Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Giáo trình Lịch sử Mỹ thuật Công Nghiệp pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 60 trang )

Giáo trình
Lịch sử Mỹ thuật Công Nghiệp
MỤC LỤC
Giáo trình 1
Lịch sử Mỹ thuật Công Nghiệp 1
MỤC LỤC 2
Chương I
Design
1.1. Khái niệm Design(Mỹ thuật công nghiệp).
Là ngành thiết kế tạo mẫu, tạo dáng cho sản phẩm công nghiệp, thiết kế môi trường
sống hay thế giới đồ vật.
Design là một thuật ngữ xuất hiện trong rất nhiều ngữ cảnh với các lĩnh vực thiết
kế: thiết kế Đồ họa(graphic design), thiết kế nội thất(interior design), thiết kế thời
trang(fashion design), tạo dáng công nghiệp(industrial design)…
Danh từ design có xuất xứ từ chữ disegno của tiếng Latinh, có từ thời Phục hưng có
nghĩa là phác thảo, thuật vẽ, thiết kế, bản vẽ và là cơ sở của mọi nghệ thuật thị giác,
công việc của sự sáng tạo. Thời đó thuật ngữ này thường ám chỉ công việc sáng tạo của
các họa sĩ vẽ tranh, tạc tượng …. và hơn nữa đó vẫn chưa phải là một nghề chuyên
nghiệp hoàn toàn (full-time professional) mà gắn kết như một thuộc tính của họa sĩ,
nhà điêu khắc hay các nghệ nhân.
Thế kỉ XVI ở Anh đã mở rộng khái niệm Design là phác thảo, thiết kế và lập kế
hoạch cho sản phẩm công nghiệp.Ở Việt Nam có nghĩa là "mỹ thuật công nghiệp",
"thiết kế tạo dáng công nghiệp" hay "mỹ thuật ứng dụng". Thuật ngữ này mới nhập vào
Việt Nam trong thập niên 1960, bắt nguồn từ Industrielle Formgestaltung trong tiếng
Đức khi các giáo sư trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Halle (Die Hochschule für
Industrielle Formgestaltung – Halle) sang trường Trung cấp Mỹ nghệ Hà Nội trao đổi
học thuật và đã được dịch thành "Mỹ thuật công nghiệp" (MTCN). Từ đó MTCN trở
thành thuật ngữ của ngành và trở nên thông dụng, quen thuộc.
Designer.
Những sản phẩm, tác phẩm, những cuốn sách, tạp chí, viện bảo tàng…đã dựng hình
ảnh của các bậc thầy Designer trong lịch sử phát triển. Có thể kể tên một số bậc thầy


danh tiếng như William Morris, Michael Thonet, Adolf Loos, Le Corbusierd, Frank
Lloy Wright Christian Dior…Trong lịch sử đã có nhiều Designer khởi nghiệp từ các
lĩnh vực kiến trúc, kỹ thuật trong kinh doanh, quảng cáo.
Việc đào tạo các Designer bao gồm toàn bộ các lĩnh vực của các bộ môn khoa học
rất cần thiết và nền tảng văn hóa, thế giới quan của Designer. Tại các trường đào tạo
Designer ở Việt Nam hiện nay có các môn học về thẩm mĩ học, tiến hiệu học, lý thuyết
màu, văn minh phương Tây, văn minh phương Đông, cơ sở văn hóa Việt nam.
Môn duy nhất thuộc chuyên ngành Design là Ergonomic, Việt Nam còn gọi là
Công thái học - bộ môn giải thích mối quan hệ trung tâm giữa con người và môi
trường, máy móc, nghiên cứu khả năng và hạn chế của con người, nhân trắc học…để
đảm bảo yêu cầu đối với tạo dáng hợp lý, phù hợp sức khỏe, an toàn và tiện nghi.
Designer ngày nay có một phạm vi hoạt động rộng lớn từ những sản phẩm tiêu
dùng hàng ngày như đồ gỗ, dụng cụ gia đình, quần áo giày dép…đến các sản phẩm
công nghiệp. Không chỉ hoạt động trên thế giới của hàng hóa tiêu dùng, họ còn hoạt
động cả trong lĩnh vực thiết kế vũ khí, ô tô, xe máy…
Tùy vào lĩnh vực hoạt động và sản phẩm mà các Designer thường gắn thêm vào các
danh hiệu Designer những sản phẩm chuyên môn của mình. Như Designer nội thất,
Designer đồ họa, Designer thời trang, Designer đồ gốm…
Design sản phẩm và Design đồ họa
Design công nghiệp(Industrial design) bao gồm Design những sản phẩm tiêu dùng
hàng ngày như đồ đạc, dụng cụ gia đình, quần áo, giày dép, …cho đến các sản phẩm
trang thiết bị công nghiệp khác, thậm chí cả vũ khí và phương tiện vũ trụ…nghĩa là
Design sản phẩm công nghiệp
Design đồ họa(Graphic design) bao gồm tất cả các lĩnh vực giao tiếp và thông
tin(communication). Quảng cáo bao bì sản phẩm, brochure, catalogue, trang trí trưng
bày cửa hàng, đồ họa ấn phẩm …nói tóm lại đó là công việc trang trí vẽ trên bề mặt.
Ngày nay, khi phượng tiện truyền thông chủ yếu dựa vào hệ thống nghe nhìn, trên màn
hình vô tuyến, vi tính…thì các Designer cũng phải ngồi bên máy tính và sáng tạo,
trong trường 2D và 3D, tĩnh và động, tạo ra những sản phẩm mỹ thuật ứng dụng.
Một Designer hiện đại ngày nay được trang bị kiến thức cảu cả hai mảng Design

