Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Định hướng sử dụng khí và quá trình phát triển công nghiệp khí ở các thềm lục địa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.28 KB, 36 trang )

Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU Trang 2
CHƯƠNG I: VÀI NÉT SƠ BỘ VỀ QUÁ TRÌNH SỬ DỤNG KHÍ THIÊN
NHIÊN QUA CÁC THỜI KỲ Trang 3
CHƯƠNG II: CƠ SỞ KHOA HỌC CHO CHIẾN LƯC KHÍ THIÊN
NHIÊN Trang 5
I. Nguồn gốc hữu cơ của khí thiên nhiên Trang 5
II. Môi trường tạo khí Trang 7
1. Khí đồng hành Trang 7
2. Khí đơn độc Trang 8
3. Khí than đá Trang 8
III. Di trú và tích tụ Trang 9
IV. Chiến lược khí thích hợp Trang 10
V. Tiềm năng khí ở Việt Nam hiện nay Trang 11
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIÊN CÔNG NGHIỆP KHÍ
THIÊN NHIÊN Trang 15
I. Các vấn đề khai thác khí thiên nhiên Trang 15
II. Khả năng chế biến khí thiên nhiên theo công nghệ mới Trang 17
III. Đònh hướng sử dụng khí thiên nhiên hiện nay Trang 19
1. Sử dụng làm nguyên liệu Trang 19
2. Sử dụng làm nhiên liệu Trang 22
V. Các hoạch đònh đầu tư và phát triển khí trong thời gian hiện nay
1. Khí hóa dầu Trang 24
2. Hệ thống ống dẫn khí và trạm phân phối Trang 29
3. Các nhà máy xử lý khí Trang 31
KẾT LUẬN Trang 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 35

Khóa luận tốt nghiệp Trang 1
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, những bước đột phá của các ngành công nghiệp biến đổi
chuyển hoá khí thiên nhiên thành một nguồn năng lượng phucï vụ cho đời
sống xã hội ngày càng có qui mô hơn. Công nghệ chuyển đổi khí cho các
ngành công nghiệp : dùng làm nguyên liêu, nhiên liệu , dùng trong hoá
dầu, trong công nghệ lương thực phẩm và giao thông vận tải… đã xuất hiện
từ lâu trên thế giới.
Với tiềm năng có sẳn, trữ lượng khí lớn hơn trữ lượng dầu rất nhiều lần.
Với các chính sách đầu tư hợp lý của ngành dầu khí và nhà nước thì có thể
hoàn thiện công nghệ chuyển đổi nhiên liệu khí, phát triển một ngành
công nghiệp mới, đáp ứng thò trường trong nước, nhằm giải quyết một số
vấn đề về năng lượng, nhiên liệu và vấn đề ô nhiễm môi trường. Ngoài ra
còn tạo ra hàng nghìn chỗ làm mới cho lực lượng lao động dồi dào của
nước ta, đồng thời tạo ra những sản phẩm mới mang nhãn hiệu của Ngành
Dầu khí.
‘Đònh hướng sử dụng khí và quá trình phát triển công nghiệp khí ở
các thềm lục đòa Việt Nam’ hiên nay là nội dung chủ yếu của bài khoá
luận này. Đề tài được thực hiện dựa trên các tài liệu đã công bố, cộng với
vốn kiến thức tích lũy trong suốt thời gian học tập vừa qua, cùng với sự
hướng dẫn của các thầy cô trong quá trình tìm hiểu về chuyên ngành Dầu
khí, tất cả là tổng vốn kiến thức giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
này. Em xin chân thành cảm ơn và rất mong sự sữa chữa và góp ý của q
thầy .
TPHCM, Ngày……… tháng……năm 2004
Sinh viên

Khóa luận tốt nghiệp Trang 2
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
Chương I:
VÀI NÉT SƠ BỘ VỀ QUÁ TRÌNH SỬ DỤNG KHÍ

