Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo khoa học: "quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.3 KB, 7 trang )


quản lý rủi ro nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp

TS. nguyễn đăng quang
Bộ môn Kinh tế Bu chính Viễn thông
Khoa Vận tải Kinh tế
Trờng Đại học Giao thông Vận tải

Tóm tắt: Rủi ro l một thnh phần cơ bản trong bất kỳ hoạt động kinh doanh no. Vì vậy
đối với các doanh nghiệp cần phải có sự nhìn nhận đúng đắn về rủi ro v có những biện pháp
quản lý rủi ro nhằm hạn chế tác động rủi ro để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Summary: Risk are unavoidable in any business. Thus, enterprises should be fully awaru
of risks and have methods for risk management in order to restrict risks and promote efficiency
in business opportunities.

i. đặt vấn đề
Trong hoạt động kinh doanh và hoạt
động đầu t của các doanh nghiệp luôn gắn
liền với những rủi ro. Rủi ro xảy ra ngoài ý
muốn và có thể làm thiệt hại về vật chất và
tinh thần cho doanh nghiệp. Nó có thể đẩy
doanh nghiệp vào tình hình khó khăn và có
khả năng bị giải thể hoặc phá sản. Vì vậy cần
phải hiểu một cách thấu đáo về rủi ro và và có
những biện pháp quản lý rủi ro để hạn chế tác
động của rủi ro đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong phạm vi bài báo này
chúng tôi muốn đề cập tới vấn đề rủi ro và
quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể chủ


động có những biện pháp nhằm quản lý tốt rủi
ro nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh.
CB
A

ii. một số vấn đề chung về rủi ro
2.1. Khái niệm rủi ro
Trớc khi đi vào khái niệm cụ thể về rủi
ro cần phân biệt sự khác nhau giữa rủi ro và
sự bất định. Về sự bất định ngời ta thờng đề
cập tới khi mà không thể nói trớc đợc là cái
gì sẽ xảy ra trong tơng lai. Còn rủi ro - đấy
không chỉ đơn giản là sự bất định, mà đó là
một tình huống cần phải để mắt tới khi tiến
hành một hành động này hay một hành động
khác, bởi vì nó có thể ảnh hởng đến của cải
vật chất của con ngời. Nh vậy, sự bất định
là điều kiện cần, nhng cha phải là điều kiện
đủ của rủi ro. Mỗi một tình huống rủi ro đều là
sự bất định, mặc dù sự bất định có thể tồn tại
mà không có rủi ro.
Trong nhiều trờng hợp, liên quan đến rủi
ro, kết quả xác suất của một sự kiện có thể
đơn giản đợc xác định là lỗ hay lãi. Thông
thờng, ngời ta cho rằng, rủi ro - đó là khả
năng bị thiệt hại, chứ không phải là khả năng
thu đợc lợi nhuận.
Tuy nhiên tồn tại những trờng hợp mà
không thể xác định một cách chính xác là có

thu nhập hay bị thiệt hại. Nh vậy, trong một
số trờng hợp, bất kỳ một sự chênh lệch nào
so giá trị mong đợi đều không mong muốn và
kéo theo hao tổn chi phí.
Không chấp nhận rủi ro:

Không chấp nhận rủi ro - đó là một đặc
tính của con ngời trong trờng hợp liên quan
đến rủi ro. Đấy là biện pháp chuẩn bị của con
ngời trả một khoản chi phí nhất định để giảm
bớt mức độ rủi ro mà họ gặp phải. Những
ngời không muốn rủi ro, thờng đánh giá
phơng án dung hoà giữa việc bỏ ra một
khoản chi phí để giảm rủi ro và đợc lợi từ việc
làm đó, u tiên chấp nhận phơng án ít rủi ro
hơn với từng đó chi phí. Chẳng hạn, nếu một
nhà đầu t nào đó chấp nhận đầu t với lãi
suất thấp để có thể tránh đợc rủi ro, thì có
thể lựa chọn trái phiếu chính phủ, bởi vì trong
trờng hợp này mức lãi suất sẽ tơng đối ổn
định và có thể dự đoán đợc. Khi lựa chọn các
phơng án đầu t có cùng sức sinh lời mong
đợi nh nhau, với bản tính của con ngời là
tránh rủi ro, ngời ta sẽ lựa chọn phơng án
có mức độ rủi ro thấp hơn.
2.2. Các loại rủi ro đối với doanh nghiệp
Các doanh nghiệp và công ty là một tổ
chức có chức năng cơ bản là bán hàng và
cung cấp dịch vụ. Hầu nh tất cả các loại hình
kinh doanh của công ty đều liên quan đến các