công nghiệp và Design đồ họa.
1.2. Các chức năng và tiêu chí của Designer.
Design là một hoạt động nhằm thúc đẩy sản xuất công nghiệp và thương mại.
Design được thực hiện dựa trên những nguyên lý và sự nghiên cứu nghiêm túc các yếu
tố tác động tới sản phẩm và người tiêu dùng.
Design gắn liền với quá trình sản xuất – tiêu dùng sản phẩm. Hoàn cảnh xã hội tác
động đến quá trình Design và tác động xã hội của Design.
Qúa trình Design dừng lại ở mẫu đầu hay nguyên mẫu(Proto-Type). Qúa trình sản
xuất kết thúc ở sản phẩm(Designed Goods).Qúa trình lưu thong phân phối(Circulation
Distribution) mang sản phẩm đến người tiêu dùng và quá trình tiêu dùng của khách
hàng(Consuming Customizing) chấm dứt mô hình chế tạo, sản xuất – tiêu dung sản
phẩm. Người ta gọi quá trình Design là quá trình tiền sản xuất như mô hình dưới đây:
Tiến trình Design sản phẩm theo các Designer Nhật Bản được thực hiện theo 4
bước như mô hình sau:
Tiến trình Design phụ thuộc vào sản phẩm cụ thể.
1) Khảo sát nghiên cứu lần 1 về nhu cầu, thói quen sở thích của khách hàng
2) Hình thành ý tưởng Design, đó là nhứng bước xác định dần những đặc trưng cơ
bản nhất của sản phẩm tương lai khi sản phẩm được đưa vào thị trường, ý tưởng
phải thỏa mãn công thức 5W1H ( When, Who, Where, What, For Whom, How).
3) Design là quá trình thực hiện ý tưởng, ban đầu được Design thể hiện qua phác
thảo(sketch) như những sơ phác ban đầu và chỉ giành riêng cho chính bản thân
Designer nên có thể được thể hiện tự do bằng nét chì …sau đó phác thảo mới
hoàn thiện dần ý tưởng khi lưu ý tới cấu tạo bên trong, vỏ bọc bề ngoài, vẽ kỷ
thuật và thực hiện mô hình 3 chiều, cuối cùng hoàn thiện màu sắc, hoa văn, chất
liệu bề mặt, trang trí và đồ họa mỹ thuật kết thúc quá trình Design.
4) Khảo sát nghiên cứu lần 2 xem xét những vấn đề phát sinh khi đưa sản phẩm
vào thị trường và ý kiến của người sử dụng.
Design được đánh giá bởi các tiêu chí xã hội, công nang, công thái học, sinh thái,
và thẫm mỹ…
Tiêu chí xã hội đánh giá mức hội nhập và định hướng của sản phẩm đối với các

tầng lớp của xã hội khác nhau, khả năng tối ưu hóa đời sống vật chất cho công dân, lợi
ích và hiệu quả xã hội của sản phẩm, quan hệ của sản phẩm và trình độ phát triển của
bản thân hoặc nhóm cộng đồng.
Tiêu chí công năng đánh giá tính dễ sử dụng, dễ vận hành, dễ sửa chữa, độ tinh tế
của sản phẩm, tiết kiệm năng lượng, tuổi thọ của sản phẩm, có khả năng tái sử dụng, ký
thuật công nghệ tiên tiến…
Tiêu chí công thái học đánh giá về mối quan hệ hữu cơ giữa con người và môi
trường
Tiêu chí sinh thái đánh giá sản phẩm và khả năng cũng như mức độ làm hại môi
trường sống…
Tiêu chí thẫm mỹ xem xét cấu tạo và hình dáng, tính “xịn” hay cá tính và tính độc
đáo…Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình Design sản phẩm như: về khía cạnh
nhân trắc học, vật lý, tâm sinh lý, vệ sinh,…
1.3. Design tương thích phương thức sản xuất.
Design là một môn khoa học đã tổng hợp được các phương pháp khác nhau, rút ra từ
các lĩnh vực của khoa học kỹ thuật, khoa học kinh tế, khoa học xã hội và kiến thức trí
tuệ của nhân loại. Trong quá trình phát triển của lịch sử của bộ môn khoa học này về lý
luận lẫn thức tiễn, người ta có nhiều giả định và quan điểm rất khác nhau.
Chủ nghĩa công năng đã thống trị từ đầu thế kỷ cho đến những năm 70, những yêu cầu
đòi hỏi về công năng và đòi hỏi về kỹ thuật bao giờ cũng là thước đo về hình thức đối
với một sản phẩm được sản xuất hang loạt. Xu hướng styling
1.4. Lịch sử Design
Là một khoa học nghiên cứu ra đời và phát triển của Design cùng những yếu tố cơ
bản về sự phát triển đó, là môn học có mục đích nhằm giải thích Design như một hiện
tượng xã hội và hiện tượng lịch sử. Đó là những cột mốc của những sự kiện, sự hình
thành các hãng, các công ty tạo dựng nên dấu ấn Design.
Nước Anh có Hiệp hội lịch sử Design ( Design History Society) từ 1977.
Khi nói đến lịch sử Design ta không chỉ đề cập đến sự phát triển về kỹ thuật, kinh
tế, thẫm mỹ và xã hội mà còn phải đề cập đến các yếu tố khác nữa như tâm lý, vân hóa,
môi trường…Lịch sử Design không chỉ là lịch sử của đồ vật và hình dáng của chúng,

lịch sử Design là lịch sử của các hình thức sống, là mối quan tâm và phong cách ứng
xử trong quan hệ giữa con người và đồ vật được phản ánh phần lớn trong lịch sử văn
hóa và văn minh từ khởi thủy cho tới thế kỷ XX.
Hàng năm minh họa trong sách là hình vẽ, phát thảo, thiết kế sản phẩm…như
những dấu ấn của lịch sử Design, được lựa chọn từ những hình dáng tiêu biểu, đặc
trưng cho phong cách, văn hóa, dân tộc hoặc trên cơ sở chất liệu, kỹ thuật chế tạo. Một
số đơn thuần chỉ là những ý tưởng hay thử nghiệm lý thuyết, số khác theo thương mại
chủ nghĩa. Những phong cách kiểu dáng của Design công nghiệp thế kỷ XX phản ánh
sự phát triển và những thay đổi của kỹ thuật công nghệ trái ngược với xu hướng thủ
công truyền thống.
Cuối thế kỷ XX các nhà lí luận Design đưa ra mô hình phát triển Design trong mối
quan hệ với các hình thức xã hội nhằm lý giải những thay đổi của đặc trưng phong
cách Design phụ thuộc vào nền kinh tế, sản xuất công nghiệp và hoàn cảnh xã hội. Qúa
đó có thể xây dựng được mô hình phát triển của Design trong lương lai.
Đó là những thập niên xã hội phát triển tiếp tục dư thừa sản phẩm công nghiệp
đồng thời diễn ra sự thay đổi to lớn trong cơ cấu nhu cầu của con người, những sản
phẩm giải trí, văn hóa tinh thần tăng cao và mở rộng hơn bao giờ hết. Con người bao
quát toàn cầu, vươn ra ngoài phạm vi trái đất và trình độ khoa học công nghệ vũ trụ sẽ
tác động ảnh hưởng đến các sản phẩm vật chất lẫn tinh thần Design tương lai.
1.5. Những phong cách lớn trong lịch sử Design.
Phong cách.
Qua những di tích kiến trúc và những đồ vật từ xưa còn được bảo tồn đến ngày nay
có thể thấy những công trình kiến trúc cũng như đồ đạc được xây dựng hay chế tạo ở
một giai đoạn nhất định, trong những điều kiện thường xuyên thay đổi, nhưng có cùng
những dấu hiệu giống nhau. Những dấu hiệu thống nhất ở cách thức biểu thị coi như
dấu ấn mà thời kỳ xác định đó lựa chọn để thực hiện các tác phẩm kiến trúc của mình
được gọi là phong cách của kiến trúc đó. Trào lưu sử dụng cùng một loại dấu ấn, cùng
một cách biểu thị trong các công trình kiến trúc tạo thành phong cách kiến trúc.
Phong cách xuất hiện ở nơi nào thuận lợi cho sự phát triển của nó. Đó là địa lý, khí
hậu, nền kinh tế, xã hội và điều kiện chính trị, thu nhập của người dân…Từ nơi xuất

