a. Mở đầu.
C.Mác đã từng nói: Lĩnh vực tiền tệ là vô cùng bí hiểm. Nó biến động
phức tạp, liên tục và khác nhau tuỳ theo đặc điểm, tính chất của các đối tợng
mà nó tác động. Các đối tợng nói đến chính là các quốc gia, và những biến
động của tiền tệ không chỉ tác động đến các yếu tố liên quan trực tiếp với nó
mà nó ảnh hởng tới hầu nh tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội của một quốc gia. Do đó, chính sách tiền tệ chính sách ổn định tiền
tệ, là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của mọi quốc
gia. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trờng, chính sách tiền tệ đợc coi là linh
hồn của toàn bộ các hoạt động của ngân hàng trung ơng. Lịch sử phát triển
của nền kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng: để có một chính sách tiền tệ khôn
ngoan, phù hợp với từng thời kì luôn là một bài toán khó. Chính vì vậy, việc
hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ luôn đòi hỏi trí tuệ và thận trọng.
Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng thời kỳ để đa ra đợc những quyết định
chính xác, phù hợp nhất nhằm đạt đợc mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ.
Với Việt Nam, trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi, vận hành theo
cơ chế thị trờng có sự quản lý, điều tiết của nhà nớc thì việc hoạch định và cơ
chế điều hành một chính sách tiền tệ phù hợp luôn là vấn đề bức xúc cả trong
lý luận và thực tiễn.
Do đó, nghiên cứu về chính sách tiền tệ từ lý luận chung đến chính sách
tiền tệ ở Việt Nam là cần thiết không chỉ đối với các nhà hoạch định, nhà lãnh
đạo, các chủ thể kinh tế mà cho tất cả các đối tợng, trong đó sinh viên- thế hệ
tơng lai của đất nớc, là thật sự cần thiết và quan trọng.
1
B. Nội dung
I. Lý luận chung.
1. Tiền tệ.
1.1. Tiền tệ - sự hình thành và quá trình phát triển.
1.1.1. Tiền là gì?
Đây là câu hỏi đầu tiên chúng ta cần phải hiểu một cách chính xác, có nh
thế mới hiểu đợc những tác dụng của tiền đối với nền kinh tế. Bằng cách xem
xét các chức năng của tiền tệ, và quá trình phát triển của nó, chúng ta có thể
định nghĩa tơng đối chính xác, và xem xét vì sao và bằng cách nào chúng thúc
đẩy tính hiệu quả nền kinh tế.
Tiền đợc dùng trong ngôn ngữ thông thờng hàng ngày để chỉ những
đồng tiền nhìn thấy, nhng đối với các nhà kinh tế thì nó không đơn thuần nh
vậy mà nó có định nghĩa riêng và rộng lớn hơn nhiều.
Các nhà kinh tế định nghĩa tiền(hoặc lợng tiền cung ứng) là bất cứ cái gì đ-
ợc chấp chung trong việc thanh toán cho hàng hoá hoặc dịch vụ hoặc trong việc
hoàn trả các khoản nợ. Còn tiền trong ngôn ngữ thờng ngày đơc sử dụng một
cách tự nhiên đó là đồng tiền. Đồng tiền là những tờ tiền giấy hay tiền kim loại,
mỗi một quốc gia có một đồng tiền riêng. Nh vậy, đồng tiền chỉ là một phần
trong tiền.
Ngoài ra, đôi lúc tiền còn đợc sử dụng một cách đồng nghĩa với của cải.
Trong khi, của cải bao gồm không chỉ là tiền mà còn cả những gì là đối tợng để
sở hữu, đợc gọi là tài sản có: trái khoán, cổ phiếu, tác phẩm nghệ thuật, đất, nhà
cửa, đồ đạc,
Nh vậy, cần phải hiểu chính xác rằng tiền là tất cả những gì đợc chấp nhận
chung trong việc thanh toán cho việc mua, bán hành hoá, dịch vụ và thanh toán
các khoản nợ.
1.1.2. Khái quát về sự phát triển của tiền tệ.
Tiền tệ đã ra đời từ thời đại xa xa khi có đại phân công xã hội lần thứ hai
(thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp) và ngày càng phổ biến từ khi thơng
nghiệp xuất hiện. Đầu tiên, tiền là những thỏi vàng, thỏi bạc có khối lợng và
hình dạng khác nhau. Khi thanh toán, cần phải cân, do đó gọi là tiền cân. Về
sau, các nhà buôn tự đúc tiền, trên đó ghi trọng lợng, tỷ lệ vàng, bạc và cả tên
ngời đúc, làm giảm đợc sự phức tạp trong thanh toán. Ngời bán khi nhân tiền
không cần phải kiểm tra trọng lợng và tỷ lệ vàng, bạc mà chỉ cần đếm, do đó đ-
ợc gội là tiền đếm. Sau đó, các vua chúa thấy lợi lộc của việc đúc tiền nên đã
cấm dân chúng tự đúc tiền mà chỉ có nhà nớc mới đợc phép đúc tiền.