loại rủi ro khác nhau. Rủi ro là một thành phần
cơ bản của bất kỳ một công việc kinh doanh
nào. Các loại rủi ro trong kinh doanh của công
ty đợc sinh ra bởi tất cả các đối tợng của
công ty, những ai có liên quan đến hoạt động
của công ty: các cổ đông, khách hàng, chủ
nợ, nhà cung cấp, nhân viên và chính phủ.
Trong đó, công ty với sự giúp đỡ của hệ thống
tài chính có thể san sẻ bớt rủi ro mà công ty
gặp phải cho một số đối tợng khác. Những tổ
chức tài chính đặc thù, thí dụ nh các công ty
bảo hiểm, thực hiện dịch vụ thống nhất và san
sẻ rủi ro. Nói chung có thể khẳng định rằng,
tất cả các loại rủi ro của công ty đều đợc
sinh ra bởi con ngời.
CB
A

Các loại rủi ro mà doanh nghiệp có thể
gặp phải là:
- Rủi ro liên quan đến sản xuất kinh
doanh:
+ Rủi ro do thiết bị kỹ thuật (máy
móc, thiết bị, ô tô, ) bị hỏng hóc;
+ Rủi ro do vật t, nhiên liệu không
đợc cung cấp đúng thời hạn;
+ Rủi ro do trên thị trờng lao động
không có lao động cần thiết;
+ Rủi ro do ứng dụng công nghệ mới
và thiết bị, máy móc bị hao mòn vô hình.

- Rủi ro, liên quan đến sự thay đổi giá cả
sản phẩm dịch vụ:
+ Rủi ro do sự thay đổi nhu cầu sản
phẩm dịch vụ do sự thay đổi thị hiếu của
ngời tiêu dùng;
+ Giá, cớc sản phẩm, dịch vụ thay
đổi do cạnh tranh quyết liệt, và công ty
buộc phải giảm giá;
- Rủi ro liên quan đến sự thay đổi giá cả
các yếu tố kinh doanh:
+ Rủi ro do giá cả một yếu tố kinh
doanh nào đó bất ngờ thay đổi, nh tăng
giá nhiên liệu, nguyên liệu, ;
+ Rủi ro do thay đổi lãi suất tín dụng
trên thị trờng.
Rủi ro trong kinh doanh không chỉ đè
nặng lên vai chủ sở hữu doanh nghiệp. Các
nhà quản lý doanh nghiệp cũng gánh chịu một
phần rủi ro (nếu nh trong trờng hợp này chủ
sở hữu doanh nghiệp không phải gánh chịu),
và các nhân viên của doanh nghiệp. Nếu nh
suất sinh lời của doanh nghiệp không cao hay
là thay đổi công nghệ sản xuất, họ sẽ chịu sự
rủi ro giảm tiền lơng, và cũng có thể bị mất
việc nói chung.
Bản thân quy mô và cơ cấu tổ chức của
doanh nghiệp cũng có thể chịu sự rủi ro. Các
doanh nghiệp bao gồm nhiều loại và có quy
mô khác nhau. Một mặt, đó là những doanh
nghiệp t nhân, công ty nhỏ. Mặt khác, đó là

những tập đoàn, tổng công ty lớn nh Tổng
công ty BCVT Việt Nam, tập đoàn NTT của
Nhật Bản. Trong những tập đoàn, tổng công ty
này có hàng nghìn nhân viên và các cổ đông.
Một trong những mục tiêu của những tập đoàn,

