Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tranh dân gian Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.18 KB, 9 trang )

GVHD: Nguyễn Thị Hiền SVTH: Quan Văn ÚT
Bài kiểm tra giữa kỳ môn Lịch sử văn minh Việt Nam
ranh dân gian Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc lưu giữ các nét văn hóa
cổ xưa của dân tộc, làm cho đời sống tinh thần của người Việt Nam thêm
phong phú và đa dạng. Nhắc tới tranh dân gian Việt Nam không thể không nói tới
dòng tranh Đông Hồ, hay còn gọi là tranh khắc gỗ Đông Hồ. Đây là một dòng tranh
dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh). Dòng tranh này ra đời từ khoảng thế kỷ 16 và phát triển cho đến
nửa đầu thế kỷ 20 sau đó suy tàn dần. Trong các dòng tranh dân gian Tranh Đông
Hồ khá gần gũi với đại đa số dân chúng Việt Nam, nhắc tới hầu như ai cũng đều
biết. Tranh gần gũi vì nó gắn liền với làng quê, ngõ xóm, với cuộc sống lao động
của người dân bình dị, chất phát và hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn. Tranh Đông
Hồ còn mang trong mình những nét tinh túy riêng với những giá trị văn hóa to lớn.
Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân
nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Thơ Tú
Xương về tranh Đông Hồ ngày Tết có câu:
T
“Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om sòm trên vách bức tranh gà”
Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” của nhà thơ Hoàng Cầm nhắc đến đầy
tự hào và kiêu hãnh về tranh Đông Hồ như một đặc sản nghệ thuật của vùng quê
Kinh Bắc.
“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Không phải tự nhiên mà nhà thơ miêu tả như vậy. Cái làm nên nét đặc sắc
độc đáo của tranh Đông Hồ chính là ở chất liệu làm tranh, được chế biến thủ công
từ các nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên: Giấy in tranh Đông Hồ được làm từ cây
dó phủ lên một lớp phấn điệp: người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng
ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột
sắn – hồ dùng để quét nền tranh thường được nấu loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn,
hồ nấu từ bột nếp thường dùng để dán) rồi dùng chổi lá thông để quét lên mặt giấy


dó. Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo chiều đường quét và vỏ điệp tự
nhiên cho màu trắng với ánh lắp lánh những mảnh điệp dưới ánh sáng, có thể pha
thêm màu khác vào trong quá trình làm giấy điệp; Màu sắc sử dụng trong tranh là
màu tự nhiên từ cây cỏ như: Màu hồng lấy từ gạch non. Màu đỏ lấy từ sỏi son, vỏ
gỗ cây vang. Màu vàng từ hoa điệp vàng, hoa hòe, hoa vành vành. Màu đen từ lá tre
đốt, than rơm đốt. Màu trắng được nghiền từ vỏ sò, ốc. Màu xanh vỏ lá cây chàm,
từ gỉ đồng… Trên cơ sở những màu sắc cơ bản ấy người dân đã tạo thêm nhiều màu
sắc khác nhau từ việc trộn lẫn các màu. Tuy nhiên, thông thường tranh Đông Hồ
chỉ sử dụng tối đa 5 màu. Để hoàn thành một sản phẩm, không kể khâu khắc tranh
trên bản gỗ, có sẵn giấy và màu, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận trong