Đến khi Chủ nghĩa t bản ra đời, chế độ tiền cũ bị xoá bỏ và chế độ mới ra
đời nhằm có lợi cho chủ nghĩa t bản. Trong đó, tiền đợc quy định về: loại kim
loại đợc đúc; tên gọi và giá cả của tiền; tổ chức phát hành, lu thông tiền đúc; tổ
2
chức và lu thông dấu hiệu tiền tệ đợc đổi thành vàng. Và chế độ tiền tệ T bản
chủ nghĩa trải qua nhiều chế độ bản vị khác nhau:
+ Chế độ bản vị bạc: là chế độ lu thông tiền tệ lấy bạc làm thớc đo giá trị
và tiêu chuẩn giá cả của tiền tệ.
+ Chế độ song bản vị: là chế độ lu thông tiền tệ vừa lấy bạc vừa lấy vàng
làm thớc đo giá trị và tiêu chuẩn giá cả. Chế độ này tồn tại từ thế kỷ 17 đến thế
kỷ19. Do sự phát triển nhanh chóng của sản xuất và lu thông hàng hoá, tỷ giá
vàng bạc thay đổi nhanh chóng trên thị trờng, khiến cho việc tính toán giá cả,
chi trả tiền hàng rối loạn, tiền bạc thay thế dần tiền vàng theo quy luật tiền xấu
đuổi tiền tốt ra khỏi lu thông, tiền vàng lui về làm phơng tiện cất giữ. Chế độ
này không ổn định nên nhanh chóng sụp đổ.
+ Chế độ bản vị vàng: là chế độ lu thông tiền tệ lấy vàng làm thớc đo giá
trị và tiêu chuẩn giá cả. Nó ra đời từ thế kỷ 18 ở Anh, nhng phải đến thế kỷ 19
thì các nớc Châu Âu và Bắc Mỹ mới chuyển từ chế độ bản vị bạc sang chế độ
bản vị vàng. Chế độ này có những đặc điểm sau: mọi ngời đợc tự do đúc tiền
theo tiêu chuẩn giá cả của Nhà nớc quy định; tiền giấy đợc tự do chuyển đổi
thành tiền vàng; vàng đợc tự do lu thông giữa các nớc. Do đó, chế độ bản vị
vàng vừa là chế độ tiền tệ quốc gia, vừa là chế độ tiền tệ quốc tế làm thúc đẩy
phát triển quan hệ thơng mại và tín dụng quốc tế. Nhng sau đó, thế chiến thế
giới lần thứ nhất, các nớc chuẩn bị chiến tranh đều không đổi tiền giấy sang
vàng và thực tế chế độ bảo hộ mậu dịch khiến cho chế độ bản vị vàng sụp đổ.
+ Chế độ bản vị vàng thoi: xuất hiện ở Anh, khi nớc Anh đnag bị kiệt quệ
do thất bại sau đại chiến thế giới, nhng đồng Bảng(GBP) vẫn đợc coi là đồng
tiền mạnh. Nớc Anh muốn củng cố vị trí đồng Bảng chuyển đổi thành vàng, đã
cho đúc loại vàng thoi nặng 400 ounce(12kg),4416 vàng(31,1035 x 400) thay
thế đồng Bảng nặng 7,31gr vàng. Các nớc buôn bán với nớc Anh lấy đồng
Bảng ở Anh rồi đổi lấy vàng thoi. London là trung tâm tài chính lớn nhất thế
giới trở thành thị trờng vàng và ngoại hối mạnh lúc bấy giờ. Do đó các nớc đua
nhau săn vàng làm cho dự trữ vàng của Anh giảm nhanh chóng và chế độ vàng
thoi cũng cáo chung.
+ Chế độ bản vị Đô la Mỹ(1944-1971)
Đại chiến thế giới lần thứ hai khiến cả thế giới kiệt quệ, chỉ có Mỹ là giàu
lên nhanh chóng. Mỹ triệu tập Hội nghị Tài Chính, tiền tệ quốc tế ở Betton-
Woods và đa ra quyết định:
+ Thành lập IMF và WB
+ Hạn chế và tiến tới xoá bỏ quản chế ngoại hối để tiền tệ các nớc chuyển
đổi ra vàng
+ Khôi phục lại chế độ bản vị vàng hối đoái, lấy USD làm phơng tiện
thanh toán quốc tế
+ Quy định giá vàng là 35 USD =1 ounce. Tiêu chuẩn giá cả mỗi USD=
31,1035gr/35=0,888671gr vàng
Mỹ cam kết định giá vàng trên thế giới.
Từ đó đồng USD ngự trị thế giới. Nhng nền kinh tế Mỹ suy yếu tơng đối
so với các nớc khác nên cán cân thanh toán thờng xuyên bị thâm hụt, nợ nớc
3
ngoài ngày càng tăng, chi ngân sách quy mô lớn, dự trữ vàng gảim mạnh. Sau
đó Mỹ tuyên bố USD không đổi lấy vàng nữa. Chế độ bản vị bản vị USD sụp
đổ.
