịch sử Đảng.
(12)
Trang 182 – Giáo trình Lịch sử Đảng.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368

III. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua
1. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua

Trong những năm gần đây, nhất là trong quá trình đổi mới, khu vực công
nghiệp phải đương đầu với những khó khăn khá gay gắt. Do những khuyết điểm,
sai lầm trong quá khứ về chính sách cơ cấu và chính sách đầu tư, đến nay công
nghiệp nước ta có trên 4584 xí nghiệp nhưng trình độ công nghệ chỉ đạt từ
60%-70% mức trung bình của thế giới. Thậm chí có loại chỉ bằng 15-20%.
Nhiều loại thiết bị sử dụng đã làm cho mức hao phí nguyên liệu gấp 2 đến 3 lần
mức trung bình của thế giới. Nét nổi bật là thiết bị cũ, thiếu phụ tùng thay thế,
thiếu bảo dưỡng và sửa chữa nên thiết bị ngày càng xuống cấp nghiêm trọng.
Phần lớn các xí nghiệp chỉ mới hoạt động 50%-60% công suất máy. Trình độ sử
dụng tài sản thấp phổ biến là làm việc 1 ca (36%).
Do chưa ý thức đầy đủ về giá thành và chất lượng, nhất là chưa có quan
điểm rõ ràng việc nâng cao đặc tính kỹ thuật của sản phẩm và quy trình sản xuất
nên giá thành sản phẩm sản xuất thường cao, chất lượng kém, mẫu mã xấu, vì
thế sản phẩm khó tiêu thụ trên thị trường. Nhiều xí nghiệp đòi hỏi được HĐH
nhưng lại gặp phải khó khăn về nguồn vốn đầu tư.
Sự phát triển quá lớn về lượng của các xí nghiệp công nghiệp địa phương
càng làm gay gắt thêm tình trạng mất cân đối của nền kinh tế và gây lãng phí lớn
trong sử dụng vốn đầu tư, tài nguyên, nguyên vật liệu. Hiện nay bình quân mỗi
tỉnh, thành phố có 60%-70% xí nghiệp công nghiệp, quá khả năng cho phép của
một địa phương.
Tuy nhiên cùng với chính sách chuyển dịch cơ cấu, chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế theo đường lối Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhiều cơ sở
kinh tế, nhất là các xí nghiệp quốc doanh trung ương đang thích ứng dần với môi
trường kinh doanh mới, bước đầu duy trì, ổn định và phát triển sản xuất. Điểm
nổi bật là hầu hết các xí nghiệp dần dần gắn sản xuất với thị trường, chú ý đầu tư
chiều sâu, đổi mới mặt hàng, quan tâm đến chi phí giá thành. Một số xí nghiệp
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368