1
GVHD: Nguyễn Thị Hiền SVTH: Quan Văn ÚT
Bài kiểm tra giữa kỳ môn Lịch sử văn minh Việt Nam
từng giai đoạn: sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quết điệp rồi lại phơi giấy
cho khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu có 5 màu thì 5 lần in,
mỗi lần in là một lần phơi… Cứ thế, dưới ánh sáng mặt trời lấp lánh từng hình ảnh,
đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt của người dân, những hình ảnh
của cuộc sống thường ngày ... như “bừng” sáng trên giấy dó. Mọi giai đoạn đều thật
công phu nên đòi hỏi người làm tranh luôn cẩn trọng, cầu kì, chú ý đến từng chi tiết
nhỏ để có được một bức tranh đẹp.
Tranh Đông Hồ - Đấu Vật
Nguồn: www. vi.wikipedia.org
Ngoài ra tranh được in rất công phu, in hoàn toàn bằng tay với các bản màu;
mỗi màu dùng một bản, và bản nét (màu đen) in sao cùng. Nhờ cách in này, tranh
được sản xuất với số lượng lớn và không đồi hỏi kỷ năng cầu kỳ nhiều. Tuy nhiên,
vì in trên ván gỗ một cách thủ công nên tranh bị hạn chế về kích thướt, thông
thường các tờ tranh không lớn qua 50 cm mỗi chiều. Vào thế kỷ 16 tranh Đông Hồ
xuất hiện nhưng không ai thống kê hết có bao nhiêu mẫu tranh mà chỉ biết gồm có 5
loại là: Tranh thờ: bộ ngũ sắc; Tranh lịch sử: Hai Bà Trưng, Bà Triệu,…; Truyện

tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiều, Thạch Sanh…; Tranh chúc tụng: Vinh hoa – Phú
quý, Nghi xuân, Gà đàn…; Tranh sinh hoạt: Đánh Ghen, Chăn Trâu Thổi Sáo, Nhà
Nông, Đám Cưới Chuột…Với các bức tranh có phần chữ Hán đi kèm thì thì ý nghĩa
sáng tỏ hơn bao giờ hết. Ví dụ như tranh Nhân nghĩa vẽ hình em bé ôm con Cóc có
chú thích chữ “nhân nghĩa” ấy chính là lời cầu chúc cho các cháu bé được tặng
tranh có được cái Nhân, cái Nghĩa như con Cóc trong truyện cổ: mình mẩy tuy có
thể xấu xí, bé nhỏ song dám lên kiện cả ông trời để đòi mưa cho dân làng. Chính vì
vậy tranh vẽ hình em bé ôm con Cóc một cách trìu mến. Không có sự giải thích nội

2
GVHD: Nguyễn Thị Hiền SVTH: Quan Văn ÚT
Bài kiểm tra giữa kỳ môn Lịch sử văn minh Việt Nam
dung tranh trở nên khó hiểu vì ai mà bồng bế một con cóc bao giờ. Các tranh khác,
đặt biệt là tranh sinh hoạt thì có nhiều cách giải thích hơn, cho tới nay có những
cách phân thích khác nhau hoàn toàn (ví như tranh Đánh ghen).
Tranh Đông Hồ - Nhân Nghĩa
Nguồn: www. vi.wikipedia.org
Tranh Đông Hồ có đặc điểm thường là những hình ảnh sung túc như Đám
cưới chuột, cảnh trai gái cùng nhau hái dừa, cánh cá chép nhiều màu vẩy đuôi…thể
hiện mong muốn về sự sung túc.
Từ cuối thế kỷ XIX đến 1944 là thời kì cực thịnh của làng tranh. Lúc ấy,
trong làng có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh. Đến hẹn lại lên, cứ khoảng tháng
7, tháng 8 hàng năm là cả làng đã tất bật để chuẩn bị cho mùa tranh Tết, khắp làng
rực rỡ sắc màu của giấy điệp, không một mảnh đất trống nào không được người dân
làng Hồ tận dụng để phơi giấy: từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm, đường làng,
dọc theo triền đê cho đến các nóc nhà, nóc bếp….Không khí trong làng rộn ràng từ
sáng đến tối suốt mấy tháng liền như thế.