+ Chế độ tiền tệ thả nổi: sau khi chế độ bản vị USD sụp đổ, các Bộ trởng
tài chính đã họp và tuyên bố chế độ tiền tệ thế giới là chế độ tiền tệ thả nổi: tiền
tệ các nớc không còn gắn với vàng hay USD nữa, các nớc để cho đồng tiền của
mình tự do lên giá, xuống giá đến một chừng mực nào đó mới can thiệp. Chế độ
thả nổi gồm: thả nổi tập thể và thả nổi riêng rẽ.
- Thả nổi tập thể gồm 8 nớc: Châu Âu, Đức, Pháp,Bỉ, Hà Lan, Lux
xam-bua, Đan Mạch, Nauy, Thuỵ Điển. Các nớc này cam kết chỉ thả nổi đồng
tiền có giới hạn, khi một đồng tiền trong 8 nớc bị sụt giá hay lên giá vợt một
mức độ nhất định, thì các nớc cùng tham gia can thiệp ổn định đồng tiền ấy.
Ngời ta gọi hiện tợng đó là con rắn Châu Âu.
- Thả nổi riêng rẽ gồm đồng tiền các nớc Mỹ, Anh, Thuỵ Sĩ, Nhật, Ai
rơ-len.
Tuy nhiên ngày nay cùng với xu hớng hội nhập kinh tế thế giới, một sự
thay đổi của đồng tiền nớc này luôn ảnh hởng đến tình hình nớc khác và toàn
thế giới, do đó luôn có sự can thiệp của các nớc để điều chỉnh.
1.1.3. Tiền tệ ngày nay
Ngày nay, vàng không đợc dùng làm tiền tệ mà trở lại vị trí ban đầu của nó
là hàng hóa quý hiếm có giá trị cao nh ngọc, đá quý, thời đại tiền là vật có giá
trị đã qua nhờng chỗ cho tiền là vật không có giá trị thay thế cho vàng làm ph-
ơng tiện thanh toán và phơng tiện lu thông.
a. Tiền giấy:
Tiền giấy xuất hiện do đòi hỏi của quá trình lu thông và chi trả khi sản
xuất và lu thông hàng hoá ngày càng phát triển, trao đổi hàng hoá và thanh toán
các khoản phải chi trả tăng lên với quy mô lớn mà không một khối lợng tiền bạc
nào đáp ứng đợc. Do đó tiền giấy ra đời để thay thế tiền vàng trong lu thông, và
tiền giấy chỉ là dấu hiệu của giá trị, dấu hiệu của vàng. Tiền giấy bản thân nó
không có giá trị, nhờ lu thông đợc nó mới có giá trị. Giá trị tiền giấy chính là
giá trị của vàng mà nó phản ánh đại diện. Nh vậy, tiền giấy làm dấu hiệu giá trị
thông thông qua giá cả của hàng hoá để thể hiện. Dấu hiệu giá trị mà tiền giấy
đại diện chính là giá trị của tổng số tiền vàng(bạc) thực sự cần thiết cho lu
thông trong một thời kỳ nhất định. Còn giá trị của mỗi đơn vị tiền giấy đại diện
bằng giá trị của tổng số tiềnn vàng thực sự cần thiết cho lu thông chia cho số l-
ợng tiền giấy thực tế đang lu thông.
Tiền giấy chỉ có hai chức năng: phơng tiện lu thông, phơng tiện thanh
toán, nó không có chức năng thớc đo giá trị và tiền tệ thế giới.
Tiền giấy lu thông theo quy luật: việc phát hành tiền giấy phải cân đối với
số lợng tiền vàng đợc tiền giấy đó đại diện mà đáng lẽ số lợng tiền vàng phải đa
vào lu thông. Nếu phát hành tiền giấy vợt quá số lợng tiền vàng cần thiết cho lu
thông thì giá trị mỗi đơn vị tiền giấy đại diện sẽ sụt giảm theo cùng tỷ lệ tăng
lên của tiền giấy.
4
Tiền giấy có ý nghĩa: là giấy nhận nợ của nhà nớc đối với ngời nắm giữ
nó; nó đợc chấp nhận rộng rãi để thanh toán trong mọi giao dịch kinh tế.
Bản chất của tiền giấy không phải là một thứ hàng hoá, một vật có giá trị,
nhng lại có giá trị sử dụng đặc biệt, đợc coi là dấu hiệu của vàng, là tài sản đặc
biệt có thể trao đổi lấy các tài sản khác hoặc để dành cho tiêu dùng trong trong
tơng lai.
b. Tiền qua ngân hàng:
Các quốc gia khác tiền giấy đợc Ngân hàng trung ơng độc quyền phát
hành đa vào lu thông. Sự phát triển ngày càng cao của kinh tế thị trờng, tiền
giấy ngày càng trở thành cồng kềnh và bị hạn chế trong thanh toán, xuất hiện
các công cụ làm chức năng thanh toán( thẻ tín dụng, séc, ) đ ợc gọi là tiền qua
ngân hàng.
