Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Tìm hiểu một số ảnh hưởng của yếu tố môi trường lên sự tạo protocorn và sự sinh trưởng phát triển của vanda in vitro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 116 trang )

Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
1
Chương 1
GIỚI THIỆU VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 Giới thiệu
1.1.1 Đặt vấn đề
Nhân giống và bảo quản các giống cây trồng có giá trò kinh tế là một việc
làm cần thiết để phát triển nông nghiệp. Để phục vụ cho công tác nhân giống, trước
đây các phương pháp truyền thống thường được sử dụng như : tách, chiết, giâm
cành, … cho hệ số nhân thấp và cây giống dễ bò thoái hoá qua một số thế hệ. Hiện
nay kỹ thuật nhân giống in vitro được tiến hành nghiên cứu và đưa vào áp dụng
trong thực tiển sản xuất và đã thành công đối với nhiều loại cây khác nhau. Ưu
điểm của kỹ thuật này là cho sự đồng nhất về kiểu hình, tính di truyền ổn đònh, tạo
cây sạch bệnh, cho hệ số nhân lớn trong thời gian ngắn mà không phụ thuộc vào
thời tiết trong năm, giúp cây thu hoạch đồng loạt. Phương pháp nhân giống in vitro
đã mởø ra một hướng phát triển mới trong ngành nông nghiệp giúp thúc đẩy tăng sản
lượng, chất lượng cây giống tốt, đảm bảo nhu cầu người sản xuất và tiêu dùng.
Với mức sống ngày càng cao của con người, bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu
về ăn, mặc thì việc thõa mãn nhu cầu về tinh thần là không thể thiếu. Trong nông
nghiệp, nếu các loài cây có giá trò kinh tế như: cây lương thực, cây công nghiệp, cây
ăn quả có vai trò nuôi sống con người thì cây hoa kiểng đóng vai trò quan trọng
trong đời sống tinh thần con người. Nó biểu tượng cho vẻ đẹp, cho hạnh phúc và sức
sống của con người. Hiện nay hoa được sử dụng rộng rãi khắp nơi vào nhiều dòp
như: lễ, tết, hội họp, … Do vậy, việc phát triển cây hoa và xây dựng hoàn thiện quy
trình nhân nhanh các giống cây hoa là một việc làm cần thiết.
Hoa lan Vanda đẹp, đa dạng màu sắc, hình dạng, dùng làm hoa cắt cành hoặc
trồng chậu, rất thích hợp với vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ở nước ta. Tuy nhiên,


sự phát triển các vườn sản xuất lan Vanda còn ở quy mô nhỏ, không đủ cung ứng
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
2
cho thò trường nội đòa. Nguyên nhân chính là do hệ số nhân giống bằng phương pháp
cổ điển còn rất thấp, qua nhiều thế hệ khả năng truyền bệnh cao. Hạt lan quá nhỏ,
không chứa chất dự trữ và chỉ có một phôi chưa phân hoá nên tỉ lệ nẩy mầm rất
thấp. Trong khi đó, thò trường hoa đòi hỏi chặt chẽ sự đồng nhất về màu sắc, về kích
cỡ và phải sạch bệnh. Trứơc thực tế đó, việc ứng dụng phương pháp nhân giống in
vitro vào nhóm lan Vanda là điều rất cần thiết, để lan Vanda có thể cạnh tranh với
các loài hoa khác ở thò trường trong nước, khu vực và trên thế giới.
Được sự cho phép của bộ môn Di Truyền Giống – khoa Nông Học – Trường
Đại Học Nông Lâm TP, Hồ Chí Minh. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “
Tìm
hiểu ảnh hưởng của một số yếu tố môi trường lên sự tạo protocorm và sự sinh
trưởng phát triển của Vanda in vitro”.

1.1.2 Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.1.2.1 Mục đích
Tìm hiểu ảnh hưởng của một số yếu tố của môi trường nuôi cấy lên sự tạo
protocorm và sự sinh trưởng phát triển của lan Vanda invitro.

1.1.2.2 Yêu cầu
- Xác đònh nồng độ chất kích thích sinh trưởng, đường, nước dừa, khoai tây
thích hợp nhất trong môi trường nuôi cấy lên sự tạo protocorm và sinh trưởng phát
triển của lan Vanda invitro.
- Theo dõi các chỉ tiêu trong quá trình thí nghiệm: số chồi, số rễ, chiều cao
cây, cây tốt hay xấu, số lá, …




1.2 Tổng quan tài liệu
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
3
1.2.1 Giới thiệu về nuôi cấy in vitro
1.2.1.1 Khái niệm
Nhân giống in vitro hay nuôi cấy mô đều là thuật ngữ mô tả các phương thức
nuôi cấy các bộ phận thực vật trong ống nghiệm có chứa môi trường xác đònh ở điều
kiện vô trùng. Môi trường có các chất dinh dưỡng thích hợp như muối khoáng,
vitamin, các hormon tăng trưởng và đường.
Kỹ thuật nuôi cấy mô cho phép tái sinh chồi hoặc cơ quan (sự phát sinh cơ
quan) từ các mô như: lá, thân, hoa, hoặc rễ.
♦ Vai trò và ý nghóa
Nhân giống in vitro hay vi nhân giống (micropropagation) là một trong 4 lónh
vực chính của công nghệ tế bào thực vật đã mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mục đích
Duy trì và nhân nhanh các kiểu gen quý hiếm thuộc các loại cây lương thực,
các loại rau, hoa, cây cảnh, cây dược liệu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp.
Làm sạch các bệnh do virus bằng cách nuôi cấy đỉnh sinh trưởng.
Bảo quản ngân hàng gen các giống cây trồng.

Ưu điểm
Tính khả thi rộng
Tốc độ nhân giống cực kỳ cao

Có tiềm năng công nghiệp hóa cao

1.2.1.2 Lòch sử và thành tựu đạt được trong nuôi cấy mô
a) Trên thế giới
Ý kiến nuôi cấy mô của sinh vật ra ngoài cơ thể, trong ống nghiệm đã được
nhà thông thái Haberlandt thử rất sớm từ những năm 1902 nhưng ông đã dùng tế
bào quá chuyên biệt nên không thành công. Mô động vật được cấy trước tiên, do A.
Carrel (1919), đến năm 1934 mô thực vật mới được cấy.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
4
Năm 1934, White đã thành công trong việc phát hiện ra sự sống vô hạn của
việc nuôi cấy tế bào rễ cà chua.
Năm 1964, Ball là người đầu tiên tìm ra mầm rễ từ việc nuôi cấy chồi ngọn.
Ôâng đã thành công trong việc chuyển cây non của cây sen cạn và cây white lupin từ
môi trường nuôi cấy tối thiểu. Tuy nhiên, việc nhân giống cây vẫn chưa hoàn thiện.
Sau đó nhiều nhà nghiên cứu đã khám phá ra những thành phần dinh dưỡng quan
trọng cần thiết cho sự phát triển của tế bào được nuôi cấy (White (1951), Gauthere
(1939), Van Overbeck (1941), Steward và Caplin (1951)).
Năm 1951, Skoog và Miller đã phát hiện ra các hợp chất có thể điều khiển sự
nhân chồi.
Năm 1962, Murashige và Skoog đã cải tiến môi trường nuôi cấy đánh dấu
một bước tiến trong kỹ thuật nuôi cấy mo. Môi trường của họ dùng làm cơ sở cho
việc nuôi cấy nhiều loại cây và vẫn còn được sử dụng rộng rãi cho đến nay.
Năm 1960 – 1964, Morel cho rằng có thể nhân giống vô tính lan bằng nuôi
cấy đỉnh sinh trưởng. Từ kết quả đó, lan được xem là cây nuôi cấy mô đầu tiên được
thương mại hoá. Từ đó đến nay, công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật đã được
phát triển với tốc độ nhanh trên nhiều cây khác (Haramaki (1971), Murashige