phát, phong cách sơ khai lan tới những vùng xung quanh, giống như những vòng tròn
đồng tâm, ngày một xa hơn tùy theo khả năng mối quan hệ xã hội tương lai. Thời xa
xưa chính buôn bán là nhịp cầu nối quan hệ văn hóa với nhau. Ví dụ như “con đường
tơ lụa” nối hai châu lục Âu – Á nổi tiếng của người Trung Quốc thời xưa. Những trung
tâm phong cách đã nổi tiếng trước đây là Athen thời cổ đại Antique, Paris thời Gothic
Trung cổ, Phlỏence và Roma thời phục hưng Renaissance.
Lịch sử phát triển thế giới đầy rẫy các cuộc chiến, nhưng ngay cả chiến tranh dù
chủ yếu chỉ tàn phá chết chóc, cũng thường tạo điều kiện tác động qua lại và phổ biến
phong cách kiến trúc mới. Phong cách là một trong những chủ đề quan trọng của các
nhà viết sử và phê bình nghệ thuật. Danh từ phong cách Style có nguồn gốc từ chữ
Latinh stilus hàm nghĩa cách viết, kiểu chữ viết biểu hiện trực tiếp đặc trưng con
người. Cũng có quan miện khác coi phong cách style như một mỹ từ mà con người cố
tình áp đặc và tự giải nghĩa cho hiện tượng mà thôi.
Một vài tên gọi phong cách thường gặp trong lịch sử nghệ thuật như: phong cách
hình học (geometric style), Hellenistic(Văn hóa cổ Hilạp), Romanesque(Roman),
Gothic(Gotic), Baroque(Barốc), Rococo(Rốccôcô), Louis XIL(Luis XIL),
Mannerism(phong cách riêng), phong cách Queen Anne(Nữ hoàng Anh),
Neoclassical(Tân cổ điển), Art Nouveau(Nghệ thuật mới), phong cách quốc tế hiện
đại(international moder style)…
Giai đoạn sơ khai là giai đoạn tìm kiếm dấu ấn riêng và tinh lọc phong cách.
Giai đoạn hưng thịnh là thời kỳ đỉnh cao của phong cách. Đây là giai đoạn phong
cách đã định hình về cấu tạo hình dáng và các chi tiết cấu tạo thuộc kết cấu hoặc trang
trí. Đó là nghệ thuật chín muồi, chắc chắn trong hình dáng cà chín muồi trong hình
dáng.
Giai đoạn tàn là giai đoạn cuối trong đó nhiều vấn đề thuộc phong cách đã được
giải quyết, thử thay đổi, thêm thắt những phần tử bất cấu trúc, chỉ còn tính trang trí.
Ý nghĩa cơ bản của phong cách là đặt trưng nghệ thuật đặc sắc có tính đặc thù diễn
tả tính cách của một con người, một dân tộc hay một thời đại chính là ảnh hưởng của
nó tới công cuộc phát triển thượng tầng kiến trúc tương lai. Phong cách cá nhân có thể
tạo dấu ấn cho một trường phái, phong cách nhóm hay phong cách hãng. Trở thành văn

hóa, phong cách mang tính quốc gia và vượt khỏi biên giới một nước thành phong cách
quốc tế.Vấn đề phong cách luôn cần xem xét trên cơ sở văn hóa, cá nhân hay cộng
đồng và của xã hội.
Cổ đại Antique là phong cách trang trí nghệ thuật cổ xưa nhất đặc trưng bằng các
hình tưởng tượng về người hoặc thú có tính cách điệu cao được thể hiện rõ nét nhất ở
những công trình kiến trúc và điêu khắc hay đồ đạc cho đến ngày nay. Trong các hầm
mộ người ta khai quật được khá nhiều cổ vật, đồ dùng, đồ trang sức của người xưa
được gìn giữ khá tốt phản ánh phần nào trình độ thẩm mỹ và công nghệ chế tác đồ đạc
thời đó, tuy nhiên những di vật đó chỉ phản ánh đời sống của vua chúa và tầng lớp
thượng lưu. Phong cách cổ đại phương đông có ảnh hưởng rõ rệt lên phong cách
phương tây là Cổ đại Ai Cập(Egypt), Lưỡng Hà(Mesopotamia). Cổ đại thuần phương
đông là Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản. Phong cách phương Tây cổ đại nổi bật là Hi
Lạp và La Mã cổ đại nguồn cảm hứng cho phong cách phục hưng về sau.
Những thay đổi của phong cách phương Đông từ thời cổ đại tới ngày nay không rõ
nét bằng phong cách phương Tây bởi tính truyền thống liên tục kéo dài của chế độ xã
hội mang nét văn hóa riêng khá ổn định.
Gothic(1135-1530)
Gothic Pháp trở thành phong cách nghệ thuật đặc sắc mới đã có nguồn gốc từ
phong cách Antic truyền thống miền núi Alpe, phong cách khái quát kiểu kiến trúc và
phong cách hội họa mới, xuất hiện sau thời kì Cổ đại La Mã và trước thời kì Phục
Hưng từ 1135- 1530, gồm ba giai đoạn sơ kì:
Early Gothic 1135 - 1190
High Gothic 1190 - 1230
Late Gothic 1290 - 1530
Kiến trúc Gothic bắt nguồn ở Pháp từ thế kỉ XII và tồn tại ở Tây Âu đến giữa thế kỉ
XVI, đặc trưng bằng các giáo đường lớn với kết cấu ngày càng thanh thoát và cao dần
sử dụng các vòm nhọn, vòm khung, hệ thống cửa sổ trang trí kính màu phong phú.
Nhà thờ Gothic khác với kiến trúc La Mã ở chổ theo một phương thức xây dựng
ccác vòm chịu lực nhờ các đường gân. Nhờ cấu trúc gia cường, các tường không cần
quá dầy, các vòm cong nhọn đã chống đỡ sức nặng bên ngoài thay cho cột và tường

