Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

vận dụng những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng hồ chí minh để xây dựng đạo đức lối sống cho sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.9 KB, 17 trang )

Đề tài 2……………………………………………………………………19
Lời mở đầu……………………………………………………………… 20
I. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên………… 21
1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức…………………………21
2. Sinh viên học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh ……………… 21
2.1. Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức cá
nhân………………… 21
2.2. Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh…………… 22
2.3. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh…………… ……23
II. Xây dựng lối sống mới phù hợp cho sinh viên hiện nay………………25
1. Thực trạng đạo đức, lối sống sinh viên hiện nay…………… 25
1.1. Những ảnh hưởng tích cực……………………
………………………… 25
1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực…………………………………………………28
2, Xây dựng đạo đức, lối sống mới phù hợp cho sinh viên hiện nay………… 28
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………
32
Đề tài 2:
Vận dụng những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh để xây
dựng đạo đức lối sống cho sinh viên hiện nay
Lời mở đầu
Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng, sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã gần 20 năm, tính từ Đại hội
VI ( l2 /l986 ) đến nay. Khoảng thời gian đó đã đủ để sinh thành một thế hệ.Người
đã đi xa nhưng ai cũng cảm thấy như Người vẫn ở bên cạnh chúng ta, cổ vũ
khuyến khích những việc làm tốt, nhắc nhở giúp đỡ chúng ta những yếu kém, hạn
chế, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm để tiến bộ trưởng thành.
Trong thời kỳ phát triển mới hiện nay của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã
xác định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá trở thành nền
tảng tinh thần của xã hội. Bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống xã hội, bất cứ một


hoạt động nào của tổ chức và cá nhân một người, đạo đức cũng thể hiện vai trò
quan trọng của nó.Thiếu vắng hoặc yếu kém về đạo đức, con người không có nhân
tính đầy đủ, không phát triển được nhân tính để thành người và làm người. Suy
thoái đạo đức, xã hội không thể phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực từ kinh
tế đến chính trị, văn hoá và xã hội.
Trong hệ thống các động lực phát triển xã hội, đạo đức là một động lực tinh thần
không thể thiếu.Và chúng ta, thế hệ của tương lai, những sinh viên phải làm gì để
có thể duy trì một nếp sống đạo đức tốt đẹp hơn.Vậy ta hãy vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh để xây dựng đạo đức lối sống cho sinh viên hiện nay.
I. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
1, Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của
Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết
chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện
những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên
Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề
đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3-2-
1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn
Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên.
- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi
thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại
không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn
thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu

cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực
hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của
con người: đối với mình, đối với người, đối với việc.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức cá nhân
Đạo đức hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy
tắc, những quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự,
hạnh phúc, công bằng… được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ giữa
con người với sự nghiệp, giữa con người với nhau và giữa con người với xã hội.
Xuất phát từ bản chất, con người luôn có khát vọng hướng tới chân, thiện, mĩ nhằm
hoàn thiện bản thân.Để vươn tới sự hoàn thiện, trước hết con người phải tự tu
dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Do vậy đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách
tạo nên giá trị con người, vì vậy ai cũng phải tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức.
Riêng đối với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là “người chủ
tương lai của nước nhà”, là cái cầu nối các thế hệ – “người tiếp sức cách mạng cho
thế hệ già, đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Chính
vì vậy, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm giáo dục đạo đức, chăm lo
rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định:
“Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh
tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì có
ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa.Nếu có đức mà không có tài ví như
ông Bụt không làm hại gì nhưng cũng không có lợi gì cho loài người”.
2.2. Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Cũng như cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp
sinh viên, thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo
đức tối cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu, rèn luyện. Trong Bài nói tại
Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (ngày 7–5–1958), những phẩm chất đó
được Người tóm tắt trong “sáu cái yêu”: yêu Tổ quốc; yêu nhân dân; yêu chủ nghĩa
xã hội; yêu lao động; yêu khoa học và kỉ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
phải có khoa học và kỉ luật”.

