Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Giáo trình tổng hợp những phương pháp để tìm hiểu về thành phần thực vật trong thiên nhiên phần 3 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.56 KB, 12 trang )


25
Phương pháp này cho ta biết năng suất hạt của cả khu rừng chứ không chỉ một loài
nào. Các ngăn kéo có kích thước nhất định, được đặt theo mô hình xác định và được
theo dõi với thời gian xác định. Ngăn kéo có thể bằng gỗ hay kim loại, có thành cao từ
10 - 15cm, đáy là lưới kim loại hay sợi ngông Để ngăn cản động vật có thể vào ăn,
mặt trên của ngăn kéo có lưới kim loại có mắt cỡ lớn
để đậy. Nếu đáy bằng gỗ thì phải
có lỗ thoát nước.
Kích thước ngăn kéo có thể là 4,5m
2
, lm
2
và 0,25m
2
, hiện nay thường dùng loại
lm
2
và 0,25m
2
. cũng có thể thay ngăn kéo đặt đất bằng phễu kim loại hay bằng gỗ.
Hình dạng có thể tròn hay vuông.


26

Các nhà nghiên cứu Mĩ thường dùng lưới thay cho ngăn kéo.


27
Vấn đề đặt ra khi tiến hành đánh giá sản lượng hạt bằng dụng cụ là ngăn kéo hay


lưới được bố trí như thế nào là tốt. Khi ta sử dụng ngăn kéo đặt trên mặt đất để hứng
quả, hạt thì các loại quả hạt rơi vào là do đã chín và tự rụng, do các loại động vật ăn
làm rơi rụng, do gió mang đến.
Bằng thực nghiệm cho thấy, dùng lưới h
ứng số liệu thu được thường cao hơn so
với bằng ngăn kéo gỗ. Những loài có quả to, khi rơi xuống chạm đáy cứng hay lưới
kim loại, có thể lại bị bắn ra ngoài hay bắn hạt ra.

Hình 9: Cách bố trí hệ thông dụng cụ hứng hạt trong rừng
(Ttheo Iurkevic và Trerviacốp, 1940)
1- Hình chiếu tán lá ; 2- Thân cây ; 3- Dụng cụ đón hạt
Trước tiên cần lập ô tiêu chuẩn, sau đó mới đặt dụng cụ đo đếm, số lượng từ 25 -
100 cái, với cây trồng có thể là 10 - 25 cái. Thường áp dụng với ô tiêu chuẩn 0,25ha là
25 - 50 cái ngăn kéo hay lưới đón. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào kích cỡ của ngăn
kéo. Cách đặt ngăn kéo trong rừng (xem hình 9).
Ngăn kéo thường được đặt trước khi quả chín, sau từ 5 - 7 ngày đến kiểm tra,
trong thời gian quả rụng thì từ 3 - 5 ngày theo dõi 1 lần.
Từ số liệu trên tính ra số quả (hạt) trên 1m
2
và tính ra trên tha.
- Phương pháp xác định hạt rơi trên đất bằng diện tích tính.
Phương pháp này dùng để đánh giá sản lượng hạt của những loài có quả khá to
(khá nặng), đã rụng. Phương pháp này dùng để xác định cho một loài hay cho một
mảnh rừng.
Dưới tán của một cây nào đó người ta lập 4 ô hình chủ nhật 1 x 2m theo 4 hướng,
cách gốc từ im trở ra (hình 1l).

28

Trong trường hợp tán cây quá rộng, diện tích của ô tính có thê tăng lên là 3m

2
(l
x 3m). Để đánh giá sán lượng hạt cho một mảnh rừng, có thể đặt các ô này dưới một số
cây chọn làm mẫu hay đặt dưới tán theo như hình 10.
Cách tính: Có thể bố trí ô tính như trên, ở dưới gốc từ 10 rõ cây gỗ trong ô thí
nghiệm, sau đó tính theo cây hay diện tích đất, từ đó tính cho cả ô thí nghiệm. Đối với
quần xã rừng, có hiện tượng tán cây này chồng lên cây khác thì người ta bố trí ô thí
nghiệm theo mô hình như hình 9. Kích thước của ô có thể khác nhau, di
ện tích ô lớn
nhất có thể là 25m
2
trong trường hợp này số ô sẽ giảm đi còn với diện tích là 1 - 2m
2