(1972), Miller và Murashige (1976)) và được ứng dụng thương mại hoá.
b) Ở Việt Nam
Nuôi cấy mô và tế bào thực vật được phát triển ở Việt Nam ngay sau khi
chiến tranh kết thúc (1975). Phòng thí nghiệm nuôi cấy mô và tế bào đầu tiên được
xây dựng tại vòên Sinh vật học, viện Khoa học Việt Nam (KHVN) do tiến só Lê Thò
Muội đứng đầu. Bước đầu phòng tập trung vào nghiên cứu các phương pháp nuôi
cấy cơ bản trong điều kiện Việt Nam như nuôi cấy bao phấn, nuôi cấy mô sẹo và
protoplast. Các kết quả đầu tiên về nuôi cấy thành công bao phấn lúa và thuốc lá
được công bố vào năm 1978 (Lê Thò Muội và cs,, 1978; Lê Thò Xuân và cs,, 1978).
Tiếp đó là thành công về nuôi cấy protoplast ở thuốc lá và khoai tây (Lê Thò Muội
và Nguyễn Đức Thành, 1978; Nguyễn Đức Thành và Lê Thò Muội, 1980, 1981).
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
5
Trong cùng thời gian, tại phân viện KHVN ở thành phố Hồ Chí Minh và muộn hơn
nữa là ở tại Đại học Nông Nghiệp I (ĐHNNI), Hà Nội và viện Khoa Học Kỹ Thuật
Nông Nghiệp Việt Nam (KHKTNNVN) và các phòng thí nghiệm cấy mô và tế bào
củng được thành lập và chủ yếu tập trung vào vi nhân giống khoai tây. Đến nay
chúng ta đã có rất nhiều phòng thí nghiệm cấy mô không những ở các trường Đại
học, các viện nghiên cứu (viện Di Truyền Nông nghiệp /DTNN/, viện Rau quả trung
ương /RQTƯ/) mà cả ở một số tỉnh và cơ sở sản xuất (Yên Bái, Hưng Yên, Thanh
Hoá, Nghệ Tónh, Cần Thơ, …).
Từ giữa những năm 80 trở lại đây, các hướng nghiên cứu ứng dụng nuôi cấy
mô và tế bào thực vật được phát triển mạnh. Những kết quả khích lệ đã đạt được
trong lónh vực vi nhân giống khoai tây (viện Công Nghệ Sinh Học /CNSH/, ĐHNNI,
viện KHKTNNVN), dứa, chuối, mía (viện CNSH, ĐHNNI, viện DTNN, viện
KHKTNNVN, viện RQTƯ) một số cây hoa phong lan (phân viện CNSH thành phố
Hồ Chí Minh), Hồng, Cúc, Cẩm chướng (viện CNSH, viện DTNN) và cây công

nghiệp như bạch đàn (viện DTNN, viện Lâm Nghiệp). Một số kết quả bước đầu đã
được ghi nhận trong lónh vực chọn dòng tế bào như chọn dòng tế bào kháng bệnh
(Lê Bích Thủy và cs,,1994), chọn dòng chòu muối, chòu mất nước (Nguyễn Tường
Vân và cs,, 1994; Đinh Thò Phòng và cs,, 1994). Các kết quả về dung hợp cây lai tế
bào chất và chuyển gen lục lạp củng thu được kết quả lí thú (Nguyễn Đức Thành và
cs,, 1988; Nguyễn Đức Thành và cs,,1993, 1997). Nuôi cấy bao phấn để tạo dòng
thuần đã được ứng dụng nhiều ở viện CNSH và DTNN. Nuôi cấy các cây dược liệu
quý để bảo tồn nguồn gen và tạo các dòng tế bào có hàm lượng các chất sinh học
quan trọng cao cũng đã (Phan Huy Bảo và Lê Thò Xuân, 1988) và đang được phát
triển (Phan Thò Bảy và cs. 1995).
1.2.1.3 Các giai đoạn nhân giống in vitro
Cho tới nay việc nhân giống in vitro đã được áp dụng cho nhiều loài cây (350
loài), Murashige (1974) đã chia quy trình nhân giống làm 4 giai đoạn:
- Nuôi cấy khởi đầu, tái sinh chồi, cụm chồi.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
6
- Nhân nhanh chồi, cụm chồi trong điều kiện in vitro.
- Tạo cây con hoàn chỉnh, huấn luyện cây con.
- Phục hồi, chuyển cây ra trồng trong điều kiện tự nhiên.

1.2.1.4 Các phương pháp nhân giống in vitro
a) Nuôi cấy đỉnh sinh trưởng
Một phương thức dễ dàng nhất đạt được mục tiêu trong nuôi cấy mô tế bào
thực vật là nuôi cấy đỉnh sinh trưởng (bao gồm nuôi cấy chồi đỉnh và chồi bên).
Sau khi vô trùng, mẫu sẽ được nuôi cấy trên môi trường thích hợp chứa đầy
đủ chất dinh dưỡng khoáng vô cơ và hữu cơ hoặc môi trường khoáng có bổ sung
chất kích thích sinh trưởng thích hợp. Từ một đỉnh sinh trưởng, sau một khoảng thời