Theo Hồ Chí Minh, để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn
luyện cho mình những đức tính như: Trung thành, tận tụy, thật thà, trung thực và
chính trực, phải xác định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải là hỏi nước nhà đã
cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà?Mình phải làm
thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều hơn?Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hi sinh
phấn đấu chừng nào”. Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp lí luận với thực hành,
học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư
tưởng háo danh, hám lợi. “Chống tâm lí ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống
thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng xa xỉ, chống
cách sinh hoạt ủy mị.Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”. Phải trả lời được
câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai?Phải xác định rõ tác nào là tốt, thế nào
là xấu?Ai là bạn, ai là thù?”… Người chỉ rõ: “Đối với người, ai làm gì lợi ích cho
nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kì là ai làm điều gì có hại cho nhân dân
và Tổ quát ta tức là kẻ thù.Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích
cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ
quốc và đồng bào là kẻ thù… Điều gì phải, thì phải cố làm cho kì được, dù là việc
nhỏ.Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”.
2.3. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà, thế
hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện ở một số nội dung cơ
bản sau:
+ Một là, học trung với nước, hiếu với dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt
khoát mục tiêu hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận
một sự hi sinh, luôn kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn,
“thắng không kiêu, bại không nản”, “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không
chuyển lay, uy vũ không khuất phục” nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó
Người nói: “Bài học chính trong đời tôi là tuyệt đối và hoàn toàn cống hiến đời

mình cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất Tổ quốc giải phóng giai cấp công
nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, cho sự hợp tác
anh em và hòa bình giữa các dân tộc”; “Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một
ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Đến lúc phải rời thế giới này, điều luyến
tiếc duy nhất của Người là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Tấm gương vì nước, vì dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế
giới và bạn bè quốc tế thừa nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và
trang trọng nhất để ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nhà cách mạng triệt để”, “nhà
hoạt động quốc tế thần thoại”, “một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại của chúng
ta”, “một tấm gương sáng chói những phẩm chất cách mạng và nhân đạo cao cả
nhất”. Hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng
suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường
như vậy”, một con người “mà cái chết là mầm sống của sự sống và nguồn cổ vũ
đời đời bất diệt”.
+ Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, ít lòng ham muốn vật chất. Đó là tư cách người cán bộ cách mạng, và
tự mình Người đã gương mẫu thực hiện. Suốt đời, Người sống trong sạch thực
hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn vì nước, vì dân, vì con người,
không gợn chút riêng tư. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Hồ Chủ tịch không
có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của Người.Quyền lợi tối cao của nước,
lợi ích hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của Người.Gia đình của Người là
đại gia đình Việt Nam.
Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa
chuộng những nghi thức trang trọng cầu kì, suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch
tao nhã, giản dị, khiêm tốn, khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc
cho dân. Nói về những đức tính vĩ đại của Hồ Chí Minh, X. Agienđê – vị Tổng
thống anh hùng của nước Cộng hoà Chilê đã khái quát: “Nếu như muốn tìm một sự

tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng
giản dị và sự khiêm tốn phi thường”.
+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân
dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn thân ái, vị tha, khoan dung và nhân
hậu với con người
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền
với niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán
bộ, đảng viên việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải
hết sức tránh; phải gần dân, hiểu dân, phải học dân, kính trọng nhân dân; hết lòng,
hết sức phục vụ nhân dân. Người phê phán quyết liệt đầu óc “quan cách mạng” và
tự mình thường xuyên đi xuống cơ sở để tìm hiểu “lắng nghe ý kiến của đảng viên,
của nhân dân, của những người không quan trọng”. Là người có uy tín rất cao và
sức hấp dẫn rất lớn, song không bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn nhân dân,
chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của nhân dân, “như một người lính vâng lệnh
quốc dân ra trước mặt trận”.
Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh giành cho tất cả, chia sẻ với mọi người
những nỗi đau riêng.Người nói, trong “mỗi người, mỗi gia đình có một nỗi đau khổ
riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mọi người, mọi gia đình thì thành nỗi
đau khổ của tôi”.
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của
dân tộc, nên có sức mạnh và cảm hoá to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương
tri. Ở Hồ Chí Minh, thương người là một tình cảm lớn.Cho nên, khi làm cách
mạng, Hồ Chí Minh đặt vấn đề tự do và hạnh phúc đi đôi. Đó chính là biểu hiện
chủ nghĩa nhân văn cộng sản vừa thánh thiện, vừa gần gũi đã làm xúc động trái tim
nhân loại và Người được suy tôn “một ông thánh cộng sản”, “một con người của
huyền thoại”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã bình luận: Lòng nhân đạo, tình
thương đồng bào, đó là điều sâu sắc nhất, tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ
tịch.
+ Bốn là, ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách,
gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.

Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng vô cùng gian khổ.
Hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình, có giai đoạn hoạt động rất sôi nổi,
được đánh giá rất cao, có giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kị, không được giao nhiệm
vụ… Song, nhờ ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên
cường, chủ động vượt qua thử thách gian nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ
chân lí, giữ vững quan điểm cách mạng của mình. Người đã làm thơ để tự răn:
“Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”
Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất là những đặc trưng trong nhân cách
Hồ Chí Minh. Một tờ báo nước ngoài viết: “Đằng sau cái cốt cách dịu dàng của Cụ
Hồ là một ý chí sắt thép. Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh
hùng không có gì uy hiếp nổi”.
Để cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có
hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều nhân tố: sự giáo dục và việc tự
bồi dưỡng, rèn luyện của sinh viên, sự nêu gương của mọi người trong xã hội,
trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lí giáo
dục và sự hướng dẫn của dư luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong
những nhân tố trên, việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong
muốn.
II. Xây dựng đặc điểm lối sống mới cho sinh viên hiện nay
1. Thực trạng đạo đức lối sống sinh viên hiện nay
1.1. Những ảnh hưởng tích cực
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,
một nền đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng
là nguồn động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức
vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người,
song nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu
mới, những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc và thời đại. Nhờ đó, phần lớn sinh
viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh;
khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân,

lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách thức,
dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, trây lười; luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành
cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Là những con người năng động và sáng tạo. Chính sinh viên là những người
tiên phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế, giáo dục…Trong đầu
họ luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến
các ý tưởng ấy thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ còn tự mình tạo
ra cơ hội.Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh , sáng chế; và không ít
trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu
ích trong thực tiễn. Với thế mạnh là được đào tạo vừa toàn diện vừa chuyên sâu,
sinh viên có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước.
Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương phấp học sao cho lượng
kiến thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động dựa vào thầy cô, họ tự
mình đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn.Phần lớn sinh viên
đều có khả năng thích nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ
không chỉ học tập trong một phạm vi hẹp ở trường, lớp; giới trẻ ngày nay luôn
phát huy tinh thần học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân
loại, sinh viên Việt Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực
khác như văn hóa, nghệ thuật… Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở
việc tích cực tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiện…Ngoài giờ học,
những sinh viên-tuyên truyền viên hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang
kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi nhà… Bằng sự năng động, sinh viên
luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đỏi và
phát triển của xã hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của
sinh viên Việt Nam thời đại mới.
- Thứ hai táo bạo và tự tin. Sinh viên dám nghĩ , dám làm, dám chịu thử thách.
Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm
trong thực tế. Có thể thành công hoặc thất bại, song họ không hề chùn bước. Với
họ, mỗi lần thất bại lại làm họ tự tin hơn với nhiều kinh nghiệm hơn.Đứng trước