công ty lớn là nâng cao khả năng quản lý rủi ro
sản xuất, rủi ro tiêu dùng và rủi ro giá cả.
iii. quản lý rủi ro
Quá trình lựa chọn biện pháp trung hoà
để đạt đợc sự cân bằng giữa các lợi ích từ
việc giảm mức độ rủi ro và chi phí cần thiết để
làm điều đó, cũng nh việc quyết định những
biện pháp nào cần phải thực hiện để đạt đợc
điều đó (kể cả việc từ chối thực hiện một hành
động nào đó), gọi là quản lý rủi ro.
Thờng thì con ngời hay hối tiếc vì mình
đã thực hiện những biện pháp tốn kém để
giảm bớt sự rủi ro. Sự hối tiếc tất nhiên thờng
diễn ra khi những dự báo không tốt mà họ sợ
hãi đã không xảy ra. Nếu một ngời nào đó
quyết định bán những cổ phiếu có độ mạo
hiểm cao, trớc khi nó tăng giá lần thứ hai, sẽ
rất hối tiếc về quyết định của mình. Nhng
cần phải nhớ rằng, tất cả những quyết định
đa ra liên quan đến sự bất định, đều đợc
thực hiện trớc khi sự bất định ny biến
mất. Cần phải tính rằng, quyết định của ai đó
sẽ là tốt nhất trong tất cả các phơng án, mà
có thể quyết định trên cơ sở thông tin mà

ngời đó có trong thời điểm đa ra quyết định.
Tất cả chúng ta đều thông minh sau đó, và
không ai có thể đa ra một dự báo chính xác.
Mặt khác, trên thực tế khó có thể xác
định, khi nào thì kết thúc sự tiên đoán trớc và
bắt đầu đơn giản là sự may mắn. Theo định
nghĩa, quyết định quản lý rủi ro đợc chấp
nhận trong điều kiện bất định, nh vậy sẽ tồn
tại một vài phơng án phát triển sự kiện.
Trong kết quả cuối cùng thì chỉ có thể thực
hiện đợc một phơng án. Sự kết tội (hay
chúc mừng) vì đa ra một quyết định sai lầm
(hay đúng đắn) sẽ không có một ý nghĩa gì
hết, bởi vì chúng chỉ có sau khi đã nhận đợc
thông tin, mà ở thời điểm đa ra quyết định
không hề có. Quyết định thích hợp để quản lý
rủi ro cần đợc xem xét với những thông tin có
đợc tại thời điểm khi mà quyết định này đợc
đa ra.
Quá trình quản lý rủi ro là hoạt động
mang tính hệ thống để phân tích, thiết lập và
quyết định đa ra nhng biện pháp thích hợp
để tối thiểu hoá rủi ro. Quá trình này có thể
chia làm 5 giai đoạn:
3.1. Nhận diện rủi ro
Nhận diện rủi ro (risk identification) là
việc xác định những loại rủi ro nào mà đối
tợng phân tích (chủ gia đình, công ty hay một
quá trình kinh tế) hay gặp phải nhất. Các chủ
gia đình và các công ty thờng không đánh

giá đúng vấn đề về các loại rủi ro mà họ gặp
phải. Chẳng hạn, nếu nh một ngời công
nhân không nghỉ một ngày nào đó vì ốm đau
hay chấn thơng thì ngời đó khó có thể nghĩ
rằng khả năng bị rủi ro mất khả năng lao
động. Có thể anh ta quyết định là sẽ mua bảo
hiểm trong trờng hợp mất khả năng lao động,
nhng cũng có thể là anh ta không hề nghĩ về
điều đó.
Mặt khác, có những loại rủi ro mà con
ngời thờng sẵn lòng mua bảo hiểm, mặc dù
trên thực tế trong tơng lai họ có khả năng bị
rủi ro hay không. Thí dụ, rất nhiều ngời sống
độc thân, mà không có ai quan tâm đến họ,
đóng bảo hiểm vào quỹ hu trí, để sau này khi
nghỉ hu sử dụng phần đã tích luỹ. Nếu nh
ngời này mất trớc khi về hu, thì quỹ hu trí
đợc hởng trên tài khoản của mình một
khoản tiền kha khá. Nh vậy, nếu nh ngời
độc thân đó không có ngời thừa kế, thì anh ta
chẳng cần sự bảo vệ đó để làm gì.
CB
A