gian nuôi cấy nhất đònh mẫu sẽ phát triển thành một chồi hay nhiều chồi. Chồi tiếp
tục phát triển vươn thân, ra lá và rễ để trở thành một cây hoàn chỉnh. Cây con dïc
chuyển dần ra đất và thích nghi bình thường.
b) Nuôi cấy mô sẹo
Mô sẹo là một khối tế bào phát triển vô tổ chức, hình thành do sự phản phân
hoá của các tế bào đã phân hoá. Mô sẹo sẽ phát triển nhanh khi môi trường có sự
hiện diện của auxin. Khối mô sẹo có khả năng tái sinh thành cây con hoàn chỉnh
trong điều kiện môi trường không có chất kích thích tạo mô sẹo.
Nuôi cấy mô sẹo được thực hiện đối với các loại thực vật không có khả năng
nhân giống thông qua nuôi cấy đỉnh sinh trưởng. Cây tái sinh từ mô sẹo có đặc tính
giống như cây me. Từ một cụm tế bào mô sẹo có thể tái sinh cùng một lúc nhiều chồi
hơn là nuôi cấy đỉnh sinh trûng, tuy nhiên mức độ biến dò tế bào soma lại cao hơn.
c) Nuôi cấy tế bào đơn
Khối mô sẹo được nuôi cấy trong môi trường lỏng và được đặt trên máy lắc
có tốc độ điều chỉnh thích hợp sẽ tách ra thành nhiều tế bào riêng lẻ gọi là tế bào
đơn. Tế bào đơn được lọc và nuôi cấy trên môi trường đặc biệt để tăng sinh khối.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
7
Với các cơ chất thích hợp được bổ sung vào trong môi trường tế bào có khả
năng sản xuất các chất có hoạt tính sinh học.
Sau một thời gian nuôi cấy kéo dài trong môi trường lỏng tế bào đơn được
tách ra và trải trên môi trường thạch.
Khi môi trường thạch có bổ sung auxin, tế bào đơn phát triển thành từng cụm
tế bào mô sẹo.
Khi môi trường thạch có tỷ lệ cytokinine/auxin thích hợp, tế bào đơn có khả
năng tái sinh thành cây con hoàn chỉnh.
d) Nuôi cấy protoplast- chuyển gen

Protoplast (tế bào trần) là tế bào đơn được tách lớp vỏ cellulose, có sức sống
và duy trì đầy đủ các chức năng sẳn có.
Trong điều kiện nuôi cấy thích hợp, protoplast có khả năng tái sinh màng tế
bào, tiếp tục phân chia và tái sinh thành cây hoàn chỉnh (tính toàn thể ở thực vật).
Khi tế bào mất vách và tiến hành dung hợp, hai protoplast có khả năng dung
hợp với nhau tạo ra tế bào lai, đặc tính này cho phép cải thiện giống cây trồng. Quá
trình dung hợp protoplast có thể được thực hiện trên hai đối tượng cùng loài hay
khác loài.
e) Nuôi cấy hạt phấn đơn bội
Hạt phấn ở thực vật được nuôi cấy trên những môi trường thích hợp tạo thành
mô sẹo. Mô sẹo này được tái sinh thành cây hoàn chỉnh là cây đơn bội.



1.2.1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến nhân giống in vitro
a) Sự lựa chọn mẫu cấy
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
8
Nói chung, mô non như chồi đỉnh, chồi nách hay chồi bất đònh sẽ tái sinh tốt
hơn mô già của cùng một cây. Chồi hoa non hay cụm hoa non cũng thường có khả
năng tái sinh rất tốt.
Mẫu cấy thích hợp cho nuôi cấy in vitro phải có tỉ lệ lớn mô phân sinh hiện
diện hay những tế bào có khả năng biểu hiện tính toàn thể.
b) Môi trường nuôi cấy
Công thức môi trừơng của Murashige và SKoog (1962, MS) là thích hợp cho
phần lớn các môi trường nuôi cấy in vitro. Để tạo chồi nách thường yêu cầu nồng độ
tương đối thấp của auxin và cytokinine.

Sự lựa chọn môi trường rắn hay môi trường lỏng là rất cần thiết. Agar đỡ cây
và cho phép sự thoáng khí, nhưng có thể làm giảm sự tiếp xúc của cây mầm để hấp
thu dinh dưỡng. Có thể sử dụng môi trường lỏøng trên máy lắc khoảng 30vòng/phút
hay sử dụng môi trường lỏng với dung tích nhỏ trong bình chứa có lắc hoặc không
lắc.
c) Điều kiện nuôi cấy
♦ Ánh sáng
Mẫu cấy ở trên môi trường có chứa một nguồn năng lượng sẳn có là đường,
được sử dụng ít hay nhiều là tùy khả năng quang hợp của cây.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy ánh sáng hấp thụ đóng vai trò quan
trọng tạo hình cây nuôi cấy in vitro. Ánh sáng đỏ và xanh của quang phổ trông thấy
ảnh hưởng đến việc nuôi cấy in vitro.
Việc nuôi cấy mô tốt nhất trong điều kiện ánh sáng khoảng 1000lux. Trong
giai đoạn chuẩn bò cây in vitro trước khi đem trồng ngoài vườn ươm, cần cường độ
ánh sáng trong khỏang từ 3000lux đến 10,000lux.

♦ Nhiệt độ
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
9
Nhiệt độ có ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của cây nuôi cấy
in vitro. Nhiệt độ tối ưu cho nhiều loại cây trồng trong khoảng 20 – 25
o
C. Một số
loài cây cần có nhiệt độ tối ưu để tạo hình.
d) Môi trường in vitro
Môi trường in vitro là môi trường trên và dưới mặt thạch trong bình nuôi cấy,
có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển hình thái của cây in vitro. Một số vấn đề

của cây in vitro là mức độ quang hợp thấp, không cân bằng CO
2
, mức hấp thu và
vận chuyển dinh dưởng hạn chế, … Vì vậy, cây con in vitro thường sinh trưởng
chậm. Nên khi tiến hành nhân giống in vitro cần phải tiến hành những vấn đề trên.

1.2.1.6 Những trường hợp thường gặp trong nuôi cấy
a) Tính bất đònh về mặt di truyền
Tính bất đònh về mặt di truyền là do tác động của một số chất kích thích sinh
trưởng. Tần số biến dò thường khác nhau và không lặp lại .
Việc nuôi cấy mô sẹo tế bào đơn thường cho tần số biến dò cao hơn so với
nuôi cấy đỉnh sinh trưởng .
Tần số biến dò xảy ra phụ thuộc vào các yếu tố: kiểu di truyền hay giống cây
trồng, loại mô cấy và số lần cấy chuyền nhiều hay ít.
b) Sự nhiễm mẫu
♦ Mẫu nhiễm virus: Nên sử dụng mẫu nuôi cấy là mô phân sinh đỉnh thì có
thể loại bỏ được virus.

Mẫu nhiễm vi khuẩn
Có thể sử dụng kháng sinh như Penicillin, Ampicillin … với nồng độ khác
nhau tuỳ vật liệu nuôi cấy .

Sự nhiễm mẫu do nấm
Không giữ mẫu được do bào tử phát tán mạnh.
♦ Sự hoá thuỷ tinh thể
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
10

Là một dạng bệnh lý của cây, thân lá cây trong suốt và chứa nhiều nước, khó
nhân giống. Một số phương pháp hạn chế quá trình hoá thuỷ tinh thể bằng cách tăng
nông độ đường hoặc giảm nồng độ đạm trong môi trường nuôi cấy, tạo thông gió,
tăng ánh sáng hay giảm nhiệt độ phòng nuôi cấy …
♦ Sự hoá nâu
Làm hạn chế sự sinh trưởng và phát triển của cây. Do trong mẫu nuôi cấy
mô chứa nhiều chất tannin hay hydroxyphenol (có nhiều trong mô già hơn mô non)
gây độc cho cây. Chống hoá nâu bằng cách thêm vào môi trường nuôi cấy các chất
hấp thu và khử độc như than hoạt tính (1 – 2g/l) vài giờ trước khi cấy, ngoài ra có
thể sử dụng mẫu cấy nhỏ từ mô non trẻ, gây vết thương nhỏ khi vô trùng mẫu cấy
hoặc nhiễm mẫu từ môi trường có chất kích thích sinh trưởng từ thấp đến quá cao.