bên trong để đỡ sức nặng của mái vòm. Nhờ vậy có thể xây tường mỏng hơn và thay
thế một phần tường bằng cửa sổ kính màu lớn để có nhiều ánh sáng.Thật ra đường
công gãy đã có từ thời La Mã, nhưng thời Gothic nó mới được sử dụng nhiều hơn, nhất
là trong các nhà thờ, đặc trưng của nghệ thuật phục vụ tôn giáo thời đó. Tranh kính
màu ghép thường lấy các mootip từ Thánh kinh, trang
trí các cửa sổ và ô trống lấy ánh sáng trời. Hình thức
mới mẻ và trực rỡ nhờ kính màu, ánh sáng đủ màu
tràn ngập giáo đường, tạo một không khí lễ hội lung
linh huyền ảo.
Phục hung(Renaissance).
Phục hưng hay Rinascimento có nghĩa là Tái sinh (làm cho thịnh vượng giống như
xưa) là giai đoạn lịch sử vào đầu thế kỷ XIV cho đến khoảng giữa thế kỷ XVI. Đây là
giai đoạn thời kỳ chuyển tiếp từ Trung Cổ sang Cận đại. Thời kỳ phục hưng đỉnh cao
(High Renaissance)( Italia cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI) đặc trưng bằng sự nhấn
mạnh tay nghề thủ công, minh họa các cụm tượng, các bích họa trên trần và tường, sắp
xếp phối hợp với phong cách Cổ đại, chú ý đặc biệt đến tạo hình và các nguyên tắt kết
hợp, kế thừa các kiểu kiến trúc nghệ thuật Cổ đại, những gì Gothic chối bỏ.
Phong cách mang tính hoành tráng là đặc trưng của thời kỳ Cổ đại và chính đó là
chổ dựa cho phong cách Phục hưng đạt đến đỉnh cao hoàn mỹ về sau.
Thời kỳ phục hưng với những thành tựu trong nhiều lĩnh vực trong đó có văn hóa
nghệ thuật đã đặt dấu ấn to lớn trong lịch sử văn minh loài người và đặc biệt đóng góp
cho Design những tiền đề cấu thành lịch sử Design đầu tiên. Đó là thuật ngữ Disegno
và Designer đầu tiên là Leonardo de Vinci mà những phác thảo thiết kế của ông đã
khiến ông được tôn vinh.
Baroque
Phong cách kiến trúc Baroque bắt nguồn từ Italia đầu thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ
XVIII, phát triển ở Châu Âu và Châu Mỹ, đặc trưng bằng việc sử dụng các hình thức
kiến trúc và trang trí cổ điển, kết hợp các hiệu quả của các nghệ thuật tạo hình, hội họa
trang trí. Từ nghệ thuật Baroque phát triển phong các nghệ thuật trang trí Rococo khởi
đầu ở Pháp năm 1720, được phân biệt bằng các dạng thức uốn cong các dạng lá và dây

leo, tạo một tổng thể tinh tế.
Le Corbusier, kiến trúc sư và Designer tiêu biểu, đã tìm thấy phong các phong cách
Gothic vẻ đẹp mê hồn của nghệ thuật tranh kính màu và mái vòm bí ẩn của kiến trúc
nhà thờ Gothic để đưa chất liệu thủy tinh, kính gương lâu đời mà đầy tính hiện đại này
vào các công trình kiến trúc thế kỉ XX.
1.6. Những mốc lịch sử Design.
Theo các nhà sử học, trái đất hình thành cách đây khỏang 6 tỉ năm và con người đã
tìm ra lửa được khỏang 1,4 triệu năm. Dấu vết đầu tiên về việc con người sử dụng lửa
tìm thấy ở Kenya. Loài người vượn đã dùng đá đách ánh ra lửa nhưng dung lửa để chế
tạo gốm như vật liệu nhân tạo đầu tiên thì chỉ mới cách đây khoảng hơn 8.000 năm.
Đến khoảng 500.000 năm trước những vũ khí đầu tiên như chùy đá, búa, đao bằng
đá đã được con người sử dụng. Có lẻ đó là những sản phẩm do con người chế tạo, được
coi như những sản phẩm Design đầu tiên.
Khoảng 100.000 năm trước con người hiện đại Homo Sapiens hình thành như loài
người nguyên thủy sống thành xã hội mới được từ khoảng 40.000 năm trước CN cho
đến khi tính đến nền văn minh đầu tiên 5.000 năm trước CN.
10.000 năm trước kiến trúc hình thành, Những ngôi làng cổ nhất được tìm thấy ở
Trung Đông, Thổ Nhỹ Kì và Nam Mỹ. Trước đó con người còn sống trong hang động
hay chòi lá.
6.500 trước CN đồ gốm được chế tạo ở Thổ Nhĩ Kì. Syri và Kurdistan. Đó là vật
liệu nhân tạo đầu tiên con người tạo được. Đồ đồng cũng bắt đầu được sử dụng.
4.000 trước CN chữ viết ra đời, chấm dứt thời kỳ tiền sử 3.500 trước CN bánh xe
được phát minh tại Irak 3.000 trước CN đồng thau(hợp kim đồng và thiếc) được làm ra
ở Anh.
Thời kỳ 5.000 trước CN xuất hiện những nền văn minh đầu tiên gọi là thời Cổ đại.
Thời kỳ Cổ đại kéo dài tới khoảng 410-476 thì suy tàn. Đế chế La Mã sụp đổ.
Thời Trung đại tiếp theo kéo dài tới 5 thế kỷ “ đêm dài Trung cổ” kéo dài đến tận
thế kỷ XIV có các phong trào nổi bật như Byzantine, Romanesque và Gothic.
Thời cận đại từ 1300- 1550 thuộc thời đại Phục hưng(Renaissance) vĩ nhân
Leonardo de Vinci(1452- 1519)được coi là Designer đầu tiên bởi những phác thảo thiết