Các công cụ lu thông tín dụng, xét về bản chất không có giá trị, mà nó
cũng chỉ là dấu hiệu của giá trị, dấu hiệu của vàng.
Cùng với sự phát triển cao của kĩ thuật công nghệ, thanh toán đợc điện tử
hoá, mọi hoạt động thanh đều thông qua các phơng tiện điện tử: điện báo, viba,
vệ tinh truyền đạt, nhanh chóng, tiện lợi và hầu nh không có sự sai sót nào.
Tuy nhiên điện tử hoá và phi tiền tệ hoá cũng có những rủi ro nguy hiểm.
Về phía quản lý kinh tế vĩ mô, không tính toán hết đợc mọi rủi ro, do các khoản
tiền khổng lồ chuyển qua hệ thống điện tử, mỗi sai sót nhỏ sẽ làm mất đi hàng
tỷ đồng. Đồng tiền không thấy dễ gây ảo giác. Chính phủ một quốc gia có thể
làm mất hết tải sản nếu mã số Nhà nớc bị ăn cắp. Do đó, chơng trình toàn cầu
hoá về tiền tệ điện tử tuy tiện lợi và hấp dẫn nhng vẫn trong quá trình nghiên
cứu và bảo mật.
Tiền vàng đi vào dĩ vãng, tiền giấy đang dần đợc thay thế bởi tiền điện tử
và tiền của thời đại sắp tới. Nền văn minh công nghiệp và điện tử không chỉ
sáng tạo ra các loại tiền tệ và phơng tiện thanh toán, nó còn sáng tạo ra các loại
chuẩn tệ: trái phiếu, kỳ phiếu, hối phiếu, cổ phiếu, những thứ này là những ph -
ơng tiện thay thế cho tiền trong các giao dịch trong thơng mại, tín dụng, thu hút
vốn đầu t trong mỗi nớc và giữa các nớc, giảm bớt đợc nhu cầu tiền mặt trong lu
thông.
1.2. Chức năng của tiền tệ
Tiền tệ là sản phẩm của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá, bản chất
của tiền đợc thể hiện đầy đủ trong các chức năng của nó:
1.2.2. Thớc đo giá trị.
Khi làm thớc đo giá trị của các loại hàng hoá, tiền tệ dùng giá trị của nó để
đo giá trị của vật khác. Giá trị của tiền chính là giá trị của một lợng vàng
nguyên chất nhất định làm đơn vị tiền tệ. Đơn vị tiền tệ gồm tên và tiêu chuẩn
giá trị của tiền, ví dụ: USD(Mỹ), Đồng Bảng(Anh), FFR(Pháp), VNĐ( Việt
Nam),
Tiêu chuẩn giá cả của tiền là một lợng vàng nguyên chất nhất định do nhà
nớc quy định làm đơn vị tiền tệ, để làm thớc đo giá trị cho moị hàng hóa. Ví dụ:
1USD=0,888671gr vàng, 1FFR=0,0655gr vàng,
5
Khi đo lờng giá trị hàng hoá không cần đến tiền mặt, ngời ta chỉ dùng trí t-
ởng tợng để so sánh giá trị của tiêu chuẩn giá cả với giá trị của hàng hoá để xác
định giá cả hàng hoá bằng bao nhiêu tiền.
Giá trị hàng hoá đợc biểu hiện bằng một lợng tiền nhất định gọi là giá cả
hàng hoá. Giá cả hàng hoá là là giá trị hàng hoá đợc biểu hiện bằng một lợng
tiền nhất định. Giá cả hàng hoá là kết quả của việc dùng giá trị tiền tệ để đo l-
ờng giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá biến đổi xoay quanh giá trị hàng hóa theo
tỷ lệ thuận với sự biến đổi của giá trị hàng hoá và tỷ lệ nghịch với sự biến đổi
của giá trị tiền tệ. Ngoài ra, giá cả hàng hoá còn biến đổi theo những biến động
tự phát trên thị trờng hàng hoá, thị trờng tiền tệ làm cho quan hệ cung cầu hàng
hoá và cung cầu tiền tệ không cân bằng dẫn đến việc tăng hay giảm giá cả hàng
hoá trên thị trờng.
Khi tiền làm thớc đo giá trị đã xuất hiện khả năng trao đổi hàng hoá, nhng
cha thực hiện đợc việc trao đổi hàng hoá. Giá trị hàng hoá chỉ thực hiện đợc
trong chức năng thứ hai của tiền tệ: chức năng phơng tiện lu thông.