bắt đầu làm ăn có lãi thực sự và tăng nhanh khoản nộp cho ngân sách Nhà nước

(như liên hiệp xí nghiệp xi măng năm 1990 nộp ngân sách gấp 19 lần năm
1991). Đây là những chuyển biến bước đầu trong công nghiệp và có thể xem xét
đánh giá thực trạng cơ cấu công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua:
Thời gian năm 1955-1975.
Đây là thời kỳ phát triển sôi động nhất của nền công nghiệp nước ta. Sau
hòa bình lập lại ở miền Bắc chúng ta đã nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến
tranh. Cho đến nay hầu hết nhà máy lớn còn tồn tại và phát huy tác dụng đều
được xây dựng trong thời kỳ này như: cơ khí Hà Nội, cơ khí Trần Hưng Đạo, cơ
khí Trung tâm (Cẩm Phả), Khu Gang thép Thái Nguyên, phân đạm Hà Bắc,
phân lân Văn Điển, Apatít Lào Cai... Hàng loạt nhà máy điện được xây dựng
mới: điện Vinh, Lao Cai, Uông Bí, Ninh Bình, Quảng Ninh,... được khôi phục
cải tạo và phát triển. Trong công nghiệp nhẹ, chúng ta đã xây dựng một số cơ sở
tương đối lớn như khôi phục và mở rộng nhà máy liên hiệp dệt Nam Định, xây
dựng nhà máy dệt kim 8/3…. Do những nỗ lực trên giá trị tổng sản lượng công
nghiệp đã tăng lên với nhịp điệu nhanh. Đó là thời kỳ công nghiệp phát triển
công nghiệp theo chiều rộng với số vốn đầu tư khá lớn và cũng nhanh chóng
phát huy tác dụng, mức huy động công suất máy móc, thiết bị khá cao. Với cơ
cấu công nghiệp như vậy góp phần vào việc phát triển các ngành kinh tế khác,
trước hết là nông nghiệp có tác động trực tiếp vào nâng cao mức sống toàn dân.
Với chủ trương xây dựng kinh tế địa phương làm hậu cần tại chỗ nên công
nghiệp địa phương thời kỳ phát triển mạnh nhất là ngành cơ khí địa phương.
Tính đến năm 1975 miền Bắc có 1337 xí nghiệp quốc doanh và công tư
hợp doanh với 35,5 vạn lao động, khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp 309
hợp tác xã cùng hàng vạn tổ sản xuất với 60,4 vạn lao động. Giá trị tổng sản
lượng đạt 4 tỷ đồng chiếm 24% trong tổng thu nhập quốc dân (miền Bắc bằng
53,6% tổng sản lượng công nông nghiệp).
Thời kỳ 1976 – 1985.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Sau khi thống nhất đất nước, công nghiệp đã có thay đổi nhất định. Đây là
thời kỳ cả nước có nhiều biến động. Vừa qua khỏi cuộc chiến tranh kéo dài mấy
thập kỷ lại bước vào cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam của
Tổ quốc. Nền kinh tế bị bao vây, Trung Quốc cắt viện trợ, các nước phương Tây
tẩy chay chúng ta chỉ còn lại Liên Xô là đang giúp đỡ. Trong thời kỳ này nhiều
dự án đầu tư với số vốn lớn đã không thực hiện được. Nhiều máy móc thiết bị
toàn bộ nhập về không lắp ráp được hoặc xây dựng xong phải đóng cửa vì thiếu
nguyên vật liệu v.v...
Thành quả lớn nhất của thời kỳ này là đã cố gắng duy trì năng lực sản
xuất của công nghiệp nhẹ và thực phẩm đồng thời xây dựng một số cơ sở như
giấy Bãi Bằng, điện Phả Lại, điện Hòa Bình, Trị An, xi măng Bỉm Sơn và
Hoàng Thạch v.v... Kết quả đã làm cho tài sản cố định tăng 2,5 lần số lượng xí
nghiệp quốc doanh tăng 1,4 lần. Số lượng công nhân tăng 1,3 lần, khối lượng
sản phẩm tăng gấp 2 lần so với trước năm 1975.
Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở sản xuất nhiều, lực lượng lao động đông
đặc, song mất cân đối (thiếu điện, nguyên liệu, phụ tùng thay thế v.v...) nên
không huy động được công suất vốn có, chậm đưa cơ sở mới đầu tư vào hoạt
động. Sản phẩm thiếu thị trường tiêu thụ.
Thời kỳ từ 1986 cho đến nay.
Nét nổi bật là hầu hết các cơ sở công nghiệp cấp huyện và một số cấp
tỉnh, thành quản lý đều đứng bên bờ vực của phá sản. Đối với ngành cơ khí chế
tạo máy móc thiết bị cũ kĩ, lạc hậu, mặt hàng không thích hợp với yêu cầu của
người tiêu dùng. Các cơ sở sửa chữa cơ khí hầu hết đều không có việc làm, rơi
vào tình trạng bế tắc. Một số ít cơ sở công nghiệp tìm đường ra bằng cách đa
dạng hóa sản phẩm, chuyển mạnh sang sản xuất theo đơn đặt hàng của các
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, xây dựng, giao thông vận tải
v.v…
Ngành luyện kim cả kim loại màu và kim loại đen cũng gặp không ít khó
khăn, sản xuất cầm chừng.
14

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Ngành dệt và may còn duy trì và phát triển được do nhập nguyên liệu từ
nước ngoài. Nhiều cơ sở đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị như dệt khổ rộng,
nâng cấp sản phẩm, tạo nguyên liệu cho ngành may có điều kiện sản xuất những
loại quần áo đáp ứng nhu cầu thị hiếu nước ngoài.
Ngành năng lượng nhờ sự đầu tư tập trung của Nhà nước đã phát triển khá
mạnh do đưa vào sử dụng những cơ sở năng lượng quy mô lớn. Bên cạnh đó là
những thành tựu về khai thác dầu lửa ở thềm lục địa phía Nam góp một tỷ trọng
đáng kể trong nguồn thu của ngân sách Nhà nước.
Qua nghiên cứu quá trình biến đổi cơ cấu ngành công nghiệp ta thấy được
ta thấy được mới chỉ là những buổi ban đầu của công nghiệp, khó khăn vẫn còn
lớn, nhiều xí nghiệp đang đứng trước quy mô phá sản, thua lỗ kéo dài, không có
khả năng hoàn trả vốn.
2. Những nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển công nghiệp
Việt Nam
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng nền công nghiệp Việt Nam trong
thời gian qua, ta đã thấy được những thành tựu đạt được cũng như những hạn
chế của nền công nghiệp nước ta. Những thành tựu do công nghiệp đạt được thật
vô cùng to lớn góp phần nâng cao TNQD, giúp cho các ngành khác phát triển,
bản thân ngành công nghiệp cũng đạt được những thành quả lớn, đã từng bước
xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, dần dần hình thành các khu công nghiệp
hóa. Giá trị tổng sản lượng của công nghiệp trong nền KTQD ngày càng tăng.
Bên cạnh đó những hạn chế về sự phát triển công nghiệp không nhỏ, trình
độ kỹ thuật chưa cao, chưa phát huy hết vai trò chủ đạo của mình trong nền
KTQD. Công nghiệp còn vấp phải nhiều khó khăn làm không phát huy hết vai
trò của mình, mà một trong những nguyên nhân đó là :
- Trong quá trình phát triển công nghiệp nước ta đã gặp phải một khó
khăn lớn là phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Cuộc
chiến tranh đã gây nên nhiều thiệt hại cho nền kinh tế nước ta, trong đó công

15

×