THIÊN NHIÊN QUA CÁC THỜI KỲ :
- Từ trước thập niên 60, công nghiệp khí thiên nhiên
quá mới trong chiến lược phát triển kinh tế nước ta. Do đó, khí không nằm
trong diện qui ước.
- Tháng 7/1973, trong công cuộc tìm kiếm thăm dò
dầu khí tại Bồn Nam Côn Sơn đã có biểu hiện khí lộ ra trong một số các
giếng khoan.
- Tháng 4/1975, công ty Mobil tìm thấy dầu và khí
đồng hành ở giếng Bạch Hổ trong một ngoại lệ phát sinh và tàng trữ hi hữu:
móng đá Granit chứa dầu khí.
- Triển vọng về Hrôcacbon được đúc kết ở thềm lục
đòa phía Nam 1975
+ Về dầu mỏ: không có cơ sở tin cậy.
+ Về khí: có cơ sở tin cậy.
- Năm 1977 đến 1987, Việt Nam quyết đònh đi theo
con đường phát triển dầu mỏ theo chân Malaysia và Trung Quốc, nên đốt bỏ
khí đồng hành từ mỏ Bạch hổ vào năm 1987 đã đánh dấu ngày Việt Nam
bước chân vào ngưỡng cửa của năng lượng Hrôcacbon.
- Vào năm 1993, Việt Nam trên đà phát triển và quyết
đònh đưa khí thiên nhiên vào sử dụng cho mục đích công nghiệp và bước vào
con đường dầu khí của thế giới.
- Từ năm 1993, khí đồng hành được đưa từ mỏ Bạch
Hổ với khối lượng 700 triệu m
3
, tương đương với 700.000 tấn dầu, trò giá 160
triệu USD (228USD/tấn).

Khóa luận tốt nghiệp Trang 3
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
- Đến tháng 1/1998 đưa vào 3 triệu m

3
/ngày.
- Cuối năm 1998 với nhà máy sửù dụng đến 700 triệu
m
3
/năm.
- Cho đến nay, trữ lượng khí cụ thể là: 1.336 tỉ m
3
, chia
ra:
+ 364 tỉ m
3
ở Bồn Sông Hồng.
+ 89 tỉ m
3
ở Bồn Cửu Long.
+ 254 tỉ m
3
ở Bồn Nam Côn Sơn.
+ 100 tỉ m
3
ở Bồn Malaysia – Thổ Chu.
+ 529 tỉ m
3
ở các Bồn nhỏ khác.
(trữ lượng tính theo khí tương đương với dầu mỏ 1.000 m
3
khí = 1 tấn
dầu).
Theo đánh giá của các nhà Dầu khí thì trữ lượng khí ở các bể được coi

là tiềm năng khí lớn nhất , đang trong giai đoạn khai thác gồm: bể Nam
C ôn Sơn, bể Cửu Long, bể Mã Lai-Thổ Chu và bể Sông Hồng vì hầu hết
các mỏ khí đều phát hiện ở các bể này, do đó, các hoạt động thăm dò,
khai thác được chú trọng nhiều.

Khóa luận tốt nghiệp Trang 4
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
Chương II:
CƠ SỞ KHOA HỌC CHO CHIẾN LƯC
KHÍ THIÊN NHIÊN
I. Nguồn gốc hữu cơ của khí thiên nhiên:
1) Chứng tích động thực vật tạo nguồn hữu cơ của dầu khí:
Dấu vết động thực vật còn lưu lại trong dầu mỏ đã được khám phá
từ thập kỷ 30. Trong đá trầm tích cổ có chất alkan n.C
15
H
12
là một sản
của acid béo trong rong n. C
16
. Các loại sáp ( ao hồ) thực vật dạng
alkan n.C
29
H
60
cũng lưu lại trong chất trầm tích ở nguyên dạng này.
Độâng vật đa bào, đơn bào trong nước ao hồ là nguồn gốc hữu cơ của
dầu, ngoài ra động vật tạo chất hữu cơ còn có phần lớn là có nguồn gốc
biển, đều có khả năng sinh khối cung ứng cho các bồn dầu tương lai.
Khí thiên nhiên có nguồn gốc hữu cơ như dầu mỏ. Khác với dầu

được hình thành từ vật liệu hữu cơ (VLHC) là sapsopelic. Vật liệu hữu
cơ humic phần lớn gồm cacbonhydrat – lignin với một ít protein, tương
đối giàu Nitơ nhưng thiếu Hydrô (5% hoặc ít hơn). Nó được sinh ra từ
các vật liệu cạn và vì vậy cộng sinh với trầm tích lục đòa; nó được xác
đònh một cách dễ dàng bằng các phương pháp quang học. Sự biến đổi
nhiệt sinh ra các axít humic, có thể hòa tan trong các chất kiềm, ít