1.2.2. Phơng tiện lu thông.
Giá cả của hàng hoá đợc xác định trớc khi diễn ra lu thông tiền tệ. Chỉ sau
khi hàng hoá đợc biểu hiện bằng tiền mặt của ngời mua trao cho ngời bán thì
hàng hoá mới từ tay ngời bán sang ngời mua, lúc đó mới hoàn thành chức năng
phơng tiện lu thông( phơng tiện trao đổi) và mới thực hiện đầy đủ chức năng vai
trò vật ngang giá chung. Việc trao đổi chỉ xảy ra và đợc thực hiện sau khi tiền tệ
đã hoàn thành cùng một thời điểm hai chức năng: thớc đo giá trị và phơng tiện
lu thông.
Trong lu thông, hàng hoá và tiền tệ có vai trò khác nhau: mỗi thứ hàng hoá
sau khi bán, trao đổi sẽ rút khỏi lu thông, chuyển sang lĩch vực tiêu dùng. Còn
tiền tệ vẫn tiếp tục làm phơng tiện lu thông, luôn thay đổi với những hàng hóa
mới, bỏ xa điểm xuất phát, hiện tợng này gọi là lu thông tiền tệ.
Lu thông hàng hoá là cơ sở của lu thông tiền tệ, khối lợng hàng hoá bán ra
càng nhiều thì cần càng nhiều để trao đổi, và ngợc lại trên thị trờng hàng hoá ít
đi thì chỉ cần một lợng tiền vừa đủ. Do đó lu thông tiền tệ chỉ là kết quả của lu
thông hàng hoá, số lợng tiền cần thiết cho lu thông phụ thuộc vào nhu cầu của
khối lợng lu thông hàng hoá.
Số lợng tiền (M) cần thiết cho lu thông phụ thuộc vào: số lợng hàng hóa đa
vào lu thông (Q), mức giá cả hàng hoá (P), và tốc độ lu thông hàng hoá (V):
Nh vậy, M nhiều hay ít không quyết định giá cả P của hàng hoá mà ngợc
lại P.Q quyết định lợng tiền M nhiều hay ít.
Đặc điểm của chức năng phơng tiện lu thông của tiền: Khi làm phơng tiện
lu thông, nhất thiết phải là tiền mặt, nhng không nhất thiết là tiền có đầy đủ giá
trị. Đặc điểm này khác với chức năng thớc đo giá trị của tiền: khi làm thớc đo
giá trị thì nhất thiết phải đo bằng tiền có đầy đủ giá trị nhng không cần tiền mặt
mà chỉ cần một lợng vàng trong trí tởng tợng.
6
QPVM
M
QP
V
V
QP
M ..
..
===
1.2.3. Phơng tiện cất trữ:
Tiền là loại tài sản cơ động nhất. Tiền có thể chuyển đổi thành các tài sản vào
bất cứ lúc nào nên ai cũng muốn cất trữ tiền để chuẩn bị mua hàng hoá, thanh
toán các dịch vụ, trong những tr ờng hợp này tiền trở thành phơng tiện cất trữ.
Tiền tệ khi đã làm phơng tiện cất trữ thì không làm chức năng lu thông
nữa. Chức năng này có vai trò quan trọng trong điều hoà lu thông tiền tệ. Khi
nhu cầu phơng tiện lu thông tăng thì lợng tiền cất trữ chảy vào lu thông và ngợc
lại khi nhu cầu phơng tiện lu thông giảm xuống thì lợng tiền đang lu thông trở
về làm phơng tiện cất trữ.
1.2.4. Phơng tiện thanh toán.
Trong việc mua bán trả tiền ngay thì tiền làm phơng tiện lu thông hàng
hóa, lu thông tiền tệ xuất hiện đồng thời và ngợc chiều với lu thông hàng hoá.
Nhng trong vioệc mua bán trả chậm, có nghĩa là ngời mua nợ ngời bán sau một
khoảng thời gian đợc thoả thuận trớc mới trả tiền. Số tiền trả nợ gọi là phơng
tiện thanh toán. Chức năng phơng tiện thanh toán của tiền còn biểu hiện trong
nhiều trờng hợp: trả tiền vay nợ, trả lơng, nộp thuế, đóng các quỹ tiền tệ,
Trớc đây ngời ta dùng vàng bạc để thanh toán, nhng do sản xuất phát triển
nhanh, khối lợng hàng hoá, dịch vụ ngày càng nhiều, thanh toán bằng tiền kim
loại trở thành khó khăn và bất lợi, do đó ngời ta thanh toán bằng tiền giấy. Tiền
giấy là tiền pháp định, đợc dùng để lu thông và thanh toán tiện lợi. Các nớc có
thể phát hành những loại tiền khác nhau tuỳ theo đặc điểm phong tục tập quán
của mỗi nớc.