1.2.1.7 Các chất điều hoà sinh trưởng thực vật trong nuôi cấy tế bào
Sự hiện diện của các hormone thực vật đã được khám phá ra từ cuối thế kỷ
20. Có nhiều công trình nghiên cứu nối tiếp nhau làm nổi bật sự hiện diện của
chúng, nhưng chúng chỉ được nhận dạng một thời gian sau. Chính chất auxin được
khám phá đầu tiên vào năm 1934, tiếp đến là các chất gibberelin và chất cytokinine
vào những năm 1950. Ba loại hormone này có một hoạt động kích thích sự chuyển
hoá của tế bào; người ta cũng có những chất ức chế có nguồn gốc phenol. Sau cùng
chất ethylen, tạo nên khí, đã được nhân ra như một chất điều hoà tăng trưởng một
khi các phương tiện về đònh lượng đã cho phép người ta dò tìm ra chúng trong các cơ
quan thực vật. Chất này có thể có một hoạt động kích thích hoặc ức chế tùy theo
liều lượng sử dụng.



a) Auxin
Luận văn tốt nghiệp



SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
11
Auxin được khám phá ra do các thí nghiệm thực hiện trên các phản ứng về
đường cong của loài coleoptiles họ graminae. Tên của nó như vậy vì nó cần thiết
cho hoạt động của tế bào.
Đây là một chất có nhân indole, có công thức nguyên là: C
10
H
9
O
2
N, tên của
nó là axid indole - β - acetique.
♦ Tính chất sinh lí của auxin
Auxin can thiệp vào nhiều hiện tượng sinh lí, hoạt động của nó tuỳ thuộc vào
nồng độ và sự hỗ tương qua lại của chúng với các chất điều hoà khác. Trong lúc
khảo sát các hiệu quả riêng lẻ khác, chúng ta có thể lưu ý:
- Một tác động rỏ ràng trên sự kéo dài tế bào.
- Một sự thay đổi về tính thẩm thấu của màng tế bào.
- Một hoạt động tổng quát trên sự chuyển hoá và đặc biệt nhất là trên sự
tổng hợp ARN robosomique.
- Một sự kích thích về sự phân chia tế bào đối với các tế bào nguồn gốc
cambium.
- Một hoạt động trên sự tổng hợp chất ethylene bắt đầu từ một vài nồng độ;
chất ethylen tham gia trong giai đoạn trở về để điều chỉnh tỉ lệ chất auxin, ít nhất ở
mức độ chuyên chở.
- Một hoạt động các phản ứng về tăng trưởng và trong các sự hổõ tương giữa
các cơ quan với nhau, đặc biệt là hiện tượng về tính ưu thế của chồi non.
- Một hiệu quả trễ trong sự rụng lá và trái.
- Cuối cùng một hoạt động ra rễ rõ ràng đã được khám phá từ lâu trong lónh

vực thực tiễn, ở đây các hormone ra rễ thường được sử dụng.
Các hiệu quả này không thể do một tác động duy nhất của auxin, các hiệu
quả khác chứng tỏ rằng: các nồng độ tối ưu thì khác nhau, đối với mỗi loại tác động;
giá trò tối ưu này có thể xê dòch tuỳ theo nồng độ của các chất điều hoà khác.
♦ Auxin trong cây trồng
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
12
Tất cả các cây trồng đều tổng hợp được chất auxin dạng tổng hợp tuỳ theo
giai đoạn phát triển của chúng. Sự tinh luyện chất auxin ở mức độ lá rất non, trong
các chồi đang hoạt động, ở mức độ phát hoa và ở trên các quả còn non.
Auxin lưu thông từ đỉnh xuống phần dưới các cơ quan với một sự phân cực rõ
ràng được nhìn rõ trên các cơ quan thực vật còn non, nhưng trong quá trình chuyển
vận này, chúng bò thoái hoá bởi sự auxin- axydases, điều này cho thấy các nồng độ
auxin thì luôn luôn cao hơn gần với những nơi tổng hợp ra chúng. Như vậy auxin
hiện diện với nồng độ vừa đủ ở mức độ các điểm tăng trưởng hoặc ở phát hoa để
bảo đảm sự nhân giống và sự kéo dài tế bào.
♦ Các chất auxin tổng hợp
Ngay từ khi chất auxin được nhận dạng, có nhiều chất có cấu trúc gần nhau
và giống nhau về mặt hoá học đã được thí nghiệm. Một vài chất này đã thể hiện
các đặt tính tương tự như các đặc tính của chất auxin, nhưng thường với các liều
lượng thấp hơn, hơn nữa, chúng ít bò kiểm soát bởi các enzyme; chúng có thể có một
hoạt động kéo dài.
Trong số những chất được sử dụng, chúng ta có thể kể ra các chất chính sau
đây:
- Axid indolylbutirique (AIB)
- Axid naphtylacetique (ANA) hoặc là các chất dẫn xuất của chúng như:
. Axid naphtyloxyacetique (ANOA)

. Axid naphtlacetamine (NAD)
. Axid 2,4 dichrolophen - oxyacetique (2,4 D)
Trong thực tế, auxin có thể được sử dụng, nó ít độc nhưng cũng ít hiệu quả
bởi vì nó bò kiểm soát rất nhanh, chính vì vậy mà các chất tổng hợp đã thay thế chất
auxin, mặt dù các nguy hại về độc tính thì cao hơn.
Trong những ứng dụng thực tiễn, các chất có cấu trúc auxin được sử dụng để
giâm cành, chúng cũng được tìm thấy trong các ứng dụng quan trọng như ngành cây
ăn quả để làm sáng các quả, sự đậu quả hoặc còn để làm chậm sự thu hoạch quả.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
13
Trong lónh vực nuôi cấy in vitro, những chất giống được sử dụng và auxin đã
chiếm một vò trí quan trọng hơn, hai tính chất của chúng được nghiên cứu thuộc về
lónh vực nhân tế bào và hiệu quả ra rễ.
b) Gibberelin
Gibberelin, cũng như chất auxin, đã nổi bật rất lâu trước khi được nhận dạng.
Những sự quan sát đầu tiên (1926) đã được thực hiện trên các cây lúa được tấn công
bởi một loại nấm (gibberella); các thân lúa này có các đốt dài hơn nhiều. Các dòch
chiết nhày của loại nấm này cũng gây ra cùng triệu chứng trên; từ đó ý tưởng về sự
hiện diện của một chất có trách nhiệm về các hiệu quả này.
Chất Gibberela đầu tiên được nhạân dạng là axid gibberelique hoặc là GA
3
.
♦ Tính chất sinh lí của gibberelin.
Một hoạt động rõ ràng trên sự kéo dài của các đốt cây.
Trong nuôi cấy mô, gibberelin có tác dụng đối với nhiều đỉnh sinh trưởng,
nếu thiếu gibberelin các đỉnh sinh trưởng thể hiện dạng hình cầu tạo nên các mắc
cây.