Khóa luận tốt nghiệp Trang 5
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
hydrô và giàu ôxy (trong nhóm Carboxyl). Lượng chất lỏng, các sản
phẩm dễ bay hơi rất thấp, bò thay thế bởi CO
2
và H
2
O.
Vì thế, VCHC humic là thiên về khí ( gas – prone). Sự cacbon hoá
của nó, vì do sự tăng, mức độ biến chất của than, sinh ra mêtan mà hầu
như không có các phần tử lỏng nhẹ. Lượng mêtan được sinh ra từ 68
kg/tấn đối với than bùn hoặc than lignit tới 133kg/tấn đối với than cứng.
Chỉ một tỷ lệ nhỏ khí này tích tụ trong các trầm tích dễ khai thác. Phần
còn lại bò hấp thu hoặc hút giữ trong chính các vỉa than, bò hoà tan trong
nước dưới đất, hoặc bò mất vào khí quyển.
Có một vài ngoại lệ, có nguồn gốc tổng hợp vô cơ có thể xảy ra nơi
hiện tượng núi lửa. Ở mặt trăng và sao hoả, có loại mêtan hoàn toàn vô
cơ. Ở trên trái đất , khí thiên nhiên, dù có nguồn gốc hữu cơ vẫn được
xem là vô cơ vì nó mang tính cracking phần tử hữu cơ của dầu mỏ,
không có sự tham gia của sinh vật, mà chỉ có sự tham gia của khoáng
chất như đất sét (montmorillonite) hoặc các cao phân tử khoáng vật
khác.
2) Sự chuyển hoá từ hữu cơ đến Hrôcacbon (HC):

Sự chuyển hoá từ chất hữu cơ sang HC là một chu trình thoái hóa.
Nó đòi hỏi một môi trường thích hợp gồm rất nhiều nhóm các yếu tố lý
–hoá và thời gian, chứ không phải một quá trình đơn giản. Sự hiện diện
HC sau một thời gian vùi lấp không chứng tỏ được sự tích tụ chất hữu
cơ ban đầu.
Chất hữu cơ gồm xác của động thực vật, tồn tại dưới dạng ba nhóm
đạm, đường, chất béo. Trong trạng thái thoái hóa do vi sinh vật hiếu
khí, các nhóm đều cháy và tạo ra khí CO
2
và H
2
O, khoáng chất đi kèm
ở dạng vi lượng thì khoáng hóa ( xương cốt).

Khóa luận tốt nghiệp Trang 6
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
Trong trạng thái thoái hóa do vi sinh vật kỵ khí, từ 100% lượng hữu
cơ ban đầu, qua cơ chế huỷ polyme, còn 4% chuyển thành acid amin và
đường giản đơn, có 0,1% chuyển thành acid fluvic và acid humic, gọi
chung là mùn.
+ Chất mùn này có thể được tập hợp thành khối, từ đó sẽ được nén
dẽ trở thành carbon, ở dạng than bùn.
+ Than bùn chứa bên trong một lượng nhỏ khoáng chất và một ít khí
ở dang CH
4
, gọi là khí hữu cơ hay dạng CH
4
trong khí thiên nhiên , gọi
là khí vô cơ
+ Chất mùn nếu được trộn lẫn với trầm tích mòn hạt, như bùn và sét,

hay chất vôi, dưới tác động của vi sinh chuyển thành kerogen.
Ở độ sâu 2000m _3000m sự thoái hóa nhiệt sinh dầu xảy ra tốt nhất.
Nếu sự thoái hóa này tiếp tục ở các giai đoạn vùi lấp, thì dầu mỏ sẽ trở
thành khí thiên nhiên từng phần (khí đồng hành) hay toàn bộ (khí đơn
độc) do một cơ chế cracking.
Nhìn chung, trong quá trình chuyển hóa, độ vùi lấp và sự hiện diện
các luồng nhiệt là hai yếu tố quyết đònh nhất để có thể nhận biết được
giai đoạn vùi lấp nào tạo dầu mỏ, tạo khí và than chì (do các mỏ dầu
khí bò biến chất chuyển hoàn toàn thành carbon).
II. Môi trường tạo khí:
1)Khí đồng hành: Khí cháy (combustible) là khí có khả năng hòa
hợp với Oxy để tạo năng lượng (ánh sáng, sức nóng), khác với khí trơ
là khí không có phần tử cháy.
Khí thiên nhiên có trong các mỏ khí có thành phần chủ yếu là
Mêtan (chiếm gần 95%) được gọi là khí đồng hành. Thông thường
trong một mỏ dầu, dưới cùng là nước mặn (có nguồn gốc là nước biển
nguyên thủy). Tùy theo điều kiện của mỏ, có nơi trữ lượng khí đồng