Để có thể nhận biết rủi ro cần phải xem
xét vấn đề rủi ro một cách tổng quan với tất cả
các yếu tố ảnh hởng đến rủi ro. Chúng ta
hãy phân tích rủi ro của một ngời liên quan
đến những hoạt động của anh ta trên thị
trờng chứng khoán. Nếu nh anh ta là ngời

môi giới thì thu nhập trong tơng lai của anh ta
liên quan chặt chẽ đến hoạt động của thị
trờng chứng khoán. Thu nhập do khả năng
và kỹ năng lao động (tức là t bản sức lao

động) phụ thuộc vào sự tích cực của thị trờng
chứng khoán. Nh vậy anh ta không cần đầu
t vào chứng khoán số tiền còn lại. Mặt khác,
bạn của anh ta, một công chức nhà nớc cùng
lứa với anh ta và có mức thu nhập nh anh ta,
thì hoàn toàn có thể đầu t phần lớn số vốn
của mình mua chứng khoán, bởi vì t bản lao
động của ngời này không bị rủi ro liên quan
đến thị trờng chứng khoán.
Nguyên tắc xem xét tổng hợp vấn đề rủi
ro này cũng đợc các doanh nghiệp sử dụng.
Thí dụ, sự bất định liên quan đến sự thay đổi
tỷ giá hối đoái, ảnh hởng đến doanh nghiệp
nhập nguyên liệu và bán sản phẩm ra nớc
ngoài với giá cố định bằng ngoại tệ. Đối với
những nhà quản lý doanh nghiệp, vấn đề xem
xét ảnh hởng của sự bất định liên quan đến
thay đổi tỷ giá hối đoái không có ý nghĩa gì đối
với họ. Họ chỉ quan tâm đến chi phí và thu
nhập của doanh nghiệp. Đối với những cổ đông
của doanh nghiệp thì quan trọng là kết quả ảnh
hởng thực sự của sự bất định này, - thu nhập
của doanh nghiệp trừ đi chi phí. Mặc dù thu
nhập của doanh nghiệp cũng nh chi phí của
doanh nghiệp cùng chịu ảnh hởng nh nhau

của sự thay đổi tỷ giá hối đoái. ảnh hởng cuối
cùng của sự bất định liên quan đến sự thay đổi
tỷ giá hối đoái có thể bằng không.
CB
A

Để có thể nhận biết một cách có hiệu
quả các loại rủi ro, rất là hữu ích khi lập một
bản danh sách, trong đó ghi nhận tất cả các
loại rủi ro tiềm năng của doanh nghiệp và mối
liên hệ giữa chúng. Đối với các doanh nghiệp,
có thể yêu cầu có những thông tin chi tiết hơn
về ngành, về công nghệ mà doanh nghiệp
đang sử dụng, về những nhà cung cấp của
doanh nghiệp.
3.2. Đánh giá rủi ro
Đánh giá rủi ro (risk assessment) - Đó là
xác định đại lợng chi phí liên quan tới rủi ro
mà đã đợc nhận biết trong giai đoạn đầu tiên
của quá trình quản lý rủi ro.
Để có thể đánh giá đợc khả năng bị rủi
ro trong lĩnh vực đầu t tài chính, các nhà đầu
t và các công ty đôi khi phải sử dụng t vấn
của các chuyên gia, mà có thể cho phép họ
xác định đợc mức độ rủi ro loại này hay loại
khác và biểu diễn mối quan hệ định lợng
giữa rủi ro và thu nhập từ việc đầu t vào các
loại tài sản khác nhau, nh cổ phiếu hay trái
phiếu. Trong những trờng hợp nh vậy,
thờng phải nhờ đến sự trợ giúp của các nhà