Ngày nay tiền giấy và tiền kim loại đều bị coi là cồng kềnh dễ bị mất cắp,
chi phí vận chuyển cao, gây lãng phí, tốn kém. Để khắc phục trở ngại này, các
ngân hàng hiện đại tổ chức thanh toán bằng séc và thanh toán bù trừ
1.2.5. Tiền tệ thế giới.
Từ khi thơng nghiệp phát triển vợt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan
hệ kinh tế thơng mại quốc tế, tiền tệ trở thành vật ngang giá chung của toàn thế
giới và thực hiện chức năng tiền tệ thế giới, phơng tiện mua bán, thanh toán và
cất giữ chung của tất cả các nớc. Chỉ có loại tiền nào đầy đủ giá trị, vàng
nguyên chất là có giá trị tơng đơng với giá trị danh nghĩa của nó thì mới có thể
thực hiện đợc chức năng tiền tệ thế giới.
Trong quan hệ ngoại thơng, tín dụng, dịch vụ giữa các nớc, tiền tệ thế giới đợc
sử dụng làm phơng tiện thanh toán chung, thanh toán số chênh lệch trong cán
cân thơng mại, cán cân vãng lai. Trong quan hệ cho vay, đầu t, viện trợ, tiền tệ
thế giới là vật biểu hiện giá trị tài sản di chuyển giữa các nớc.
7
2. Chính sách tiền tệ.
2.1. Chính sách tiền tệ là gì?
Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế, thể chế chính trị và giác độ nghiên
cứu, chính sách tiền tệ đợc phân biệt theo nghĩa rộng và nghĩa thông thờng;
chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ơng và chính sách tiền tệ quốc gia.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng là chính sách điều hành toàn bộ nền
kinh tế nhằm phân bổ một cách hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên, thực hiện
các mục tiêu tăng trởng, cân đối kinh tế, trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền.
Chính sách tiền tệ theo nghĩa thông thờng là chính sách đảm bảo sao cho
khối lợng tiền cung ứng tăng thêm trong một năm tơng ứng với mức tăng trởng
kinh tế và chỉ số lạm phát(nếu có) nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đạt
đợc các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ơng là tổng thể các biện pháp,
công cụ mà Ngân hàng trung ơng sử dụng nhằm điều tiết khối lợng tiền tệ, tín
dụng, ổn định giá trị tiền tệ, góp phần đạt đợc các mục tiêu kinh tế.
Chính sách tiền tệ quốc gia là tổng thể các biện pháp của Nhà nớc pháp
quyền nhằm cung ứng đầy đủ các phơng tiện thanh toán cho nền kinh tế, trên cơ
sở đó không ngừng ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Nói tóm lại, mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị
đồng tiền, góp phần đạt đợc các mục tiêu của các chính sách kinh tế. Chính
sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế của nhà nớc để thực hiện vai
trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên, ranh giới phân loại là không rõ ràng, ở những nớc mà Ngân
hàng trung ơng trực thuộc chính phủ thì không có sự phân biệt giữa chính sách
tiền tệ trung ơng và chính sách tiền tệ quốc gia. Khi đó chính sách tiền tệ mà
Ngân hàng trung ơng đang thực hiện chính là chính sách tiền tệ quốc gia.
Trong một thời gian nhất định thì chính sách tiền tệ có thể hoạch định theo
hai hớng: chính sách tiền tệ mở rộng, chính sách tiền tệ thắt chặt.
Chính sách tiền tệ mở rộng là chính sách nhằm tăng lợng tiền cung ứng,
khuyến khích đầu t, mở rộng sản xuất kinh doanh, và tạo việc làm, nhằm chống
thất nghiệp và suy thoái nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ thắt chặt là chính sách tiền tệ nhằm giảm lợng tiền cung
ứng, hạn chế đầu t, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế, nhằm chống
lạm phát và khắc phục tình trạng quá nóng của nền kinh tế.
2.2. Mục đích, vai trò, tầm quan trọng của chính sách tiền tệ đối với
mỗi quốc gia.
Muốn nền kinh tế tăng trởng nhanh và bền vững cần phải quản lý tốt kinh
tế vĩ mô. Nghĩa là phải xử lý tốt các vấn đề về lạm phát, tiền tệ, tỷ giá hối đoái,
chính sách tài khoá và các chính sách khác có liên quan nhằm thúc đẩy tích luỹ
trong nớc, đẩy mạnh đầu t có hiệu quả. Quản lý kinh tế vĩ mô cần phải đạt đợc
ít nhất cân đối trong ba lĩnh vực:
- Cân đối thu chi ngân sách
8
- Cân đối tích luỹ và đầu t
- Cân đối ngoại tệ
Một chính phủ quản lý tốt nền kinh tế là luôn tạo đợc sự cân đối trên ba
lĩnh vực này mà không gây những biến động mạnh về giá cả, vật t hàng hoá tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh.
Tuỳ theo đặc điểm từng quốc gia, tuỳ theo từng thời kỳ khác nhau mà
chính sách tiền tệ của các quốc gia khác nhau là khác nhau, chính sách của
cùng một quốc gia ở các giai đoạn khác nhau là khác nhau. Các chính sách tiền
tệ có mục tiêu, tính chất riêng khi hớng về mục tiêu chung là tăng trởng nền
kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền và tạo công ăn việc làm cho ngời lao động.