Có một hiệu quả kích thích trên sự chuyển hoá, bởi vì chúng làm thuận lợi
cho sự tổng hợp chất enzyme ly giải.
Một hoạt động phức tạp trên sự ra hoa: thực tế, trong trường hợp cảm ứng
hoa, các gibberelin thường là các chất ức chế; trái lại, đối với các cây cần lạnh để
ra hoa, sự ứng dụng gibberelin cho phép cây ra hoa mà trong lúc vắng nhiệt độ lạnh.
Các gibberelin cũng có một tác động trên sự đậu trái của các trái không hạt.
Một hoạt động cũng phức tạp trong việc làm thức giấc các chồi, mầm ngủ trên các
hạt giống.
Cuối cùng là trong lónh vực sinh tạo cơ quan thực vật, gibberelin cho thấy các
hoạt động đối kháng: chúng dường như đối ngòch với hiện tượng phân hoá tế bào.
Trong sự nuôi cấy in vitro, gibberelin không thể sử dụng vào mục đích này nhưng
chúng sẽ tìm thấy công dụng của chúng trong các mô thực vật đã có tổ chức.
♦ Gibberelin trong cây trồng
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
14
Gibberelin được tìm thấy trong tất cả các loài cây và trong các loài nấm, ở
đây chúng được phân phối không đồng đều. Trong cây trồng, một vài loài cây chỉ
có một chất, các loài cây khác có thể có nhiều chất gibberelin.
Dạng thức tổng hợp của gibberelin là ở trên các lá rất non trong các chồi
đang hoạt động, ở đầu ngoài của rễ cây và ở mức độ các phôi.
c) Các cytokinine
Cytokinine được khám phá do trung gian của sự nuôi cấy in vitro. Người ta
biết rằng trong môi trường nuôi cấy, việc thêm nước dừa sẽ gây ra một hiệu quả
làm thuận lợi cho việc phân chia tế bào và cho việc hình thành các chồi. Những
nghiên cứu được thực hiện để tìm cách khám phá ra yếu tố trách nhiệm của hiệu
quả này, đã đưa đến việc cô lập một phức chất hoạt động có nguồn gốc purine,
nhưng chất này không thể nhận dạng được. Vào năm 1956, Skoog đã cô lập được

một chất rất là hoạt động mà người ta đặt tên là kinetine, do ADN biến chất.
Cytokinine là các chất adenine được thay thế, chất này được người ta biết
qua hai nhóm nội sinh là:
- Zeatine.
- Isopentenylalenine (IPA), cytokinine tự nhiên và các chất tổng hợp.
Có hai loại được sử dụng nhiều nhất là:
+ Kinetine (6 furfuryl – aminopurine)
+ Benzyladenine (BAP) (6 – benzyl – aminopurine)
Các adenine được thay thế khác được dùng dưới dạng tự do hoặc liên kết với
một chất đường.
♦ Tính chất sinh lí của cytokinine
Cytokynine rất hoạt động và với hình ảnh của hai nhóm trên, chúng biểu hiện
nhiều tính chất trong đó có các tính chất sau:
- Một hiệu quả rất rõ trong sự phân chia tế bào, trong quá trình này, chúng
cần thiết nhưng chúng không thể có hiệu quả nếu vắng mặt auxin.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
15
- Một vai trò cũng rất rõ trong sự sinh tạo cơ quan thực vật, ở đây chúng sẽ
kích thích mạnh mẽ sự thành lập các chồi non.
- Một hoạt động rất kích thích trên sự chuyển hoá, làm thuận lợi một phần
việc tổng hợp protein và mặt khác trong lúc bảo vệ các chất chuyển hoá chống lại
tác động của những enzyme ly giải.
- Một hiệu quả đối kháng của tính ưu thế chồi non: các chồi nách được xử lí
bằng cytokinine sẽ tăng trưởng và cạnh tranh với chồi tận cùng.

Cytokinine trong cây trồng
Các cytokinine nội sinh đầu tiên được tìm thấy vào năm 1963 trong các phôi

còn non của cây ngô; chất thứ hai được khám phá trễ hơn do các cây bò nhiễm bởi
một loại vi khuẩn Corynebacterium fasciens. Tất cả các cây đều chứa cytokinine,
chúng được tinh luyện chính yếu bởi rễ cây và cũng ở mức độ phôi.
Cytokynine có thể liên kết với đường và chúng lưu thông mà không phân
cực.
d) Ethylene
Ethylene là một chất khí được nhận dạng từ lâu trong các kho dự trữ quả.
Người ta nghiệm thấy là tất cả các bộ phận của một cây có khả năng sinh ra chất
ethylen. Những tính chất chính của chất điều hoà này, có một vài chất gần giống với
tính chất của auxin, chúng có những đặc tính sau:
- Gia tăng quá trình rụng lá và trái.
- Tính cảm ứng hoa trên cây trồng thuộc ho ïBromeliaces (họ dứa – ananas).
- Tác động làm thuận lợi cho sự tạo củ.
Tất cả các bộ phận của cây đều có khả năng tổng hợp ethylen, nơi sản xuất
quan trọng nhất là trái cây, kế đến ở mức độ kém hơn là hoa, cũng như chúng có ở
các cơ quan thực vật bò chấn thương.

e) Các chất ức chế tăng trưởng
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
16
Có rất nhiều chất có tác động ức chế, trong số các chất nội sinh, người ta tìm
thấy nhiều chất có thành phần phenol và axid abcisique.

Các chất ức chế có thành phần phenol
Trong nuôi cấy in vitro các chất phenol đôi lúc được phóng thích ra trong môi
trường cấy và gây ra hiện tượng oxy hoá, chất này đã gây ra sự hoá nâu cho môi
trường và thường dẫn đến sự chết của các mô thực vật, chính vì vậy mà trong một

vài sự nuôi cấy, người ta thường sử dụng trong môi trường các chất chống oxy hoá
hoặc là các chất hấp thụ để khử độc môi trường cấy.