kế đầy sáng tạo và tiên phong của ông.
Từ 1600- 1800 thời của phong cách cổ điển Baroque và Rococo. Thời đại lý
trí(1687- 1789) cách mạng tri thức. Thắng lợi của chủ nghĩa tư bản và những phát minh
kỹ thuật quan trọng thời cận hiện đại như: thoi dệt(1733), máy kéo sợi Kenny(1767),
máy hơi nước Jemes Watt(1784)máy kéo sợi mịn Samuel Crompton(1779), máy dệt
Edmund Cartwright(1785)…đã giúp công nghiệp cất cánh, hình thành một nền văn
minh mới “văn minh công nghiệp”.
Cách mạng công nghiệp được coi như thành công trong giai đoạn 1800-1850 và
tiếp tục thành tựu của khoa học kỹ thuật: tàu thủy hơi nước Robert Fulton(1806), đầu
máy xe lửa George Stephenson(1814), xe đạp (1818), năng lượng điện(Ohm, Joule,
Lenz, Maxwell), tia Xquang Rơnghen, thuyết lượng tử Planeck, thuyết tương đối
Einstein, học thuyết di truyền Darwin,…
Design công nghiệp
Lấy cột mốc 1850 của giai đoạn kéo dài cho tới ngày nay bắt đầu từ thời kỳ có
những Hội chợ, Triển lãm quốc tế và tiếp tục những thành tựu khoa học kỹ thuật, văn
hóa, xã hội, tư tưởng. Hàng loạt sự kiện quan trọng, những dấu ấn phong cách trong
lịch sử Design thời kì công nghiệp.Một số cột mốc quan trọng và những sự kiện có thể
kể đến:
Triển lãm thế giới đầu tiên tại London năm 1851.
Ghế gỗ uốn của M. Thonet được trưng bày tại triển lãm Munich 1854, ghế tựa uốn
số 14 năm 1859 của ông là thành công tuyệt đối của một sản phẩm Design khi được
sản xuất ra với số lượng lớn hơn 100 triệu chiếc. Lần đầu tiên đồ gỗ được các tác giả
đăng ký bản quyền.
W. Morris lập hãng W. Morris.Co , năm 1861 và mở tờ báo Kelmslott đấu tranh
cho phong trào cách tân Mỹ thuật Mỹ nghệ.
Phong cách trẻ 1890-1914 Jugendstil(Đức), Art Deco( Anh), Art Nouveau(Pháp,
Bỉ), Sccession(Áo), Slito Liberty(Italia)…hình thành và phổ biến như một phong cách
quốc tế.
Hermann Muthesius sáng lập tổ chức Deutscher Verkbund năm 1907. Kiến trúc sư
Adolf Loos công bố Ornaments anh Crime(Hoa văn và tội ác) chống quan điểm trang

trí của trường phái Nghệ thuật mới vào năm 1908, đánh dấu sự suy tàn của phong cách
trẻ.
Cách mạng tháng 10 Nga 1917 và nghệ thuật đi vào đời thường. Chủ nghĩa Cấu
trúc Nga ra đời, song hành cùng De Stijl của Hà Lan. Sự hình thành mô hình Phân
xưởng Kỹ - Mỹ Nghệ Vchutemas vào năm 1920 với những người tiên phong như:
Tatlin, El Lissisky…
Dưới ảnh hưởng của Cấu trúc Nga và phong trào De Stijl Hà Lan cũng như tôn chỉ
Form Follows Function(Hình dáng theo công năng) của Sullivan Mỹ, tại Đức, trường
Bauhaus được thành lập năm 1919 ở Weimar và đóng cửa năm 1933 sau hai lần di
chuyển địa điểm đến Dessau và Berlin. Bauhau được coi là cái nôi của Chủ Nghĩa công
năng hiện đại.
Năm 1925 Marcel Breuer tại Bauhaus lần đầu giới thiệu kiểu ghế bằng ống thép
mang phong cách hiện đại Wassily.
Năm 1929, Viện Bảo tang Nghệ thuật hiện đại thành lập tại New York Ludwig
Mies van der Rohe thiết kế ghế bành Barcelona.
Năm 1940 tại Bảo tang Nghệ thuật hiện đại tổ chức cuộc thi thiết kế “ đồ gỗ hữu
cơ”(Organic Furniture) Charles Eames và Eero Saarinen đoạt giải.
1940-1942 R. Loewy thiết kế bao bì
thuốc lá Lucky Strike
Năm 1953, Jacques Vienot tổ chức tại Paris đại hội quốc tế đầu tiên về Design.
Cùng lúc đó Đức thành lập trường Đại học tạo dáng công nghiệp Ulm, khai giảng khóa
đầu 1955 và trường đóng cửa năm 1968.
Năm 1981 Scottsass thành lập phong trào Memphis từ Studio Alchimia với sứ
mạng “ anti – design, no design” đánh dấu sự ra đời chủ nghĩa Hậu hiện đại.
Chủ nghĩa công năng hiện đại phù hợp với phương thức sản xuất công nghiệp hàng
loạt vẫn khẳng định chủ chốt trong nền Design thế giới, đặc biệt tại các nước đang phát
triển Design công nghiệp hóa.
Đa hướng trong Dessign hiện đại thể hiện ở dấu ấn đặc trưng phong cách như: hình
dáng, chất liệu, màu sắc, đa công năng cung như các hình thức biểu hiện của Design
tương thích phương thức chế tạo tiên tiến như thu nhỏ vật thể, high-tech, multimedia…

Thập niên 90 thế kỉ XX là những năm ra đời và hình thành khái niệm Design phi vật
thể.

CHƯƠNG II
DESIGN CÔNG NGHIỆP
2.1. Cách mạng công nghiệp
Cách mạng công nghiệp(1830-1880)
Máy hơi nước
Nhà khoa học người Anh James Watt đã sáng chế ra máy hơi nước vào năm 1765
cũng từ đó diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, một cuộc cách mạng công nghiệp đầu
tiên ở Anh quốc vào thế kỉ XIX làm thay đổi cục diện nước Anh. Nhờ có máy hơi nước
đã sản sinh ra nguồn năng lượng nhân tạo, có thể sử dụng khai thác than, sản xuất sắt
và thép tạo đà thúc đẩy sự phát triển của nền công nghiệp cơ khí. Đó chính là tiền đề
cho sản xuất công nghiệp hang loạt, phát triển một nền giao thông vận tải và sự bùng
nổ đô thị hóa.
Động cơ hơi nước chạy bằng thủy lực năm 1840 mang hình dáng của một ngôi đền
cổ. Ngay trong giai đoạn tiền công nghiệp cái vỏ của máy mới hiện đại đều nhái theo
những hình dáng lịch sử, những cụ kỹ thuật lúc đó được hình tượng hóa như các phẩm
tác mỹ thuật.
2.2. Lịch sử lúc khởi đầu.
Design là sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa, sự hình thành Design hiện đại
không tách rời những yếu tố của thời tiền công nghiệp.
Giai đoạn quá độ chuyển từ sản xuất thủ công lên cơ khí là giai đoạn tách giữa lao
động cơ bắp và lao động cơ khí – công việc đó được phân biệt bằng bản vẽ. Để đáp
ứng cho sản xuất công nghiệp đã có rất nhiều bản vẽ thiết kế - môn Vẽ kỹ thuật đã
được chuyên môn hóa và trở thành bộ môn hang đầu trong sản xuất công nghiệp.
Giữa thế kỷ XIX ở Đức hình thành các bảo tàng, các sưu tập, các trường nghề thủ
công mỹ nghệ bên cạnh các viện Hàn Lâm nghệ thuật cổ điển. Song nơi đi tiên phong
trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển sớm nhất trong lĩnh vực này phải kể đến
nước Anh, bởi từ cuối thế kỷ XVIII nền công nghiệp đã bắt đầu có ở đó. Ở nước Anh