t vấn chuyên nghiệp trong lĩnh vực đầu t,
các quỹ và các tổ chức tài chính trung gian
hay là các công ty cung cấp dịch vụ tài chính.
Họ sẽ giúp cho công ty và các nhà đầu t đa
ra những đánh giá chính xác về rủi ro.
Tất nhiên, để có những thông tin cần thiết
cần phải trả một khoản chi phí nhất định.
Cung cấp nhng thông tin nh vậy là một
chức năng cơ bản của các công ty bảo hiểm.
Công việc đó do các nhà thống kê bảo hiểm
chuyên gia đợc đào tạo kiến thức chuyên
môn về toán học và thống kê. Chuyên gia này
thu thập và phân tích, đánh giá xác suất khả
năng bị rủi ro loại này hay loại khác.
3.3. Lựa chọn phơng pháp quản lý rủi ro
Để giảm bớt rủi ro có thể sử dụng bốn
phơng pháp cơ bản (risk - management
techniques).
- Tránh rủi ro: Đó là một quyết định có ý
thức để không bị một loại rủi ro nào đó. Con
ngời có thể quyết định để không bị rủi ro cho
mình liên quan tới nghề nghiệp hay công việc
tại một công ty nào đó, có thể từ chối không
làm việc tại một ngành nhất định nào đó, bởi
vì những ngành này có thể mang lại cho họ
quá nhiều rủi ro. Nhng tránh khỏi rủi ro
không phải bao giờ cũng đạt đợc. Thí dụ là
mỗi ngời đều bị rủi ro bị ốm rất đơn giản là
bởi vì anh ta là con ngời, mà mọi ngời thì
đều bị ốm. Đó là điều không tránh khỏi.

- Phòng ngừa thiệt hại: Là các biện
pháp đợc đa ra để giảm khả năng thiệt hại
và để tối thiểu hoá hậu quả của chúng. Các
biện pháp nh vậy có thể đợc đa ra trớc

khi thiệt hại xảy ra, khi thiệt hại xảy ra và sau
khi thiệt hại đã xảy ra. Thí dụ, công ty có thể
giảm rủi ro do cháy nếu làm tốt công tác
phòng cháy chữa cháy.
- Tiếp nhận rủi ro: Là bù đắp thiệt hại
bằng tài sản dự trữ. Đôi khi điều đó tự xảy ra,
thí dụ, khi con ngời không hề nghi ngờ về sự
tồn tại của rủi ro hay là không quan tâm đến
nó. Cũng xảy ra trờng hợp khi con ngời
quyết định chấp nhận rủi ro một cách có ý
thức. Thí dụ là một số công ty không mua bảo
hiểm tài sản, dự tính rằng, trong trờng hợp
xảy ra hoả hoạn sẽ khắc phục bằng tài sản
riêng của mình.
- Chuyển rủi ro: Là việc san sẻ rủi ro
cho những ngời khác. Bán các giấy tờ có giá
có độ rủi ro cho ngời khác và mua cho mình
bảo hiểm là một thí dụ về chiến lợc quản lý
rủi ro. Một ví dụ khác, công ty sẽ không thực
hiện một biện pháp nào để tránh khỏi rủi ro,
và hy vọng rằng thiệt hại do rủi ro mang lại sẽ
đợc bù đắp bằng tiền của ngời khác.
Việc chuyển một phần hay toàn bộ rủi ro
cho các đối tợng khác thờng liên quan đến
các loại rủi ro, mà trong đó các tổ chức tài

chính đóng vai trò quan trọng nhất. Phơng
pháp chính để chuyển rủi ro - đơn giản là bán
các loại tài sản, là nguồn gốc của rủi ro.
Chẳng hạn, nếu công ty sở hữu một ngôi nhà
có khả năng bị rủi ro tối thiểu là 3 loại: cháy,
thiên tai và khả năng xuống giá bất động sản.
Nếu bán ngôi nhà đi thì công ty sẽ loại trừ bỏ
đợc cả ba loại rủi ro.
CB
A