Khóa luận tốt nghiệp Trang 7
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
hành cao hơn dầu và cũng có nơi lượng khí không đáng kể do đó có thể
bò đốt đi. Tại mỏ Bạch Hổ, ta có khí đồng hành đi chung với dầu.
Khí đồng hành được hiểu như là khí xuất phát từ dầu mỏ bò chưng
cất khi môi trường gia tăng về áp xuất và nhiệt (dòng nhiệt của vỏ trái
đất) tùy thuộc vào những hoạt động kiến tạo hay vận tốc lún đáy.
Các điều kiện, nhiệt độ, áp suất và độ sâu ảnh hưởng rất lớn đến
quá trình phân hủy của dầu. Do vậy, dầu không thể hoàn toàn chuyển
sang khí được nên luôn có sự đồng hành với nhau. Yếu tố môi trường
mang tính quyết đònh trong việc chuyển đổi dạng thể của Hrôcacbon.
Nếu có sự bất lợi hơn nữa thì khí thiên nhiên hay gọi là khí đồng hành

sẽ chuyển sang than chì (Graphit).
2)Khí đơn độc: là khí tồn tại trong những bẫy mà có sự vắng mặt
của dầu, chỉ có duy nhất khí mà thôi.
Mỏ khí thiên nhiên có trữ lượng rất lớn và quan trọng trong các giai
đoạn phát triển tới năm 2007 là 2 mỏ Lan Tây – Lan Đỏ. Chứa khí đơn
độc nằm ngoài khơi Côn Đảo.
Nguồn gốc khí đơn độc thường do môi trường tạo thành: áp suất cao,
nhiệt lưu cao, nguồn hữu cơ do thực vật và động vật đất liền lấn áp.
Một nguồn gốc khác là sự chưng cất tự nhiên của các vỉa than cổ hơn,
nằm bên dưới đáy, đó là khí than đá tự nhiên. Mỏ khí gần bờ biển Thái
Bình ở Vònh Bắc Bộ thuộc loại này. Người ta biết được nó nhờ vào tỉ lệ
CO
2
cao lẫn vào.
Khí đơn độc có ở những nơi có hoạt động kiến tạo mạnh mẽ, kết
hợp với sức nặng của hàng loạt trầm tích ào ạt đổ dồn về. Sự tách dãn
đáy biển Đông thành một đáy đại dương ở tại Hoàng Sa và Trường Sa,
chính là nguyên nhân để tạo khí đồng hành với khí đơn độc (khí khô).

Khóa luận tốt nghiệp Trang 8
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
3)Khí than đá: là khí có nguồn gốc nhân tạo, than đá được khai
thác, tạo ra khí đất hay khí thấp. Một nguồn gốc nhân tạo khác là bơm
khí trở xuống vỉa than và hứng CH
4
bốc lên, theo công nghệ hiện đại
được thực hiện rất nhiều nơi trên thế giới (Bắc Mỹ, Châu Âu, Đông
Nam Á) giúp cho việc tận thu năng lượng nằm sâu dưới đất, không khai
thác được theo kiểu cổ điển.
Hình 1: Từ chất hữu cơ ra các loại khí, dầu mỏ và than đá

III. Di trú và tích tụ:
Từ nơi đá sinh dầu đến đá chứa dầu, sự di trú và tích tụ đòi hỏi
những yếu tố môi trường rất phức tạp trong một khoảng không gian bốn
chiều mà các công nghệ mới đang gia công giải quyết. Sự tích tụ đòi
hỏi những yếu tố di trú và những yếu tố đặc biệt, trong đó có cấu trúc
phù hợp của bẫy, đồng thời có cả sự hiện diện của các lớp chắn ở bốn
phía, ở đỉnh và ở đáy.