đã xuất hiện các lò gốm sứ lớn và các xưởng sản xuất đồ gỗ lớn nổi tiếng Châu Âu từ
năm 1759 như Wedgwood Pottery không chỉ phục vụ riêng cho giới quý tộc mà còn
sản xuất hang loạt- như các đồ dùng bát đĩa bằng sành, sứ, gốm với hình dáng mới ở
nhiệt độ cao, tiện dụng, nhẹ nhàng, giá thành hạ.
Những yêu cầu quan trọng nhất của Design hiện đại như công năng, sự thuần khiết
và chuẩn xác – hình thành lúc khởi đầu bởi kỹ thuật sản xuất do tư bản sinh ra – nhưng
đồng thời con người làm việc lúc đó cũng còn nặng về tín ngưỡng, ít ai có được sự kích
thích nhờ vào trình độ kỹ thuật.
Nếp sống phường hội, nếp sống tiểu thị dân, cộng đồng Shaker.
- Nếp sống phường hội, tiểu thị dân.
Nếp sống phường hội và trưởng giả là một giai đoạn lịch sử trong thời gian từ năm
1814 và cuộc cách mạng tư sản Pháp 1848. Đây là một thời kỳ bình yên, sự trật tự
trong tổ chức và nếp sống văn hóa.
Giai đoạn này đã đi vào nghệ thuật tạo hình đầy thú vị nếu ta xem qua các tác phẩm
của Spitzweg hoặc Richter
Cộng đồng tôn giáo người là Shaker do một nữ công dân người Anh ở Manchester
là Ann Lee và một số cộng sự của bà tổ chức. Họ thực hiện một lối sống dựa trên
những nguyên tắc và giá trị của cộng đồng, của sự bình đẳng giữa nam và nữ, họ coi đồ
vật là sở hữu tập thể.
Tên của cộng đồng Shaker(Shaking Quakers) lấy tên từ một phong tục- tên của một
vũ hội tôn giáo. Sứ mạng sống của họ là ổn định, giản dị trong cuộc sống. Tín ngưỡng
của họ được nhấn mạnh thông qua các điều luật nghiêm ngặt trong nếp sống sinh hoạt.
Đó là sự đơn giản, sự thuần khiết trong bài trí nhà ở, cũng như cái đẹp hoàn mỹ, quần
áo và ật dụng hang ngày. Đặc điểm của người Shaker là tự tạo ra tất cả mọi vật dụng
phục vụ cho cuộc sống của họ với mọi chất lượng hoàn chỉnh nhất về công năng và
thẩm mỹ.
Người Shaker đã chế tạo và cải tiến khá nhiều sản phẩm như cưa đĩa, mắc áo(kẹp
áo), cối ép phomats, máy nghiền đồ, máy đan lát, máy đập lúa, bàn cân với quả cân
chạy theo trục ngang. Nhiều sản phẩm của người Shaker được trưng bày trong bảo tàng
nghệ thuật hiện đại New York.

Người Shaker có thái độ cởi mở, họ tiếp nhận bất kỳ một sự đổi mới nào về kỹ
thuật. Họ sản xuất ra bàn ghế vải vóc và đồ dùng để bản, sản phẩm của họ ảnh hưởng
rộng lớn ở Mỹ trong suốt thế kỷ XIX. Chất lượng mặt hang đồ gỗ của họ được ưa
chuộng dựa vào kỹ năng tinh xảo của đôi bàn tay kết hợp với sự hợp lý về công năng,
vẻ đẹp tinh tế và đặc biệt là độ bền chắc. Song dựa vào những tư tưởng thẩm mỹ và
quan niệm “tinh giản” trong đồ dùng, đặc biệt là đồ gôc của người Shaker lại trỗi dậy
trong những năm gần đây một phong cách ở nhiều nơi trên thị trường quốc tế. Hai hảng
đồ gỗ lớn Habit(Đức) và De Padova(Italia). Đã mua bản quyền để sản xuất các mẫu
trên. Châm ngôn của người Shaker : Nhịp điệu là cái đẹp, vẻ đẹp đó là cái hợp lý, trật
tự, ngăn nắp, sạch sẽ, đó là tiền đề của cái đẹp, đồ vật nào có tính ứng dụng cao nhất
thì cũng có vẻ đẹp hoàn chỉnh nhất.
2.3. Michael Thonet (1796 – 1871).
Trong một thời đại mà hình dáng của rất sản phẩm còn mang nặng dấu ấn của
phương thức sản xuất thủ công, đặc biệt là chủ các xí nghiệp sản xuất đồ gỗ đang tìm
cách thể hiện các hình dáng truyền thống cổ điển của phong cách lịch sử qua sản xuất
bằng các máy tiện, máy khắc, Michael Thonet đã biết sử dụng phương thức sản xuất
mới rất hiệu quả, đơn giản trong sản xuất đồ gỗ, cũng không sử dụng các phương pháp
sản xuất mới của kỹ thuật để sao chép các mẫu đã có sẵn mà ông đã tạo nên một
phương pháp sản xuất mới trong tạo hình đồ gỗ.
Ông đã sử dụng áp lực của hơi nước để ép các thanh gỗ dẻ gai, uốn được gỗ theo
hình dáng mới cong lượn, tạo ra hình thức mới của đồ gỗ.
Đó chính là cống hiến lớn lao mà Thonet đã đóng góp. Bàn ghế Thonet nhẹ nhàng,
giá phải chăng và tiện dụng hơn hẳn các loại bàn ghế cầu kỳ trước đây. Bàn ghế này có
thể tháo lắp, tháo rời dễ dàng và đó chính là thành công của ông và đồng thời ảnh
hưởng đến chủ nghĩa Tân công năng về sau này.
M. Thonet là một thợ thủ công, là một nhà phát minh và là một nhà kinh doanh
vùng song Rhein. Ông đã kết hợp tài tình sự chuẩn xác của tay nghề với khả năng sản
xuất công nghiệp.
Từ năm 1830, ông bắt đầu thí nghiệm sản xuất các thanh gỗ hình tròn và uốn cong
nó bằng áp lực hơi nước, Ông đã xẻ các tấm gỗ, lạng mỏng chúng ra, dán lại và tạo ra