Song, giả thiết rằng không ai không thể
và không muốn bán những tài sản bị rủi ro.
Trong những trờng hợp nh thế cũng có thể
quản lý những loại rủi ro nh vậy, nhng bằng
những phơng pháp khác. Thí dụ, nếu công ty
sở hữu ngôi nhà có thể mua bảo hiểm do cháy
và thiên tai, thì công ty chỉ còn tiếp nhận cho
mình rủi ro do xuống giá bất động sản.
Phân biệt ba phơng pháp chuyển rủi ro,
còn gọi là ba sơ đồ chuyển rủi ro: Đó là ngăn
chặn rủi ro, bảo hiểm và phân tán rủi ro.
- Ngăn chặn rủi ro
Ngời ta thờng nói về việc ngăn chặn rủi
ro khi mà những hành động đợc thực hiện để
làm giảm mức độ rủi ro có khả năng mang lại
thiệt hại, đồng thời cũng dẫn tới khả năng
không thể có thêm phần thu nhập. Ví dụ, một
công ty quyết định đặt báo dài hạn trong ba
năm, chứ không phải một năm, phòng ngừa

khả năng có thể tăng giá báo. Công ty sẽ
tránh đợc rủi ro về thiệt hại trong trờng hợp
tăng giá báo, nhng cũng chẳng đợc lợi gì
nếu giá báo giảm xuống.
- Bảo hiểm rủi ro
Bảo hiểm rủi ro là phơng pháp đóng góp
một khoản tiền bảo hiểm nhất định với mục
đích tránh đợc thiệt hại. Mua một chứng từ
bảo hiểm có nghĩa là đồng ý trả một khoản
tiền bảo hiểm đổi lại việc có khả năng bị thiệt
hại lớn liên quan đến việc không mua bảo
hiểm. Thí dụ, khi mua một chiếc ô tô, công ty
chắc chắn sẽ tiến hành mua một loại bảo
hiểm cho những trờng hợp tai nạn, mất cắp
hay những tổn thơng, mà có thể gây ra cho
nhân viên của công ty hoặc môi trờng xung
quanh trong trờng hợp bị tai nạn. Ngày hôm
nay giá bảo hiểm có thể là 1000 USD. Trả
khoản tiền đó, trong một năm công ty có thể
phòng ngừa đợc thiệt hại có thể xảy ra trong
những hoàn cảnh không tiên liệu đợc trớc.
Khoản tiền mua bảo hiểm 1000 USD sẽ thay
thế khả năng tốn kém hơn nhiều, có thể mất
hàng chục ngàn USD.
Giữa ngăn chặn rủi ro v bảo hiểm rủi ro có
sự khác nhau cơ bản. Trong trờng hợp ngăn
chặn rủi ro, ngời ta tránh thiệt hại do rủi ro
mang lại, nhng đồng nghĩa với việc từ bỏ khả
năng tăng thêm thu nhập. Trong trờng hợp
mua bảo hiểm, ngời ta trả một khoản tiền để

tránh phần thiệt hại do rủi ro mang lại, nhng
vẫn giữ đợc khả năng có thêm thu nhập.
- Phân tán rủi ro
Phân tán rủi ro là việc mua nhiều loại tài

sản có rủi ro thay vì tập trung toàn bộ vốn
liếng cho một loại trong số đó. Vì vậy, phân
tán rủi ro sẽ hạn chế khả năng bị rủi ro liên
quan đến một tài sản duy nhất.
Đầu t phân tán đợc thực hiện bởi nhà
đầu t bằng cách tham gia thị trờng chứng
khoán (tự thực hiện hay có sự trợ giúp của các
tổ chức tài chính trung gian), hay là tiến hành
đầu t trực tiếp.
3.4. Thực hiện các phơng pháp đ chọn
Bớc tiếp theo sau khi ra quyết định làm
thế nào với rủi ro đã đợc nhận biết, là chuyển
sang việc thực hiện các phơng pháp đã đợc
lựa chọn. Nguyên tắc cơ bản cần phải tuân
thủ trong giai đoạn này của quá trình quản lý
rủi ro là tối thiểu hoá chi phí để thực hiện các
hành động đã chọn. Thí dụ nh công ty quyết
định mua chứng khoán, thì cần phải so sánh,
dịch vụ của ai sẽ rẻ hơn công ty môi giới
chứng khoán hay nhà môi giới.
3.5. Đánh giá kết quả
Quản lý rủi ro - đó là một quá trình liên
tục với mối liên hệ ngợc, trong đó những
quyết định đã đợc thực hiện cần phải định kỳ
đợc phân tích và đánh giá. Thời gian trôi qua,