thì thường đặt khoảng 50 ô cho ô tiêu chuẩn 1ha. Với cây trồng, số ô có thể giảm
khoảng 1/2. Tiến hành thu thập mẫu ngoài thực đỉa nên vào cuối mùa thu hoặc đầu
đông khi các loại quả đã rụng hết.
3.3.3. Xác định số lượng hạt (quả) của một số năm đã qua của từng cây gỗ
hay của cả quần xã
Các phương pháp đã nói ở trên là để xác định số lượng quả
hay hạt trong năm đó.
Để hiểu và đánh giá được quy luật biến động về hình thành quả (hạt) sự phụ thuộc của
nó từ điều kiện tự nhiên như thế nào thì đòi hỏi phải biết sự biến động của nó trong
một số năm về trước.
Các phương pháp thường dùng đó là:
- Xác định số lượng quả (hạt) của các năm trước b
ằng phương pháp hình thái:
Bản chất của phương pháp này là, hằng năm khi quả rụng sẽ để lại vết tích trên
cành, qua vết tích đó có thể xác định số lượng quả của một số năm đã.qua. Vì vậy, nó
đòi hỏi người xác định phải thông thạo về hình thái cành và quy luật phân bố chồi sinh


29
sản trên cành, đặc điểm và hình thái của các vết tích quả để lại trên cạnh đó trong một
số năm khác nhau. Mỗi loài đều có quy luật hình thành chồi sinh dưỡng và chồi sinh
sản, chu kì trong năm hay vài năm (hình 12).

Hình 11: Sơ đồ tạo chồi hằng năm của cây thông và
quy luật phân bô nón đực, cái cùng vết tích để lại trên cành
(Theo Gortracốpski, 1958).
1: Chồi bông cái ; 2: Chồi bên ;
3: Bông nhỏ cái ; 4: Bông nhỏ qua đông ;
5: Quả non ; 6: Vết tích quả của năm trước.
- Xác định số lượng quả của năm trước qua số lượng quả khô trên mặt đất. Theo
phương pháp này, trên mảnh đất rừng cần nghiên cứu sẽ đặt mộ
t số ô với diện tích
khoảng 30m
2
, thu quả hay hạt trên diện tích đó, sau đó phân loại nó theo các năm khác
nhau (dựa vào quả khô, vào vỏ, mảnh còn lại của nó). Từ số lượng này sẽ tính năng
suất 1 năm trên diện tích 30m
2
, rồi cho tha và cho cả khu rừng.
- xác định số lượng quả, hạt của các năm trước qua cây con mọc dưới rừng: Đối
với phương pháp này quan trọng là xác định đúng tuổi của từng cây con mọc dưới
rừng (trong ô tiêu chuẩn), sau đó cũng tính 1 ha, cả khu rừng như phương pháp trên.
Ngoài ra còn một số phương pháp bổ sung, độ chính xác kém hơn lại khó làm,
nhưng có thể sử dụng khi các phương pháp trên không thực hiệ
n được.
3.3.4. Xác định số lượng quả (hạt) có thể sẽ hình thành ở từng cây gỗ và cả
quần xã (dự báo)

Những phương pháp kể trên cho phép xác định số lượng quả, hạt trong năm hay
một số năm đã qua. Ngoài ra cũng có lúc cần phải dự báo trước về số lượng và độ lớn
năng suất quả hạt một vài tháng trước. Phương pháp này cũng sẽ dùng cây mẫu như
đã
nêu trên. Tuy nhiên, cũng có lúc cần dự báo sớm hơn thì người ta cần phải tính toán
trên cơ sở các chồi có khả năng sinh sản, nguyên tắc của nó là càng nhiều chồi tham
gia sinh sản sẽ càng nhiều hoa và sẽ nhiều quả trong vụ tới.
- Phương pháp xác định (mang tính dự báo) theo số chồi tham gia sinh sản (hình
12):
Phương pháp này đòi hỏi người nghiên cứu phải hiểu rất kĩ về hình thái chồi của
cây đó, chồ
i nào sẽ là chồi sinh dưỡng, chồi nào sẽ tham gia sinh sản. Từ hình thái
đánh giá được khả năng thực tế từng chồi (nhiều hay ít hoa), số hoa đực, hoa cái

30

Hình 12: Chồi sinh dưỡng và chồi sinh sảncủa một số cây gỗ
(Theo Katerova, 1956)
CSDTC ; Chồi sinh dường tận cùng ; CSD: Chồi sinh dường ;
CH: Chồi hoa ; CHC: Chồi hoa cái ; CHĐ: Chồi hoa đực
(Theo Katerova, 1956)
- Phương pháp xác định (mang tính dự báo) theo số lượng hoa và các nón mới
hình thành.
Theo mức độ phong phú cua hoa và chồi nón có thể dễ dàng đánh giá khả năng
hình thành quả hay hạt trong tương lai. Phương pháp này thường dùng cây hay cành
làm mẫu chuẩn để xác định bằng mắt. Nó có thể
sai khi bị tai biến trong thời gian về
sau này. Thường người ta dùng bảng thang bậc (5 bậc) đê phân chia tương ứng từng
bậc là số lượng hay kg.
3.4. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH SINH SẢN HẠT Ở CÂY BỤI

Trong tự nhiên, cây bụi ít xuất hiện đơn độc hay từng khóm mà thường tạo thành
tầng trong rừng hay hình thành quần xã đặc thù.
Nghiên cứu sinh sản hạt của từng cây bụi đơn lẻ hay tầng cây bụi cũng nh
ư quần
xã cây bụi nói chung là đơn giản so với cây gỗ và rừng. Vì độ cao câv bụi chỉ đạt 1 -
3m, số lượng loài trong quần xã không nhiều. Vì vậy, thu hái quả hay hạt của nó dễ
làm bằng tay.
Nghiên cứu sinh sản của cây bụi nói chung ít và phương pháp nghiên cứu nó
giống như nghiên cứu cây rừng hay cây thảo.