loại gỗ ép. Bàn và ghế được sản xuất theo phương pháp này. Trong số sản phẩm – tác
phẩm của Thonet nổi bật nhất là chiếc ghế Thonet số 14 mang tên Vienna Caf(design
năm 1859) chất liệu gỗ dẻ gai, thiết kế sản xuất hang loạt. Đến nay đã bán ra trên 100
triệu chiếc. Le Corbusier đã phải thốt lên: “Chưa bao giờ có được một mẫu mực sang
trọng như thế, tuyệt hảo như thế, thật tài tình và chuẩn xác biết bao!”.
CHƯƠNG IV
CÁC PHONG TRÀO CẢI CÁCH VÀ NGHỆ THUẬT MỚI
4.1. Sự hình thành các phong trào cải cách mới.
Nửa sau thế kỷ XIX kỹ thuật lên ngôi, công nghiệp và kinh tế đạt nhiều thành tựu,
sự tăng trưởng đó tạo đà thúc đẩy mọi ngành kinh tế khác phát triển theo, mặc cho có
sự cản trở của khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 1873. Qúa trình công nghiệp hóa
đã để lại những mâu thuẫn đối kháng giữa tư sản và cô sản. Qua các hội chợ triển lãm
quốc tế, một bộ phận trí thức của giai cấp tư sản đã nhận ra được sự bế tắc cần khắc
phục về kinh tế và thẩm mỹ. Sản xuất hàng loạt theo phương pháp công nghiệp đã sản
sinh ra nhiều đồ gỗ và các sản phẩm tiêu dùng hiện đại nhưng đáng tiếc là các sản
phẩm này lại trang trí bằng các hình dáng cổ lỗ, cũ kỹ, đôi khi còn xấu xí và sao chép
các hình mẫu rẻ tiền, không hợp lý và phù phiếm. Các mẫu đồ gôc quá cồng kềnh, thô
kệch không phù hợp với điều kiện sống chật chội tại các đô thị.
Trước tình hình đó, nhu cầu cải cách đã thúc bách dư luận xã hội. Các phong trào
này đầu tiên xuất hiện ở Anh, rồi lan sang Đức với mong muốn tìm một lối thoát và bắt
đầu bằng cuộc cải cách trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ.
Mục đích của các phong trào cải cách đều giống nhau ở chổ nhằm khắc phục các
hậu quả của quá trình công nghiệp hóa và tẩy chay chủ nghĩa lịch sử, nhưng khác nhau
về phương pháp giải quyết bằng các chính sách trong kinh tế, chính trị và thẩm mỹ.
Cách tân trong tạo dáng đồ gỗ và hàng tiêu dùng thường là mục tiêu phổ biến của
các của các phong trào cải cách, bởi các phong trào này đều có chung mục đích thay
đổi và cách tân điều kiện sống, ăn, ở, lao động tại các đô thị. Ngay từ năm 1860 đã có
những công ty có tư tưởng tiến độ, họ đã xây dựng các khu nhà ở cho người lao động.
Nhà thiết kế người Anh E. Haward là người xây dựng kế hoạch đầu tiên về một dự
án có tên gọi là Thành phố vườn. Đó là ý tưởng xây dựng một thành phố nhiều cây

xanh với các khu nhà ở của cư dân có vườn cây thay thế cho các chung cư chật chội.
Những phong trào cách tân trong thủ công mỹ nghệ và trong các lĩnh vực xã hội đã
đánh dấu sự ra đời của lịch sử mỹ thuật công nghiệp, khi nhận thức của con người dần
dần thấy được mối quan hệ của nền sản xuất công nghiệp ảnh hưởng như thế nào đến
công nghệ, hình dáng, công năng và sử dụng của sản phẩm.
4.2. Chủ nghĩa lịch sử. Phong cách phô trương.
Chủ nghĩa lịch sử.
Đô thi hóa bùng nổ kéo theo nhu cầu về công ăn việc làm nhu cầu về sản phẩm
hàng loạt và rẻ tiền phục vụ cho số đông thi dân tăng nhanh. Điều đó đã trở thành một
làn song thứ hai phát triển thúc đẩy sự đi lên của phương thức sản xuất công nghiệp,
mặc dù thời điểm đó đang diễn ra một cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thứ nhất trong
khoảng thời gian từ năm 1870 – 1885.
Những tiến bộ kỹ thuật của thế kỉ XIX đã mang lại phương thức sản xuất mới,
những thiết bị với công năng mới – nhưng đến lúc này vẫn chưa có thẫm mỹ mới cho
các sản phẩm công nghiệp. Những sản phẩm cơ khí mới này về hình dáng, lúc đầu việc
sử dụng vẫn làm theo hình dáng truyền thống, bởi vậy trong vấn đề sản xuất – tạo dáng
vẫn là một khâu bất ổn. Trong lúc chưa có biện pháp, vào giữa thế kỉ người ta sao chép
lại theo phần lớn phong cách lịch sử.
Thời kỳ lãng mạn người ta lại sử dụng ngay cả phong cách Trung cổ, sự nhố nhăng
và pha tạp các yếu tố của thời kỳ Gothic, Phục hưng, Baroque đến Lãng mạn đã được
sử dụng bừa bãi trong mỹ thuật, kiến trúc và thủ công. Những hình thức pha tạp đó đã
được trang trí bằng các hoa văn do các móc đột, dập và làm vỏ bọc rẻ tiền cho các
dụng cụ kỹ thuật mới. Ngay cả đồ gỗ - như bàn ghế cũng được sản xuất theo phương
pháp công nghiệp lắp lẫn, các thanh kết cấu của chúng cũng được tiện, gọt theo các
hình trang trí tân Gothic hoặc tân Baroque, người ta sử dụng các hình dáng truyền
thống và bắt chước các sản phẩm làm bằng tay.
Phong cách phô trương
Thế hệ mới, các chủ xí nghiệp đòi hỏi phải có các hình thức mới để phô diễn sự
giàu có của mình, họ coi những thắng lợi và của cải là thước đo cho vị trí xã hội. Lúc
này, không có sự phân biệt giữa tầng lớp tư sản mới phất với giới quý tộc vua chúa, sự