Axit abcisique
Chất này đã được nhận dạng từ năm 1965 và từ đó nó được tìm thấy trong tất
cả các loài thực vật. Các tính chất của axit abcisique cũng giống như các tính chất
được diển tả trên các chất ức chế phenol. Tuy nhiên, người ta cũng cần thêm vào
đây một số tính chất khác như:
- Hoạt động trên sự rụng.
- Hoạt động trên sự thẩm thấu cùa tế bào đối với ion potassium (K+).
- Hoạt động lạ lùng trên sự ra hoa.
Trong lúc nuôi cấy in vitro, axid abcisique ít được sử dụng, một phần tuỳ theo
loại cây, phần khác tuỳ các điều kiện nuôi cấy, chất này sẽ gây nên các phản ứng
rất khác nhau và giải thích một cách khó khăn.



f) Kết luận
Trong nuôi cấy in vitro, sự chế ngự của kỹ thuật sẽ vượt qua các sự cân bằng
giữa chất điều hoà với nhau và trong số đó có hai chất chính mà vai trò tạo sinh cơ
quan là cơ bản: auxin và cytokinine.
Một cách hệ thống, người ta có thể chấp nhân là tính chất về sinh lí của một
mô lúc được nuôi cấy sẽ như sau ( theo Skoog):
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
17
- Nếu tỷ lệ auxin/cytokinine cao, người ta sẻ thu được chức năng sinh ạo rễ.
- Nếu tỷ lệ auxin/cytokinine thấp, mô sẽ phát triển về phía chức năng sinh

tạo thân.
- Nếu tỷ lệ này gần một đơn vò người ta sẽ thu được sinh tạo mô sẹo.

1.2.1.8 Kỹ thuật nuôi cấy tế bào lớp mỏng
a) Đònh nghóa
Phương pháp nuôi cấy lớp mỏng tế bào bao gồm những mảnh cấy được cắt nhỏ
từ những cơ quan khác nhau (thân, lá, rễ, cụm hoa, mầm hoa, phát hoa, lá mầm, phôi,
…). Chúng được cắt nhỏ theo chiều dài hoặc chiều ngang. Những lớp mỏng dài (1mm
x 0,5 hoặc 10mm) chỉ bao gồm một loại mô như: tế bào biểu bì (có thể được bóc khỏi
ra khỏi mô), tế bào vỏ. Những lớp mỏng tế bào ngang bao gồm một số tế bào nhỏ của
nhiều loại mô khác nhau (biểu bì, vỏ, tượng tầng, xung quanh mạch và nhu
mô)(Phương pháp TCLs, Trần Thanh Vân và Gendy, 1996). Đặc điểm nổi bậc của
phương pháp này là mảnh cấy phải mỏng. Điều này là quan trọng hàng đầu bởi vì nó
giới hạn những tế bào mà ta cần, những tế bào đã chọn lọc và đánh dấu trước đó.
b) Một vài nghiên cứu thành công trong nuôi cấy tế bào lớp mỏng
1. Chuyển gen bằng việc sừ dụng lớp mỏng tế bào. Dương Tấn Nhựt, Bùi
Văn Lệ, Jaime A, Teixeira da Silva, Shanjun Tu, M, Jeanneau, N,T,Do My, J, Vidal
and K, Trần Thanh Vân.
2. Vi nhân giống và tái sinh hoàn chỉnh cây có gổ bằng lớp mỏng tế bào.
Dương Tấn Nhựt, Bùi Văn Lệ, Jaime A, Teixeira da Silva, T, Thorpe và K, Trần
Thanh Vân.
3. Ứng dụng công nghệ lớp mỏng tế bào trong việc tái sinh cây ăn quả.
Dương Tấn Nhựt, Bùi Văn Lệ, Jaime A, Teixeira da Silva, T, Thorpe và K, Trần
Thanh Vân.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
18
4. Tái sinh cơ quan của cây ngủ cốc và cây cỏ bằng kỹ thuập lớp mỏng tế

bào. Dương Tấn Nhựt, Jaime A, Teixeira da Silva, Bùi Văn Lệ, và K, Trần Thanh
Vân.
5. Nghiên cứu lớp mỏng tế bào cây họ đậu, cây rau và thảo dược. Dương Tấn
Nhựt, Jaime A, Teixeira da Silva Bùi Văn Lệ, và K, Trần Thanh Vân.
6. Lớp mỏng tế bào và việc tái sinh cụm hoa, phát hoa và nở hoa trong ống
nghiệm. Dương Tấn Nhựt, Jaime A, Teixeira da Silva.
7. Tái sinh và chuyển gen cây hoa loa kèn bằng phương pháp lớp mỏng tế
bào. Dương Tấn Nhựt, Jaime A, Teixeira da Silva, C, R, Aswath, Bùi Văn Lệ, và K,
Trần Thanh Vân.

1.2.2 Giới thiệu về cây lan
1.2.2.1 Sự phân bố lan trên trái đất
Lan có mặt hầu hết các vùng trên trái đất, nhưng có khoảng bốn phần năm
tập trung ở vùng nhiệt đới. Càng đi xa vùng xích đạo, lan càng ít hơn. Tuy nhiên,
cũng có một vài loài đòa lan, chống chòu được với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, đã
sống được ở vài vùng Bắc Cực.
Ở vùng ôn đới, đòa lan có nhiều hơn.
Ở nước ta, các nơi có khí hậu ôn đới như cùng cao nguyên Lâm Đồng, một số
vùng Tây Nguyên, … cũng có nhiều loài đòa lan.
Trong những xứ nóng, đòa lan ít hơn, đa số là các loài lan sống trên cây cao
hoặc bám vào đá. Người ta gọi là lan phụ sinh.
Ngoài đòa lan và lan phụ sinh, ở vùng nhiệt đới, cón có nhiều loài lan sống
được trên cả mặt đất, cũng như bám được cả trên cây và trên đá.
Người ta nhận xét là các giống đòa lan ở vùng ôn đới mọc ở diện rộng hơn
các loại lan ở vùng nhiệt đới.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
19

Một loài lan khác nữa của Cypripede người ta thấy ở các vùng dưới Bắc Cực
thì mọc khắp Liên Xô sang đến tận A-Lat-xca, tức là mọc ở cả 3 châu, một điều
hiếm thấy xảy ra đối với các loài lan nhiệt đới.
Lan phụ sinh thường mọc ở vùng nhòêt đới và cận nhiệt đới, ít khi mọc sang
vùng khác. Vùng đó nằm ở vó tuyến 30
o
Bắc và vó tuyến 35
o
Nam.


Tuy nhiên, ngoài các vùng nhiệt đới này cũng có một vài loài lan phụ sinh
mọc được ở Nhật Bản, Triều Tiên, Bắc Mỹ và Úc Châu. Những loài lan này không
đẹp và ít người biết đến.
Một số vùng nhiệt đới khô hạn hoàn toàn không có lan. Đó là những vùng sa
mạc Sa-ha-ra, Ka-ra-ha-ri, một số vùng khô cằn của Ả Rập, Ba Tư, vùng Tây Bắc
và cao nguyên Ấn Độ. một phần lớn Úc Châu.
Nhìn qua sự phân bố như trên. Việt Nam nằm trong cùng rất thuận lợi cho lan
phát triển. Trong những năm qua, chúng ta đã nhập được khá nhiều loài tốt trong
các giống lan nhiệt đới và xứ lạnh: Phalenopsis, Cattleya, Vanda, Cymbidium …
Trong các giống này có rất nhiều loài đẹp và được thế giới ưa chuộng.