31
Nghiên cứu sản lượng hạt cây bụi thường tiến hành cho quần hợp hay nhóm quần
hợp và cho từng loài cây bụi riêng biệt với diện tích tính là 100 - 500m
2
phụ thuộc từ
tính phức tạp từng loại cây bụi. Nghiên cứu sinh sản hạt cây bụi thường tiến hành cùng
các nội dung nghiên cứu khác của quần xã và theo dõi cả các yếu tố thuộc môi trường.
Tuỳ thuộc tính phức tạp số lượng ô tiêu chuẩn có thể 3 - 5 - 8 và diện tích to nhỏ khác
nhau cho một quần hợp hay nhóm quần hợp. Nhưng tổng sẽ là 100 - 500m
2
. Trong một
số trường hợp người ta làm một ô với diện tích là 50 – l00m
2
cũng như cầy gỗ, người
ta có thể đánh giá sản lượng trong năm hay dự báo cho năm sau.
3. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TÁN HẠT VÀ QUẢ
Sự phát tán đó là quá trình phân bố quả và hạt (bào tử) thực vật không thể thiếu
trong quá trình sinh sản và phát tán của thực vật.
Ta biết rằng, chức năng sinh sản và phát tán được thực hiện ở thực vật không chỉ
là hạt và quả mà cả bào tử và c

ơ quan sinh dưỡng. Các dạng khác như nón, quả phức
Tất cả các hình thức phục vụ cho sinh sản và phát tán thực vật.
Sau đây chúng ta chỉ xem xét ở phần sinh sản hạt.
Những nghiên cứu về vấn đề này còn quá ít, chẳng hạn như bằng cách nào (động
vật, gió, nước ) đã phát tán những phần nào của thực vật và xảy ra trong thời điểm,
điều kiện nào. Càng ít hơn đó là sự nghiên cứ
u về giải phẫu hình thái để làm rõ những
thích nghi với hình thức phát tán nó. Nhưng để làm rõ ý nghĩa sinh học của quá trình
này, ta cần xác định trong quá trình phát tán một loài nào đó thì cái gì đóng vai trò
chính. Chúng ta biết, với một loài cũng có thể có rất nhiều dạng và con đường phát tán.
Vì vậy, phương pháp nghiên cứu vấn đề này là rất phức tạp vì:
- Thứ nhất: phạm vi phát tán sẽ đến đâu, một cá thể có thể cho hàng nghìn, chục
nghìn hạt
- Thứ hai: quá trình này cũ
ng rất thay đổi, đối tượng theo dõi rất phức tạp, nó có
thể rất nhỏ và rất ít.
- Thứ ba: phương tiện phát tán rất đa dạng, thích nghi với nó cũng rất khác nhau
nên không thể dùng một phương pháp ngay cho một loài.
- Thứ tư: mỗi loại mầm mống có thể được phát tán bởi nhiều nhân tố, cái gì sẽ là
chính, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể.
Cuối cùng đó là khả năng thích nghi c
ủa thực vật với từng kiểu của mầm phát
tán, sự thích nghi này nó đã được thể hiện trong cấu tạo hình thái của cây, đặc biệt là
thời kì chín của quả và hạt.
Ngoài ra, lực tác động của quá trình phát tán này còn liên quan đến trạng thái của
thực vật trong quá trình quả, hạt chín và đặc điểm thực vật quần lạc bao quanh nó.
3.5.1. Những phương thức phát tán các mầm sống
Từ sự khác nhau về kh
ả năng phân bố mầm sống mà người ta chia ra 2 nhóm
thực vật khác nhau: Tự phát tán ở nhóm này sự phát tán quả, hạt không nhờ bất cứ lực