giàu sang và phong cách sống bộc lộ trong phong cách đồ dùng biểu hiện trực tiếp
bằng sự phong phú của hoa văn trang trí.
Nội thất nhà cửa của nhà giàu, của tầng lớp mới phất được trang trí rườm rà, cửa sổ,
cửa kính được che bằng loại vải đắt tiền, kỳ công. Đồ gỗ phải được sử dụng loại gỗ
sẫm, nặng nề, uy nghi. Các tác phẩm mỹ thuật ưu tiên để trang hoàng và để giới thiệu
cho sự phô trương. Và dần dần thứ chủ nghĩa lịch sử đó đã được tầng lớp hạ lưu chấp
nhận. Những mẫu mã có phong cách của các thời đại khác được sao chép khắp nơi, các
xưởng thủ công và các xí nghiệp đua nhau sao chép lại để sản xuất, biến chúng thành
hang hóa hang loạt vừa rẻ vừa bầy bán ở mọi nơi!
Ở Anh, người ta ưu tiên phong cách lịch sử. Còn thời đại chiến thắng là thời đại của
sự hưng thịnh kinh tế, các hình dáng kỹ thuật được coi là vô vị, xuất xứ của kỹ thuật
trong các sản phẩm được che đậy bởi cái vỏ trang trí cũng không được coi trọng.
4.3. Triển lãm thế giới và hội chợ quốc tế.
Nửa sau thế kỉ XIX, thời đại của kỹ thuật và cơ khí hóa cũng là thời đại xuất hiện
của cuộc triển lãm quốc tế. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới tạo đà thông thương
về hang hóa. Các sản phẩm công nghiệp của các cường quốc kinh tế đã thúc đẩy sự
hình thành các thị trường hang hóa để tạo nên những cơ hội đua tranh, cũng từ đây
bùng nổ các hội chợ quốc tế( từ năm 1851).
Hội chợ triển lãm không chỉ có mục tiêu để cạnh tranh kinh tế mà còn là nơi tự
quảng cáo của mỗi quốc gia.
Hội chợ triển lãm quốc tế trở thành cái mốc cho sự phát triển công nghiệp, đồng
thời qua đó cũng bộc lộ những yếu kém và lạc hậu về kiểu dáng, năng lực cạnh tranh
của các sản phẩm công nghiệp. Ví dụ: máy khâu hiệu Singer. Isaac Singer không phải
là người phát minh ra máy khâu đầu tiên mà sự tìm tòi trên lĩnh vực này xuất hiện đầu
tiên ở Pháp và Áo. Tại triển lãm thế giới năm 1851 ở Anh, Barthelemy Thimonier đã
phát minh cũng loại máy này trước cả Singer nhưng lại mang đến cho Singer một cơ
hội về kinh tế.
Chủ nghĩa lịch sử(Historicism) bị lên án và bị coi là vật cản đối với sự phát triển.
Ông Semper, nhà lý luận về nghệ thuật ứng dụng lúc đó là người đầu tiên đã lên tiếng
cho rằng chủ nghĩa lịch sử đã lỗi thời.

Hội chợ triển lãm thế giới lần đầu tiên ở London năm 1851 là cuộc trưng bày sáng
tạo mới nhất về kỹ thuật và công nghệ chưa từng có, nó cũng báo hiệu cho thừi đại
bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp, nhưng ở hội chợ triển lãm đã bộc lộ tổng thể
sự non kém và lạc hậu của kiểu dáng và các hình thức trang trí , các mẫu mã, các hoa
văn còn quá rườm rà. Hội chợ là cột mốc của sự phát triển công nghiệp và kỹ thuật.
Trong nửa thế kỷ XIX đã có hang loạt các Hội chợ Triểm lãm quốc tế như một sinh
hoạt quan trọng của nền sản xuất công nghiệp thế giới.
Năm 1851: Triển lãm lớn thế giới đầu tiên tại London( The Great Exhibition in
London), trong cái gọi là Cung Pha Lê.(Crystal Place).
Năm 1854: Thonet giới thiệu những chiếc ghế uốn đầu tiên bằng gỗ dẻ gai tại
Munich.
Năm 1873: Vienna khủng hoảng kinh tế thế giới kết thúc thời đại của chủ xí
nghiệp.
Năm 1876: Philadelphia giới thiệu máy khâu và đồ gỗ của người Shaker.
Năm 1884: Triển lãm thế giới tại Chicago.
Năm 1889: Paris triển lãm thế giới quanh tháp Eiffel, có 28 triệu lượng người tham
quan. Trưng bày về công nghiệp ô tô.
Năm 1897: Triển lãm thế giới tại Brussel.
Năm 1900: Paris triển lãm thế giới đầu tiên về cầu thang cuốn.
Năm 1904: St. Louis giới thiệu nhân dịp thế vận hội Olimpic lần thứ 3.
4.4. William Morris và phong trào mỹ thuật mỹ nghệ.
William Morris ( 1834 – 1896 ).
Bộ mặt của chủ nghĩa lịch sử đã bộc lộ ở triển lãm thế giới 1851 tại London.
Một số người có tư tưởng cải cách mạnh mẽ nhất đấu tranh cho một quan điểm
nghệ thuật mới như William Morris. Morris nhìn thấy hậu quả của sản xuất công
nghiệp hàng loạt, đó là sự ô nhiễm môi trường, là lao động khổ sai, là hang loạt hang
hóa xấu, ông gọi đó là “công trình thống trị nhơ bẩn của chủ nghĩa tư bản và đó là kẻ
thù của nhân loại”. Với quan điểm đó, ông ngẫu nhiên trở thành người đi theo chủ
nghĩa xã hội, song cũng chưa đủ để được coi là người cách mạng.
CHƯƠNG III

CHỦ NGHĨA CÔNG NĂNG HIỆN ĐẠI VÀ NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ
3.1. Phong cách trẻ. Nghệ thuật mới.
Phong cách trẻ (Jugendstil) hay còn gọi là Nghệ Thuật mới(Art Nouveau) đã phát
triển trong thời gian từ năm 1895 đến Đại chiến thứ nhất(1914-1918)
Nó mang một phong cách quốc tế với nhiều tên gọi khác nhau. Tại Anh gọi là nghệ
thuật trang trí Art deco, tại Bỉ và Pháp gọi là Nghệ thuật mới(Art Nouveau). Ở Đức
gọi là phong cách trẻ(Jugendstil). Tại Italia mang tên là phong cách Stilo liberty, tại Áo

×