hoàn cảnh thay đổi và dẫn tới nhng thay đổi,
xuất hiện những loại rủi ro mới, hay những
thông tin mới về các loại rủi ro đã biết, hay là
chiến lợc quản lý rủi ro xuống giá. Thí dụ nh
công ty quyết định thay đổi tỷ trọng đầu t vào
cổ phiếu và trái phiếu.
CB
A

iv. Chuyển rủi ro v hiệu quả kinh tế
Trên quan điểm của xã hội, cơ chế quản
lý rủi ro cho phép nâng cao hiệu quả kinh tế
bằng hai cách.
- Thứ nhất, chúng chuyển rủi ro từ những
ngời m không muốn v không chấp nhận
rủi ro cho những ngời sẵn sng chấp nhận
rủi ro.
Trớc hết, chúng ta hay xem xét khả
năng phân chia rủi ro giữa các đối tợng có
thể có lợi cho tất cả. Giả thiết rằng, có hai nhà
đầu t ở hai môi trờng khác nhau. Nhà đầu
t thứ nhất là một ngời công nhân đã nghỉ
hu, ngời này có trong sổ tiết kiệm 100 triệu
đồng. Đấy là nguồn thu nhập duy nhất của
anh ta. Nhà đầu t thứ hai là một chàng sinh
viên, mà cũng có 100 triệu đồng, và anh ta
tính rằng sẽ kiếm đợc kha khá khi tốt nghiệp
đại học.
Thông thờng, ngời ta cho rằng, ngời
công nhân là nhà đầu t có tính bảo thủ, còn

chàng sinh viên là ngời tích cực hơn. Nói
một các khác là, ngời công nhân nghỉ hu
đầu tiên quan tâm đến sự an toàn của thu
nhập từ việc đầu t. Đối với chàng sinh viên
chúng ta có thể thấy rằng, anh ta sẵn lòng
chấp nhận rủi ro với việc hy vọng sẽ nhận
đợc suất sinh lời cao hơn.
Giả thiết rằng, hiện nay tất cả tài sản tiết
kiệm của ngời công nhân đợc giữ ở dạng
một rổ cổ phiếu, còn tất cả tài sản của chàng
sinh viên đợc gửi trong một tài khoản tiết
kiệm ở ngân hàng. Cả hai ngời sẽ có lợi nếu
đổi cho nhau tài sản của mình. Ngời công
nhân đã nghỉ hu nhận đợc tài khoản tiết
kiệm, còn chàng sinh viên rổ cổ phiếu.
Một trong những chức năng quan trọng
nhất của hệ thống tài chính là khả năng cho
phép chuyển những loại rủi ro nh vậy. Chức
năng của hệ thống tài chính trong trờng hợp
trên có thể thực hiện nh sau: Đơn giản là
ngời công nhân bán cổ phiếu, còn chàng
sinh viên mua số cổ phiếu trên. Thông thờng
có vài nhà tài chính trung gian tham gia quá
trình này. Ví dụ, ngời công nhân giữ cổ phiếu
của mình ở trên tài khoản của một nhà môi
giới. Anh ta ra lệnh cho nhà môi giới bán số cổ
phiếu đó và chuyển tiền vào tài khoản tiết
kiệm. Từ phía mình, chàng sinh viên bán cho
ngân hàng sổ tiết kiệm của mình và mua cổ
phiếu thông qua nhà môi giới.