Khóa luận tốt nghiệp Trang 9
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
Trong những năm gần đây, trong quá trình khai thác , người ta thấy
một kiểu di trú bất lợi của khí. Khi dầu và khí rời bẫy đi vào giếng, thì
nước mặn chen vào các lỗ rổng trong đá, đôi khi chận đường vào của
khí, khiến cho giếng bò mất áp, khí không lên được. Trong trường hợp
này tỉ lệ khí thu hồi có thể bò giảm đi từ 10 % đến 20%, gây một thất
thoát lớn, làm sai lệch hẳn về dự kiến trữ lượng của mỏ.
Ngày nay, công nghệ sử dụng các mũi khoan ngoằn nghèo có thể tìm
thấy những túi khí nhỏ hơn chưa liên kết vối các túi khí chính ( túi khí
chính bò cô lập). Một công nghệ có ống khoan chẽ nhánh sẽ tách ngay
trong lòng đất giữa khí với dầu , khí với nước mặn, dầu với nước mặn,
để bơm ngược nước mặn xuống đáy bẫy.
IV. Chiến lược khí thích hợp:
Công nghiệp dầu khí là một ngành công nghiệp nặng của ngành
năng lượng, do đó đòi hỏi phải có sự đầu tư vô cùng lớn về kinh tế,
chính trò của cả một nước. Những rủi ro không lường trước được nhưng
bù lại đầu ra của ngành công nghiệp này tương đối lớn, ảnh hưởng đến
sự thay đổi bề mặt của một đất nước. Thiết bò công nghệ hiện đại, một
đội ngũ sản xuất và quản lý chuyên nghiệp đầy kinh nghiệm và trí tuệ
tất cả đều quan trọng.
Ở nước ta hiện nay, năng lượng có nguồn gốc hrôcacbon chiếm

phần quan trọng nhất tới 50% GDP. Góp phần nâng đến 0,5% GDP của
cả nước. Trong khi trữ lượng dầu của nước ta ngày càng vơi dần và
được thay thế bằng năng lượng khí thiên nhiên. Ta phải có quyết đònh
đưa ra những giải pháp hay những chiến lược thích hợp để đưa khí thiên
nhiên vào trong đời sống, thay thế cho nguồn Hrôcacbon lỏng đang
ngày càng cạn kiệt. Khí thiên nhiên được đưa vào chậm hơn nhưng sẽ

Khóa luận tốt nghiệp Trang 10
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
phục vụ suốt thế kỷ 21. Vì vậy, đây là nguồn năng lượng mang tính lâu
dài. Hiện nay, chúng ta có đủ 3 loại khí thiên nhiên trong lòng đất:
- Khí đồng hành (trữ lượng nhiều hơn dầu), hiện đang
được khai thác trong công cuộc tìm kiếm, thăm dò dầu.
- Khí đơn độc, đang có hướng đi sẽ khai thác trong vài
năm tới với kỹ thuật công nghệ hiện đại
- Khí than đá, còn đang nghiên cứu và triển khai từ các
mỏ than đá ớ Vònh Bắc Bộ và Trung Bộ, vò trí thăm dò nằm sâu trong
lòng đất khó có thể khai thác bằng kỹ thuật thô sơ như hiện nay.
Hiện nay, cả 3 loại khí đựơc đưa vào khai thác, nhưng chỉ kinh tế
khi vận chuyển chúng dưới dạng khí mà thôi. Khi chuyển sang thể
dạng lỏng, đường dẫn đòi hỏi sự đầu tư gấp 4 lần mục đầu tư dẫn dầu.
Vì vậy, cần sử dụng công nghệ mới để chuyển khí thành Methanol, từ
Methanol sẽ tinh luyện ra xăng, dầu D.O sáp và nhiều hoá chất khác,…
Một số trọng điểm cơ bản trong chiến lược năng lượng khí:
- Mở rộng mạng lưới thu khí đồng hành từ mỏ Bạch
Hổ sang mỏ Rồng, Rạng Đông, Đại Hùng.
- Mở rộng mạng lưới thu khí thiên nhiên của mỏ Lan
Tây, Lan Đỏ và các mở khí lân cận.
- Mở rộng mạng lưới thu khí thiên nhiên xung quanh
Tiền Hải.

- Mở rộng mạng lưới thu khí thiên nhiên ở khu Thổ
Chu.
- Mở rộng mạng lưới thu khí thiên nhiên có lẫn CO
2
nơi thềm lục đòa trãi dài Quảng Ngãi đến Thanh Hoá.
- Mở rộng mạng lưới thu khí Mêtal than đá từ Quảng
Nam đến Hòn Gai.