Ví dụ: *Chính sách tiền tệ của Mỹ đa ra 6 mục tiêu:
- Công ăn việc làm cao
- Tăng trởng kinh tế
- ổn định giá cả
- ổn định lãi suất
- ổn định thị trờng tài chính
- ổn định thị trờng tài chính
* Chính sách tiền tệ của Liên bang Đức thì hớng tới các mục tiêu:
- Tăng trởng kinh tế
- Kiềm chế lạm phát
- ổn định giá trị đồng tiền
2.2.1. ổn định giá trị đối nội của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát lạm
phát.
Lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát
triển ngày càng cao. Tuỳ theo các quan niệm và giác độ nghiên cứu mà lạm
phát đợc định nghĩa riêng. Nhng nhìn chung, lạm phát là sự tăng giá cả trung
bình của hàng hoá theo thời gian. Lạm phát tác động đến nền kinh tế theo cả hai
hớng: tích cực và tiêu cực.
Lạm phát tăng sẽ làm sai lệch các chỉ tiêu kinh tế, làm phân phối lại thu
nhập, kích thích tâm lý đầu cơ tích luỹ, gây tình trạng khan hiếm hàng hoá giả
tạo, giảm sức mua thực tế của dân chúng về hàng hoá tiêu dùng. Do đó, đời
sống của ngời dân sẽ khó khăn hơn, gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống
ngân hàng do không thu hút đợc tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình do đó
lạm phát ảnh hởng mọi mặt của nền kinh tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hởng không tốt thì lạm phát vẫn có những
ảnh hởng tốt đến nền kinh tế. Một tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ kích thích kinh tế
tăng trởng. Khi đó, lạm phát là công cụ điều tiết của nền kinh tế.
Do vậy, cần chấp nhận sự tồn tại của lạm phát trong nền kinh tế để có
những quyết sách kiềm chế nó, để ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho nền kinh tế
phát triển, đảm bảo đời sống cho ngời dân, chứ không phải triệt tiêu nó.
9
2.2.2. ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở ổn định tỷ giá
hối đoái.
Trong nền kinh tế mở, tốc độ toàn cầu hoá diễn ra rất nhanh. Trong hệ
thống tài chính, tốc độ này phụ thuộc vào mức độ hớng ngoại của nền kinh tế
đó. Một sự biến động trong tỷ giá hối đoái tác động đến các hoạt động kinh tế
trong nớc, đến hoạt động xuất nhập khẩu.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp( có nghĩa đồng nội tệ tăng giá so với đồng
ngoại tệ) sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây khó khăn cho xuất khẩu do hàng xuất
khẩu đắt hơn hàng nhập khẩu. Vì vậy làm giảm lợng dự trữ ngoại tệ của quốc
gia.
Nhng nếu một tỷ giá hối đoái quá cao(đồng nội tệ giảm giá so với đồng
ngoại tệ) làm bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu do tỷ giá cao làm
cho hàng hoá xuất khẩu rẻ đi, làm tăng khả năng cạnh tranh do vậy dự trữ
ngoại tệ tăng. Tuy nhiên gây khó khăn cho hoạt động nhập khẩu, nên ảnh hởng
đến các doanh nghiệp mà sự sản xuất phụ thuộc vào nguyên vật liệu, máy móc
nhập khẩu.
Nh vậy, một tỷ giá quá cao hay quá thấp đều có những ảnh hởng tích cực
và tiêu cực đến nền kinh tế. Do đó, Ngân hàng trung ơng cần phải sử dụng các
biện pháp, công cụ để can thiệp giữ cho tỷ giá không biến động quá lớn gây sự
bất ổn định trong nền kinh tế, vừa phải khuyến khích xuất khẩu vừa phải
khuyến khích nhập khẩu để cân bằng nền kinh tế.
2.2.3. Kích thích tăng trởng kinh tế.
Tăng trởng kinh tế là gì? chính sách tiền tệ ảnh hởng nh thế nào đến tăng
trởng kinh tế?
Khi khối lợng tiền tệ cung ứng tăng, làm giảm lãi suất, kích thích đầu t,
mở rộng sản xuất, làm tăng tổng sản phẩm quốc nội( GDP). Khi khối lợng tiền
tệ tăng làm tăng tổng cầu, do đó sức mua hàng hoá tăng là tiền đề cho các
doanh nghiệp gia tăng sản xuất dẫn đến GDP tăng. Nếu mức gia tăng GDP cao
hơn nhịp độ gia tăng dân số thì sẽ có tăng trởng kinh tế.
Khi khối lợng tiền tệ giảm, lãi suất tăng, làm giảm đầu t, do đó GDP giảm.
Mặt khác, khi khối lợng tiền tệ giảm làm giảm tổng cầu, làm giảm sức mua,
làm hàng hoá tồn đọng, các doanh nghiệp không có động lực mở rộng sản xuất,
do đó GDP giảm.