Với trình tự thực hiện công việc trên
không diễn ra sự thay đổi ngay trạng thái tài

chính của cả hai phía, chỉ có điều là cả hai
ngời tham gia thơng vụ trên phải trả một
khoản tiền nhất định để thực hiện thơng vụ
trên (tức là phí phục vụ cho nhà môi giới và
ngân hàng). Những thơng vụ trên đợc tiến
hành chỉ với một mục đích duy nhất (và cũng
cho một kết quả duy nhất) cho phép mỗi
bên nhận đợc một khoản đầu t, trong đó rủi
ro và sức sinh lời mong đợi trên quan điểm
nhìn nhận của hai bên là thành công.
Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các
đối tợng tham gia vào quá trình nh sau:


CB
A

- Thứ hai, chúng kích thích sự phân chia
nguồn ti nguyên trong lĩnh vực sản xuất v
tiêu dùng, tơng xứng với việc phân chia lại rủi
ro. Chúng cho phép con ngời giảm mức độ
khả năng bị rủi ro khi tiến hành những hoạt
động kinh doanh khác nhau. Chúng có khả
năng đẩy mạnh tính tích cực của hoạt động
kinh doanh, mà bản thân hoạt động này có lợi
cho xã hội.
Trong trờng hợp thực hiện những dự án

quan trọng, một nhà đầu t không thể thực
hiện một mình bởi vì nh vậy sẽ quá mạo
hiểm. Khả năng hợp nhất và phân chia rủi ro
làm kích thích hoạt động nghiên cứu khoa học
và tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới.
Chẳng hạn, để tiến hành nghiên cứu tạo ra
một công nghệ mới, công ty cần phải bỏ ra
một số tiền lớn trong một khoảng thời gian dài.
Suất sinh lời của việc đầu t rất là bất định
(không chắc chắn). Mặc dù công ty có đủ tiền
để tiến hành công việc nghiên cứu, việc không
chấp nhận toàn bộ rủi ro có thể xảy ra sẽ dẫn
tới việc công ty sẽ không tiến hành đầu t
nghiên cứu một mình. Trong trờng hợp nh
vậy, công ty có thể mời những nhà đầu t
khác tham gia chia sẻ rủi ro và thu nhập tiềm
năng từ việc nghiên cứu thành công công
nghệ mới.
Việc thực hiện những dự án mạo hiểm
giản đơn không chỉ là hợp nhất và phân chia
rủi ro, mà còn là chuyên môn hoá rủi ro. Các
nhà đầu t tiềm năng, đầu t vốn của mình
vào một công ty này hay công ty khác, có thể
tự nguyện chấp nhận một loại rủi ro nào đó,
nhng trong mọi trờng hợp không phải là một
loại rủi ro khác. Chẳng hạn, một công ty quyết
định xây một trung tâm thơng mại trong
thành phố. Các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng đồng ý cấp vốn cho dự án này, nhng
với một điều kiện là trung tâm thơng mại này

phải đợc bảo hiểm hoả hoạn. Nói một cách
khác là, các chủ nợ sẵn sàng chấp nhận về
phía mình rủi ro về khả năng trung tâm thơng
mại không thu đợc kết quả kinh doanh khả
quan, nhng không muốn bị rủi ro do hoả
hoạn. Bởi vì tồn tại những công ty bảo hiểm
chuyên nghiệp sẵn sàng chấp nhận rủi ro do
hoả hoạn, nên việc tài trợ cho dự án xây dựng
trung tâm thơng mại trở nên khả thi.
Nhà đầu t
Hệ thống
tài chính
Nhà đầu t
v. Kết luận
Rủi ro là một bộ phận không thể tách rời
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì
vậy cần phải có sự hiểu biết về rủi ro và có
những biện pháp quản lý rủi ro nhằm tránh
những thiệt hại mà rủi ro có thể mang lại,
đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh, hiệu
quả đầu t của doanh nghiệp, giúp cho doanh
nghiệp tồn tại và phát triển.
Tài liệu tham khảo
[1]. GS Zvi Bodie, GS Robert C. Merton. Tài chính (Bản
tiếng Nga). Nhà xuất bản Wiliams Moskva. 2003.
[2]. Nguyễn Hải Sản. Quản trị Tài chính doanh
nghiệp. Nhà xuất bản Tài chính, 2005.
[3]. GS Bùi Xuân Phong, TS Nguyễn Đăng Quang,
ThS H Văn Hội. Lập và quản lý dự án đầu t. Nhà
xuất bản Bu điện, 2003.

[4]. Nguyễn Tấn Bình. Phân tích quản trị tài chính. Nhà
xuất bản Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2002


×