3
GVHD: Nguyễn Thị Hiền SVTH: Quan Văn ÚT

Bài kiểm tra giữa kỳ môn Lịch sử văn minh Việt Nam
Mỗi năm, chợ tranh chỉ nhộn nhịp và tấp nập nhất vào tháng Chạp, họp 5
phiên vào các ngày 6, 11,16, 21 và 26. Bà con, du khách thập phương đổ về mua
tranh đông vui, tấp nập. Hàng nghìn, hàng triệu bức tranh các loại được mang ra
xếp gọn lại bán cho những lái buôn, hoặc bán lẻ cho các gia đình mua về làm tranh
treo tết để mang phú quý, vinh hoa cho nhà mình. Sau phiên chợ tranh cuối cùng
(26/12 âm lịch) những gia đình nào còn lại tranh đều bọc kín đem cất đi chờ đến
mùa tranh năm sau lại mang ra chợ tranh bán. Đến chợ tranh làng Hồ không chỉ có
khách buôn và mua tranh, mà có cả những người hâm mộ nghệ thuật tranh dân gian
thích thăm thú, xem tranh và đi trảy hội mùa xuân.
Tranh Đông Hồ - Đám Cưới Chuột
Nguồn: www.thuvienkhoahoc.com
Tranh Đông Hồ có được sức sống lâu bền và có sức cuốn hút đặc biệt với
nhiều thế hệ con người Việt Nam cũng như du khách nước ngoài cũng bởi những đề
tài trên tranh phản ánh đậm chất cuộc sống mộc mạc, giản dị, gần gũi gắn liền với
văn hoá người Việt. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã giải thích về ý nghĩa của việc
dùng màu sắc sao cho phù hợp với mỗi đề tài khác nhau: nền màu đỏ cho tranh
đánh ghen để lột tả được cái nóng giận bực bội ngột ngạt của không khí lúc đó, nền
màu vàng cho cảnh vui tươi tràn ngập sắc xuân trên các bức tranh ngày tết, nền màu
hồng nhạt cho tranh làng quê yên bình …
Đôi khi những bức tranh Đông Hồ còn được những nghệ nhân trang trí kèm
theo những từ chỉ dẫn hoặc những tứ thơ tình tứ, lãng mạn, cứ bóc tách từng lớp

4
GVHD: Nguyễn Thị Hiền SVTH: Quan Văn ÚT
Bài kiểm tra giữa kỳ môn Lịch sử văn minh Việt Nam
nang văn hoá hiện trên mỗi bức tranh Đông Hồ cũng đủ cho chúng ta thấy vốn liếng
văn hoá Việt thuần khiết và trong sáng, đa dạng và vô cùng độc đáo. Các nghệ nhân
Đông Hồ đã chuyển hóa những lời hay - ý đẹp, những kinh nghiệm đúc rút trong
cuộc sống từ ngàn đời để lại vào tranh dân gian với những cách thể hiện rất riêng.

Những ai đã yêu thích tranh Đông Hồ hẳn rất quen thuộc với các tranh gà:
Gà mẹ con, gà đại cát, gà dạ xướng, kê cúc. Chẳng hạn bức "Gà thủ hùng".
Theo sử sách xưa kể lại, vào khoảng năm 1915 cụ Chánh Hoàn gả con gái
cho một anh Phán, Cụ Đám Giác ( tên thật là Nguyễn Thể Thức (1882 - 1943) là
một nghệ nhân sáng tác nổi tiếng của Đông Hồ. Ngoài tranh về cuộc sống ở nông
thôn cụ còn vẽ nhiều tranh truyện tranh phong cảnh, tranh tố nữ...) đã mừng đám
cưới bằng một mẫu tranh mới: một gia đình gà gồm gà trống, gà mái và đàn con.
Tranh Đông Hồ - Gia Đình Gà
Nguồn: http.img79.imageshack.us
Bằng ngôn ngữ ước lệ, các con gà được cách điệu hóa, chúng sống động mà
không cần giống thực. Gà mái có bố cục theo đường xoắn ốc - tạo nên sự nũng nịu.
Gà trống được đặt trong một hình thang, đáy lớn nằm trên - tạo nên tư thế chủ gia
đình, che chở cho gà mái và đàn con. Bức tranh gợi không khí hạnh phúc, đầm ấm
trong một gia đình. Trên tranh có dòng chữ nôm "Lắm con nhiều cháu, giống cánh
giống lông" một lời chúc thật sâu sắc! Bức tranh này được xây dựng từ câu phương

5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×