cha anh, họ luôn tự tin vào chính mình. Họ tin rằng với những tri thức mình có
trong tay, với những gì họ đã, đang và sẽ làm, các bậc cha anh sẽ tự hào về họ.Tự
tin nhưng không kiêu- đó chính là sinh viên Việt Nam. Phần lớn sinh viên đều rất
khiêm tốn, họ không bao giờ nghĩ rằng như thế là mình đã hơn các bậc tiền bối.
Trong suy nghĩ của họ, họ còn thiếu nhiều lắm, nhất là kinh nghiệm và sự từng
trải. Chính vì thế, khi quyết định một điều gì, sinh viên không bao giờ quên tham
khảo ý kiến của những người xung quanh, đặc biệt là bậc cha chú của mình. Và khi
đã nhận được sự ủng hộ của lớp người đi trước, họ thêm tự tin thực hiện ý định
của mình. Táo bạo song sinh viên không hề liều lĩnh.Trước khi thực hiện một việc
gì, họ luôn tính toán, xem xét vấn đề một cách thận trọng. Nói rằng táo bạo, nghĩa
là trước đó chưa có ai dám làm, dám thử nghiệm, họ là người đầu tiên thực hiện,
chứ không phải họ đâm đầu thực hiện một việc mà họ không biết tỉ lệ thành công
của mình. Khi cảm thấy mình đã có đủ mọi điều kiện cần thiết, họ mới bắt tay vào
thực hiện. Một điều quan trọng đáng nói ở đây, đó là nếu gặp rủi ro thất bại thì họ
sẵn sàng chấp nhận như một chuyện đương nhiên tất yếu sẽ xảy ra, tức là có thất
bại thì thất bại ấy cũng nằm trong kế hoạch. Họ dám nhìn thẳng vào thất bại và
vượt qua nó.Tóm lại, táo bạo và tự tin cũng là điểm rất đáng quý trong lối sống của
sinh viên Việt Nam.
- Thứ ba, phong cách độc lập trong cuộc sống cũng như trong học tập cũng
góp phần xây dựng một hình tượng đẹp về sinh viên Việt Nam. Không giống như
sinh viên các thế hệ trước chỉ biết sống phụ thuộc vào gia đình, sinh viên ngày nay
đã biết thân tự lập thân.Không chỉ riêng việc học tập, mà mọi vấn đề khác trong
cuộc sống đều được sinh viên giải quyết trong sự chủ động. Nếu như trong quá
khứ, sinh viên còn chờ đợi tiền chu cấp của gia đình mỗi đầu tháng thì ngày nay
mọi chuyện dường như đã khác đi rất nhiều. Ngoài giờ học, họ tìm việc làm kiếm
thêm tiền mua sách vở hay phục vụ cho những chi tiêu thường ngày khác. Nhiều
người không chỉ lo được cho bản thân mà còn có thể giúp đỡ những người bạn
khác thiệt thòi hơn mình, hay giúp đỡ gia đình ngay cả khi họ vẫn còn ngồi trong
gảng đường đại học. Những con người ấy thật đáng khâm phục, xứng đáng trở
thành những gương mặt tiêu biểu đại diện cho sinh viên Việt Nam thời đại mới.

- Ngoài ra, sinh viên Việt Nam còn được thừa hưởng một truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, đó là truyền thống hiếu học. Sinh viên Việt Nam mọi thời đại luôn
ham học, ham hiểu biết.Họ khao khát tìm tòi, khám phá chân trời tri thức. Họ say
mê với những điều mới lạ.
- Ngày nay tuy điều kiện học đã tốt hơn cha ông nhưng sinh viên Việt Nam vẫn
phải vượt qua nhiều khó khăn khác để đến với chân trời tri thức. Có những người
dù bị tật nguyền vẫn đi học như bao bạn bè cùng trang lứa khác, họ không những
tần mà không phế mà còn trở thành những sinh viên giỏi, làm được nhiều điều cho
gia đình, đất nước. Có những người dù gia đình gặp nhiều khó khăn, bất hạnh,
khiến họ phải bôn ba kiếm sống không được học hành đến nơi đến chốn vẫn mang
trong mình khát vọng được chiếm lĩnh tri thức nhân loại; và khi có cơ hội họ lại đi
học trở lại, với niềm hạnh phúc lớn lao.
Ham học, ham hiểu biết chính là động lực cho việc lĩnh hội tri thức của sinh viên.
Không thỏa mãn với những gì được dạy trong truờng, họ tự mình học thêm bên
ngoài, qua sách báo, qua bạn bè khắp nơi.
1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, do
sự bùng phát của lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi bất chấp đạo lí đã dẫn đến
những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là: tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra
nghiêm trọng”.Đó còn là tình trạng “một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số
cán bộ chủ chốt yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong,
gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”. Thêm vào đó là những
biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá
của thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”… đã
tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến tâm tư,
tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên trí thức. Hậu quả là đã có một
bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lí tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không
có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm,

thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút sách; thiếu
trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng
cấp… Đây là những biểu hiện không thể coi thường.
Chúng ta đang sống trong thời đại mới - thời đại văn minh, khoa học, nhất là sự
phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin; nó đã làm cho cuộc sống con
người ngày được nâng cao. Đáng tiếc thay giá trị đạo đức đang bị xói mòn bởi chủ
nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy. Hơn nữa, giới trẻ ngày
nay chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ qua
những giá trị đạo đức là nền tảng cốt yếu của con người. Vấn đề này đang là thách
đố cho các nhà giáo dục cũng như những người có trách nhiệm.
2, Xây dựng đạo đức, lối sống mới phù hợp cho sinh viên hiện nay
- Chăm lo giáo dục lý tưởng cách mạng
Lý tưởng cách mạng mà Bác Hồ quan tâm giáo dục cho thế hệ trẻ chính là
mục tiêu, con đường cách mạng Việt Nam: Ðộc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã
hội. Ðây cũng là lý tưởng của Người khi tiếp thụ chân lý khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, sau hơn
10 năm trải nghiệm cuộc sống trên khắp các châu lục, lao động, hoạt động trong
phong trào công nhân quốc tế và các dân tộc bị áp bức để tìm ra con đường cứu
nước, cứu dân là giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ðiểm nổi bật trong giáo dục lý tưởng cho thế hệ trẻ là cùng với việc nêu cao
lý tưởng, quyết tâm phấn đấu cho giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu gương bằng chính cuộc đời hoạt động cách mạng, chịu mọi gian
khó, hy sinh, đồng cam cộng khổ với đồng bào, đồng chí. Bác Hồ cho rằng, thực
tiễn đấu tranh cách mạng là trường học giáo dục lý tưởng tốt nhất cho thế hệ
trẻ.Giác ngộ lý tưởng không chỉ dừng ở nhận thức mà điều có ý nghĩa trong việc
thấm nhuần lý tưởng cách mạng là tinh thần và quyết tâm hành động thực hiện lý
tưởng. Và khi đã thấm nhuần lý tưởng, quyết tâm phấn đấu cho lý tưởng thì như
Người dạy thanh niên:
“Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền

Ðào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên!”
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta, cần quan tâm giáo
dục thế hệ trẻ hiểu biết sâu sắc rằng, vì lý tưởng cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và chủ nghĩa xã hội mà những chiến sĩ cộng sản tiền bối và biết bao
đảng viên cộng sản, lớp lớp đoàn viên, thanh niên đã cống hiến trọn đời, hy sinh
bao máu xương.
Ðối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ
không phải là cái gì quá cao xa mà là gần gũi, giản dị, dễ thấy. Chẳng hạn, Người
quan niệm chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh.Trong chủ nghĩa xã hội ai
cũng phải làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả. Ðối với người già, ốm
đau thì được xã hội chăm lo nhưng không chấp nhận lười biếng, lười lao động, lười
học tập. Phải giáo dục cho mọi người ý thức cần kiệm liêm chính, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, ai không làm thì không hưởng.
- Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho thế hệ trẻ, giúp họ phấn đấu vươn lên trong học tập, công tác, chiến đấu,
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trở thành con người phát triển toàn diện, người
chủ xứng đáng của đất nước.
Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu thanh niên phải
thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và phải thường xuyên trau dồi, rèn luyện
đạo đức cách mạng.Theo quan điểm của Bác Hồ, đạo đức cách mạng là "trung với
nước, hiếu với dân" và đạo đức cách mạng phải được thể hiện trong hành động, chỉ
có trong hành động, hoạt động trong thực tế đấu tranh cách mạng của nhân dân thì
thanh niên mới tỏ rõ được đạo đức của mình.
Bồi dưỡng tinh thần làm chủ và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên,
Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói những điều chung chung mà Người thường
xuyên nêu những việc cụ thể, thiết thực. Bác Hồ luôn nhắc nhở thanh niên trung
với nước, hiếu với dân là như thế nào, đồng thời phải luôn luôn hiếu thảo, kính
trọng ông bà, cha mẹ, thương yêu mọi người trong gia đình.Giáo dục cho thanh

niên biết thương dân, yêu nước, thương nhân loại bị áp bức, bóc lột thì phải chăm
lo bảo vệ lợi ích của nhân dân, dám đấu tranh chống những sách nhiễu dân, chống
chủ nghĩa cá nhân.
Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh, Bác Hồ
nêu rõ: Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không
quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. "Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy". Nó
là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa,
nhút nhát, lãng phí, tham ô Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, chủ
nghĩa xã hội (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t10, tr306).
- Dạy nghề, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật.
Nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
chăm lo xây dựng các thế hệ người Việt Nam phát triển toàn diện. Do đó, cùng với
việc giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng là chăm lo đào tạo, dạy nghề, nâng cao
trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật cho thanh niên. Ngay sau khi cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp đầu
tiên của Chính phủ đã đề nghị một trong những công việc khẩn cấp lúc bấy giờ là
diệt giặc dốt, xóa nạn mù chữ. Trong ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước
Việt Nam độc lập, Bác Hồ viết thư cho học sinh khẳng định: Non sông Việt Nam
có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn
ở công học tập của các em.
Xuất phát từ nhiệm vụ mới của cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo để nâng
cao trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật và nghề nghiệp cho thế hệ trẻ. Theo quan
điểm của Người, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, xây dựng đời sống mới, thực hiện
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh" còn khó khăn, lâu dài hơn nhiều so với cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Chính vì thế, Bác Hồ thường căn dặn,
dạy bảo thanh niên phải "ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa
học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân
dân". Và, làm nghề gì cũng phải học, mục đích của việc học không gì khác hơn là

để nâng cao năng lực, làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống
nhân dân ngày càng được ấm no, tươi vui.
Tư tưởng quan trọng của Hồ Chí Minh về việc học tập của thế hệ trẻ là giáo
dục cho họ học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho nước nhà giàu
mạnh và để làm tròn trách nhiệm của người chủ tương lai của đất nước. Vì thế,
thanh niên phải học nữa, học mãi, bởi vì, "nếu không chịu khó học tập thì không
tiến bộ.Không tiến bộ là thoái bộ.Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy
móc càng tinh xảo.Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải,
tự mình đào thải mình" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t9, tr554).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
phải chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cốt cán, bởi "đó là đội quân chủ lực trong
công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta". Chủ tịch Hồ Chí Minh
di chúc, nhấn mạnh rằng, những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân
dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra
dũng cảm.Ðảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học
thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật
giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật,2011
2. “Một lãnh tụ ở bước ngoặt lịch sử”, Báo Nhân dân số ra ngày 17-9-1969.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, (xuất bản lần thứ 2), Nxb Chính trị Quốc gia,
1995
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
II, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, 2010.
6. Giáo trình trung cấp lý luận chính trị hành chính: Những vấn đề cơ bản về
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị hành chính, 2009.
7. Lược đồ chủ nghĩa tư bản ( thế kỷ XVI- 1914)

×