Khóa luận tốt nghiệp Trang 11
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
V. Tiềm năng khí ở Việt Nam hiện nay:
Như đã đề cập từ trước, trữ lượng khí thiên nhiên ở VN rất lớn so
với lượng dầu mỏ. Có thể đưa ra một số liệu cơ bản là 1.336 tỉ m
3
.Tuy
nhiên , mức độ thăm dò ở một số bể chưa có sự đồng đều nên gây khó
khăn cho việc xác đinh chính xác trữ lượng khí thực tế. Khí thiên nhiên
được đánh giá là tiềm năng thứ nhất, sau là dầu trong giai đoạn phát
triển kinh tế nước ta trong tương lai.
Bồn Cửu Long, bồn Sông Hồng , bồn Nam Côn Sơn và bồn
Malaysia_Thổ Chu tiềm năng khí được đánh giá là cao nhất. Vì thế,
hầu hết khí thiên nhiên trong các bể này đều được phát hiện , khai thác
và đưa vào sử dụng một cách triệt để.
Một số thống kê cơ bản của các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá trữ
lượng dầu khí ở VN như sau :

Khóa luận tốt nghiệp Trang 12
Bể trầm tích
Khí thiên nhiên Khí đồng hành
Thấp T.Bình Cao Thấp T.Bình Cao

1.
Nam Côn Sơn
400 500 610 20 25 25
2.
Cửu Long
85 100 120
3.
Sông Hồng
i. Bắc
ii. Trung
iii. Nam
30
130
110
35
200
160
80
280
210 0 05 15
4.
Mã Lai_Thổ
Chu
30 60 90 5 10 15
5.
Các khu vực
khác
0 160 370 0 20 50
Cộng
900 1130 1400 110 160 190

Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận
Bảng 1: Đánh giá trữ lượng dầu khí ở thềm lục đòa Việt
Nam
Kết quả thăm dò trong những năm qua cho phép đánh giá tiềm năng dầu
khí như sau :
Bảng 2: Đánh giá tiềm năng dầu khí ở Việt Nam

Khóa luận tốt nghiệp Trang 13
Các mỏ khí đã phát
hiện
Các mỏ khí sẽ phát
hiện
Tổng cộng
Thấp T.Bình Cao Thấp T.Bình Cao Thấp T.Bình Cao
Khí đồng hành
(tỷ m
3
)
50 71 100 60 90 120 110 161 220
Khí thiên nhiên
(tỷ m
3
)
270 397 520 530 750 1020 800 1175 1540
Khí Condensat
(tỷ m
3
)
25 41 50 110 160 210 135 200 260
Svth: Ngô Thanh Lam Gvhd: Ths. Bùi Thò Luận

Tiềm năng sinh khí ở các bể đã được phát hiện được xác đinh như sau :
Bảng 3: Tiềm năng sinh khí ơ ûcác bể đã phát hiện
Việc đốt bỏ khí đồng hành trong quá trình khai thác dầu mỏ trong
những năm trước đây và việc đưa khí đồng hành vào công nghiệp năng
lượng của những năm từ sau 1975 đến nay, đã cho thấy VN khẳng đònh
khả năng sử dụng triệt để nguồn tài nguyên có sẳn của mình , tự khẳng
đònh mình trong công cuộc hiện đại hoá công nghệ năng lượng đất
nước.
Việt Nam còn có rất nhiều mỏ chưa được khai thác, điều này còn
tuỳ thuộc vào nguồn khí tiêu thụ trong nước và không loại trừ việc xuất
khẩu nước ngoài nếu điều kiện cho phép. Sản lượng khai thác dầu ngày
càng tăng kéo theo sản lượng khí đồng hành ngày càng nhiều. Khí
thiên nhiên hiện nay là một nguồn năng lượng mang tầm chiến lược
trên mọi lónh vực.


Khóa luận tốt nghiệp Trang 14
Các bồn trầm tích Đã phát hiện (tỷ m
3
) Tổng cộng (tỷ m
3
)
Sông Hồng 268 364
Cửu long 56 89
Nam Côn Sơn 174 254
Mã Lai – Thổ Chu 30 100
Các bồn khác ? 529

×