Nh vậy chính sách tiền tệ tác động không nhỏ đến tăng trởng kinh tế của
một quốc gia.
2.2.4. Tạo việc làm, giảm thất nghiệp.
Tạo việc làm, giảm thất nghiệp là một trong những mục tiêu của chính
sách tiền tệ quốc gia. Để thực hiện đợc mục tiêu này, chính sách tiền tệ hớng
vào việc tác động vào đầu t sản xuất, mở rộng hoạt động kinh tế nhằm chống
suy thoái, nhất là suy thoái chu kỳ, để đạt đợc mức tăng trởng ổn định
Nh vậy, lạm phát, tăng trởng kinh tế, và thất nghiệp có mối quan hệ đối
nghịch nhau:
10
- Khi kiềm chế đợc lạm phát thì tăng trởng kinh tế giảm, thất
nghiệp tăng, nền kinh tế suy thoái.
- Khi mở rộng đầu t,khắc phục suy thoái, giảm thất nghiệp, kinh tế
tăng trởng cao, thì khó có thể kiềm chế đợc lạm phát.
Nh vậy, nền kinh tế luôn biến động mang tính chu kỳ: tăng trởng kinh tế
quá mức, dẫn đến lạm phát, từ đó rơi vào tình trạng suy thoái. Một lợng tiền tệ
tăng lên để cứu vãn nền kinh tế, chuyển nền kinh tế sang thời phục hng, rồi lại
tăng trởng mạnh
Tóm lại, đối với từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ cần tìm giải pháp
để vừa đạt đợc mục tiêu trọng tâm, vừa dung hoà đợc các mục tiêu kinh tế khác.
2.4. Các mối liên hệ của chính sách tiền tệ.
Hệ thống công cụ quản lý của một quốc gia gồm có bốn chính sách: chính
sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách tiền
tệ. Trong đó, chính sách tiền tệ đợc coi là chính sách quan trọng, có vị trí trung
tâm, gắn kết các chính sách kinh tế vĩ mô lại với nhau. Ví dụ, mối quan hệ giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá.
Chính sách tài khoá là chính sách thu chi của chính phủ hay còn gọi là
chính sách ngân sách. Chính sách tài khoá ảnh hởng trực tiếp đến lợng tiền
trong lu thông - đối tợng của chính sách tiền tệ. Tiền tệ đi vào lu thông qua
nhiều kênh, trong đó chủ yếu là qua ngân sách và tín dụng. Do đó, thu chi ngân
sách và tín dụng thặng d, thâm hụt hay thăng bằng đều ảnh hởng đến mục tiêu
ổn định tiền tệ của chính sách tiền tệ.
Khi ngân sách thâm hụt, chính phủ có thể vay ngân hàng trung ơng, ngân
hàng thơng mại bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ và ngân hàng trung -
ơng hay ngân hàng thơng mại mua. Đây là hình thức tài trợ tiền tệ. Khi đó, lợng
tiền cung ứng tăng, gây bất lợi cho mục tiêu ổn định tiền tệ. Chính phủ nên vay
của các tổ chức phi ngân hàng hoặc trong dân c bằng cách phát hành trái phiếu.
Nh thế sẽ không làm tăng lợng tiền cung ứng, nhng sẽ làm tăng cầu tín dụng,
làm lãi suất tăng, do đó ảnh hởng đến đầu t. Cũng có thể bù đắp thâm hụt ngân
sách nhà nớc bằng cách vay từ nớc ngoài. Nhng cách này cũng không đảm bảo
ổn định đợc tiền tệ, vì nhà nớc vẫn phải dùng nội tệ để chi trả cho các khoản chi
tiêu của chính phủ, làm cung tiền tăng. Chỉ khi thâm hụt ngân sách bằng ngoại
tệ chính phủ dùng để nhập khẩu đúng bằng thâm hụt ngân sách bán hàng nhập
khẩu thu nội tệ đảm bảo chi ngân sách là phù hợp với mục tiêu ổn định tiền tệ.
Nhng để trả đợc khoản nợ nớc ngoài này chính phủ phải tăng xuất khẩu làm ảnh
hởng đến tiền hàng trong nớc. Ngoài ra, lãi suất nợ nớc ngoài thờng biến động
gây bất ổn định tiền tệ.
Theo J.Keynes, nhà nớc cần mạnh dạn chi tiêu dù có thâm hụt ngân sách,
có nh thế thì mới tạo đủ công ăn việc làm, tạo thu nhập, từ đó thúc đẩy tiêu
dùng xã hội, kích thích sản xuất phát triển. Keynes luôn nhấn mạnh vai trò của
tiền tệ đối với nền kinh tế hiện vật. Nhng đến giữa thập kỷ 70 đến nay, nền kinh
tế thế giới bị suy thoái, thất nghiệp suy thoái, lạm phát, làm hệ thống tiền tệ thế
giới bị rối loạn thì lý thuyết của Keynes không còn đúng nữa mà trở nên kém
hiệu quả và bị phê phán.
11