1.2.2.2 Tình hình sản xuất lan trên thế giới và trong nước
♦ Trên thế giới
Tại Mỹ: năm 1994 nhập từ Thái Lan 16,4 triệu cành, từ Singapore 289000
cành lan Dendrobium.
Hà Lan là quốc gia duy nhất ở Châu Âu có công nghiệp trồng lan xuất khẩu.
Do trồng trong nhà kính nên Hà Lan có thể xuất khẩu hoa quanh năm nhất là
Cymbidium.
Italia là quốc gia nhập khẩu lan lớn nhất Châu Âu. Năm 1993, nhập 75,3

triệu cành lan, chủ yếu là từ các nước: Thái Lan 64 triệu cành lan, Hà Lan 10 triệu
cành lan, Singapore 0,75 triệu cành lan.
Đức và Pháp là hai quốc gia nhập khẩu lan đứng thứ hai và ba Châu Âu.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
20
Ở Châu Á, Nhật là quốc gia nhập khẩu lan đứng đầu thế giới. Theo thống kê
tại Thái Lan, Singapore, Malaysia dành 600 ha đất trồng lan để xuất khẩu sang
Nhật, chủ yếu là Dendrobium, Oncidium, Cymbidium, Phalaenopsis.
Thái Lan là nước xuất khẩu lan đứng đầu thế giới.
♦ Ở trong nước
Nước ta nằm trong cùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, vì vậy phong lan rất
phong phú về giống cũng như chủng loại lan rừng. Dựa vào điều kiện tự nhiên mà
người ta phân bố vùng trồng lan nước ta chia làm 2 vùng:
- Vùng có khí hậu nóng ẩm: Thành Phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Nam Bộ,
Trung Bộ, … ngoài những chủng lan rừng còn có các giống lan lai nhập
nội như: Vanda, Dendrobium, Oncidium, Mokaro, Phalaenopsis.
- Vùng khí hậu lạnh: Đà Lạt và các tỉnh phía Đông Bắc trồng chủ yếu là
Cymbidium, Phalaenopsis, Oncidium.

1.2.2.3 Lòch sử nuôi cấy mô lan

Georges Morel, học trò của R, J, Gautheret, đã áp dụng phương pháp nuôi
cấy mô vào lan năm 1956. Ôâng công bố thành công ấy trên A, O, S (American
Orchid Spciety) vào năm 1960 và giống lan đầu tiên mà ông áp dụng là
Cymbidium.
Từ đó người ta thành công với
Miltonia, Phajus, Odontoglosum,

Denrobium …và các giống lai của chúng. Với Cattleya thì khó khăn hơn vì đòi hỏi
phải cấy ở môi trường lỏng với máy lắc liên tục. Cho đến nay đối tượng chưa chòu
khuất phục phương pháp nuôi cấy mô là Paphiopedilum.

1.2.2.4 Kỹ thuật trồng lan sau ống nghiệm
Có thể chia thời kỳ trồng lan con sau ống nghiệm ra bốn giai đoạn:
a) Lấy ở ống nghiệm ra
Việc lấy cây ra ống nghiệm phải thật nhẹ nhàng, tránh làm dập lá, gẫy rễ,
nhất là trong lúc cho sạch hết thạch môi trường bám vào trong rễ.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
21
Công việc này do các nhân viên phòng thí nghiệm thực hiện.
b) Ở trong chậu chung
Đây là giai đoạn khó khăn nhất của việc trồng lan con.
Rebecca Tyson Northen, trong cuốn Home Orchid Growing (1974) chỉ dẫn
như sau:
- Lan con lấy từ ống nghiệm ra cho vào dung dòch sát khuẩn, sau dùng kẹp để
gắp lan con và trồng vào chậu chung. Chất liệu trồng là ba phần vỏ thông xay
nhuyễn với một phần cát; hoặc tám phần rễ dớn xay nhuyễn, một phần cát, một
phần than vụn. Tất cả những chất liệu này được luộc kỹ để diệt nấm và diệt trùng.
- Pha loãng dung dòch phân bón ngay tức khắc sau khi trồng phun vào cây.
- Thời gian trồng chậu chung này vẫn do cơ quan nuôi cấy mô đảm nhiệm, vì
chính trong thời gian đó cây con sẽ được xử lý:
. Các loại thuốc phòng bệnh.
. Cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng.
. Cung cấp các chất kích thích tố với liều lượng thích hợp.
Cây con khoẻ mạnh phải đạt những tiêu chuẩn sau đây: Gỉa hành và lá phải

xanh, cứng, không còn quá mộng nước như lúc mới lấy trong ống nghiệm ra. Rễ còn
nguyên vẹn hoặc có màu trắng xanh. Đầu rễ bắt đầu phát triển, nhú lên xanh đậm,
rất đẹp.
c) Trồng vào chậu nhỏ
♦ Chậu
Kinh nghiệm cho biết là với khí hậu như ở nước chúng ta, chậu ít nhất nên có
4 lỗ vì rễ của cây con, kể cả của lan lớn, đòi hỏi phải thật thoáng khí, để việc hô
hấp của rễ được thuận lợi.
♦ Về chất giữ cây
Tốt nhất ta nên sử dụng xơ dừa già và than củi vì nó đáp ứng được các điều
kiện dưới đây:
- Dễ kiếm và rẻ tiền hơn cả.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
22
- Dễ chế biến theo độ lớn của cây.
- Giữ độ ẩm và thông thoáng cho cây gần được theo ý muốn của người trồng.
- Rễ của lan con bám vào các chất giữ cây được dễ dàng.
- Giữ được các chất dinh dưỡng cho cây.
- Khi chuyển chậu, không hư hại rễ của lan con.
b) Kỹ thuật trồng cây con vào chậu
- Chậu được rữa sạch.
- Than được chặt nhỏ cỡ đầu ngón cái.
- Xơ dừa được xé ra cho tơi và cắt thành đoạn khoảng một đốt ngón tay.
c) Cách đặt cây vào chậu
♦ Trồng vào mùa khô và cuối mùa mưa
Chọn những cục than to trong số than đã chọn đặt vào đáy chậu, chiếm
khoảng một phần ba dung tích. Sau đó đặt xơ dừa lên trên khoảng hai lớp mỏng rồi

đặt cây con. Cuối cùng bỏ than chung quanh gốc cây dấy lên gần miệng chậu để giữ
cho cây đứng thẳng.



♦ Trồng vào mùa mưa
Trong thời gian này khi trồng cây con ta không nên dùng xơ dừa nữa, vì xơ
dừa giữ ẩm được khá lâu, nên mưa nhiều sẽ có thời gian cây không được khô ráo,
nấm mốc có thể phát triển làm hư lá và rễ cây.
d) Giai đoạn trồng vào chậu lớn
Việc chuyển chậu có thể được thực hiện trong khoảng thời gian cây con đã
có ở trong chậu nhỏ từ 5 đến 7 tháng.

Kỹ thuật chuyển chậu
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
23
Về chậu, cần có kích thước lớn ít nhất gấp hai lần rưỡi chậu con và có nhiều
lỗ bên hông. Rữa sạch chậu.
Xếp các cục than chuẩn bò sẵn vào đáy chậu lớn, khoảng một phần ba dung
tích.
Khoảng 25 phút sau, rễ cây bám vào thành chậu đã bong ra hết, ta nhẹ nhàng
cầm cây sát gốc cho vào chậu. Một tay giữ cây, một tay bốc than bỏ vào chung
quanh lên đến gần sát miệng chậu.
Sau chuyển chậu khoảng hơn một tuần mới được cung cấp dinh dưỡng.

1.2.2.5 Giới thiệu về Vanda RBr
Vanda do Robert Brown đặt vào năm 1975, có nguồn gốc của chữ phạm là

vêđà. Giống này gồm khoảng 60 – 70 loài nguyên thuỷ, mọc ở Đông Nam Châu Á,
Trung Hoa, Hy Mã Lạp Sơn, … cho đến bắc Úc Châu. Giống này có nhiều cao độ
khác nhau cho nên điều kiện trồng khác nhau : các loài ở đồng bằng thích khí hậu
nóng trong khi các loài ở núi cao thích nhiệt độ lạnh.




a) Đặc điểm của cây lan Vanda
Vanda là loại lan đơn thân, Thuộc:
Ngành : Hiển hoa bí tử (Magnoliophyta)
Lớp :Lớp một lá mầm liliopsida (Monocotylednes)
Bộ : Orchidales
Họ : Orchidaceae
Họ phụ : Orchidoidaea
Tông : Vandeae

rễ
thân
hoa
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
24
Tông phụ : Vandinae
Thân hình trụ dài với các lóng khá dài, không có giả hành. Lá hình trụ hoặc
tròn dẹp phẳng. Lá dẹp thẳng ở tận cùng thường có răng nhọn không đều. Phát hoa
đứng thẳng và không bằng nhau phân nhánh. Hoa khá lớn và khá bền. Lá đài và
cánh hoa gần như nhau, bờ mép hơi cong vào. Môi gắn chặt vào trụ ngắn, vách hoặc

cục u. Môi có 3 thuỳ, thuỳ giữa có sọc dọc và 2 cục có nắp che hai phấn khối với vó
phấn ngắn mà to và gót đóa lớn .
Thường người ta chia 2 nhóm dựa vào đặc điểm của lá :
- Nhóm có hình trụ tròn, đòi hỏi ánh sáng nhiều nên phải trồng ở nơi sáng
hoàn toàn, không che chắn, thuận tiện cho vùng nóng.
- Nhóm có lá dẹp phẳng, đòi hỏi ánh sáng ít hơn nên có thể trồng ở các sứ khác.
Cây lai giữa hai dạng này cho ra dạng lá thay đổi từ hình lòng máng đến hình
chữ U, cần ánh sáng cao hơn dạng lá dẹp phẳng nhưng thấp hơn dạng lá hình trụ tròn
b) Cách trồng

Trồng Vanda lá hình trụ tròn

Đây là Vanda Terres, Vanda Hookeriana, … (Schlechter đã đề nghò đưa
chúng sang giống Papilionanthe vì dạng lá hình trụ, thân dài leo bò và vì dạng hoa
cùng nơi mọc của chúng).
+ Trồng trong chậu: chậu hơi cao, lớn 20 - 50 cm, có nhiều lỗ thoát, có cọc
ty to ở giữa chậu, cao khoảng 70 - 80 cm. Có thể bó xơ dừa vào cọc này.
+ Trồng theo luống: trồng theo kiểu luống ở phần ba hoặc không dùng nẹp
tre mà chỉ đóng trụ cột ở giữa luống, rồi buộc các ngọn lan vào (như kiểu trồng
tiêu).
Khi mới trồng xong thì che khoảng 50% ánh sáng, đến khi phát triển thì gỡ
hết, không che chắn gì nữa cả.
Nên dùng phân theo tỉ lệ 1:1:1, mỗi tuần 1 lần trong thời gian đầu. Khi thúc
hoa thì dùng 1:2:1 hay 1:3:2, nên tưới thêm phân chuồng (xô lớn khoảng 20 lít) rãi
cho 1 mét vuông luống.
Luận văn tốt nghiệp


SVTH: Nguyễn Thò Ngọc Download» Agriviet.Com
25

♦ Trồng Vanda lá dẹp
Các Vanda lá dẹp thường trồng là: Vanda Coerlea, Vanda Denisoniana,
Vanda Brunnea, Vanda Tesslata, Vanda Sanderiana, … (Schelechter cũng đề nghò
đổi Vanda Sanderiana thành Euanthe Sanderiana vì cấu trúc khác biệt ở hoa của
chúng).
Trồng Vanda lá dẹp từ trong chai đem ra thì cũng như cách trồng cây con đã
trình bày ở phần trên. Ởû đây chỉ đề cập đến cách trồng khi cây đã lớn, chuyển sang
chậu lớn mà thôi. Có 2 cánh:
+ Lồng chậu con vào chậu lớn, chỉnh cho đỉnh ngọn lệch khỏi trung tâm của
dây treo. Đễ về sau khi cây lớn lên không đụng phải dây treo. Có thể thêm than hay
không là tuỳ điều kiện môi trường cuả từng vườn.
+ Gỡ cây lan ra khỏi chậu cũ rồi trồng sang chậu mới: đễ tránh cho rễ khỏi
phải bò đứt, phải thường ngâm chậu cây trong nước 5 – 10 phút, sau đó gỡ ra cho vào
chậu mới.
Nước dùng để tưới phải sạch, 1 – 2 tuần, tưới phân một lần. Có thể dùng phân
1:1:1 hoặc 1:2:1 hay 1:3:2 thay đổi nhau mà tưới. Không nên tưới phân chuồng.
Đến thời kỳ chuẩn bò ra hoa, nên đem cây hoa lan treo ở giàn có ánh sáng
khoảng 50%.

c) Trồng Vanda lá trung gian
Gồm nhiều dạng, ta nêu ra ở đây hai nhóm:
♦ Nhóm Vanda lá nửa vụ tròn (semi-terete):
Đấy là Vanda Kimballiana, Vanda Tricolor, và các cây lai do con người tạo
ra như Vanda Emma Van Deventer, Vanda Magestic, Vanda Josephin Brero,
Các Vanda lá nửa tròn trong thiên nhiên có lẽ không phải là lan nguyên thuỷ
mà có thể là do lai tự nhiên trong thiên nhiên vì rất ít gặp và hầu hết là bất thụ,
không thể đem lai tạo được.

×