32
tác động nào của bên ngoài, và nhóm thực vật phân bố tạp mầm sống của một nhóm
này được phân bố bởi những nhân tố tác động nào đó: gió, nước, động vật, người. Một
nhóm nhỏ đặc biệt của thực vật phân bố tạp này là hình thành bóng hơi, phát tán dễ
dàng nhờ sự vươn dài của thân hay chống hoa. Người ta cũng nhận thấy có loại thời
gian đầu tự phát tán, sau đó lại thu
ộc nhóm phân bố tạp.
Trong nhóm phân bố tạp, do sự khác nhau của phương thức phân bố người ta
chia ra 5 nhóm nhỏ khác nhau: Nhờ gió nhờ nước, nhờ động vật, nhờ người, bóng hơi.
Mỗi nhóm sẽ có những biểu hiện thích nghi để được phát tán và bảo tồn được nòi
giống.
3.5.2. Nghiên cứu sự hình thành quả ở thực vật
Để có được hiểu biết về khả năng phát tán quả, hạt và hiệ
u quả của nó, cần phải
nghiên cứu thực vật ngay trong thời kì nó hình thành quả và những đặc điểm của nó,
những đặc điểm này thường là rất khó làm sáng tỏ đầy đủ. Trước tiên ta cần xác định
và giới hạn quần xã thực vật được tiến hành nghiên cứu (quá trình hình thành quả), cần
chú ý mức độ khép tán và chiều cao trung bình của từng tầng, sau đó mới chú ý đến
các đặc điể
m tiếp theo của sự hình thành quả, hạt.
1. Mức độ tham gia và vị trí của loài trong quần xã: nó thuộc nhóm thực vật quần
lạc nào (đặc hữu hay lập quần ) mức độ phong phú, mức độ phát triển, sức sống, tầng
và chiều cao của cây (yêu cầu nghiên cứu khoảng 25 - 30 cây). Cần làm rõ nó là quả
phức hay quả phân bố trên cành bên, chiều cao của quả so với mặt đất.
2. Đặc điểm và trạng thái củ
a thân, cụm hoa hay hoa đơn độc khi hình thành quả.
3. Những đặc điểm chính của các mầm sinh sản này
- Mầm mống sinh sản thuộc loại gì (hạt, một phần của quả, quả hay quả phức).
- Rơi đơn độc hay thành chùm

- Các mầm bên trong sẽ đi ra như thế nào, trong điều kiện nào.
- Mầm mống sinh sản có thể rụng liên tục từ túi đựng nó hay chỉ khi nào phân bị
dao động.
- Hình thái mầ
m sinh sản: hình dạng, kích thước, màu sắc đặc điểm khác.
4. Có hay không hiện tượng dị quả: ở một số thực vật có hiện tượng dị quả ngay
trên một cá thể. Sự dị quả sẽ đưa đến khả năng phát tán khác nhau.
5. Nhịp điệu chín và phát tán mầm sinh sản: ở đây cần chú ý tới đặc điểm nơi
mọc, trong các quần xã khác nhau, sự chín khác nhau ra sao, bắt đầu lúc nào, k
ết thúc
lúc nào. Số lượng mẫu cần nghiên cứu cho mỗi điểm từ 25 - 50 cá thể.
6. Năng suất của hạt. Để phục vụ cho nghiên cứu về phát tán hạt, cần làm rõ năng
suất hạt trung bình trên từng cá thể, hạt trong một quả.
3.5.3. Nghiên cứu khả năng khác nhau của phân bố mầm sinh sống
3.5.3.1. Sự phân bố mầm sống nhờ gió

33
Nhiệm vụ cơ bản của nghiên cứu sự phát tán nhờ gió là xác định những đặc điểm
khác nhau của các mầm khác nhau trong phát tán nhờ gió. Nhóm phương pháp này
được chia thành 2 công đoạn, đó là: hình thức giải phóng các mầm phát tán nhờ gió và
hình thức hứng nó đến.
Để theo dõi được thì dựa vào màu sắc là dễ dàng hơn cả nhưng lại gặp rất nhiều
khó khăn. Vì thứ nhất: những mầm phát tán nhờ gió không bị nướ
c làm ướt (không
ngấm) nên dung dịch màu không giữ được. Thứ hai: lông ngoài vỏ khi bị nhuộm làm
khô sẽ không có khả năng chuyển động trong không khí như trước. Thứ ba: không
phải tất cả đều có thể nhuộm được.
Để có thể nhuộm được thường dùng chất màu hữu cơ tan trong rượu, tốt nhất là
màu đỏ.
Với từng loài cây cần chọn cây mẫu để thí nghiệm (rừng, đồng cỏ, cây bụi) phun

màu và theo dõi.
Đón nó đến cũng dùng dụng cụ đón như một cái phễu để ngửa, có túi
đựng ở dưới. Theo dõi kết quả từng ngày hoặc 2 - 3 ngày một lần. Khoảng cách theo
dõi thường là:
Cây gỗ: dưới tán 3m 10 25 50 100 500 1000m
Số lượng: 1 4 6 6 6 8 12 12 theo 4 hướng
từ gốc đi ra.
Cây thảo: 1 3 5 10 25 50 100
Số lượng: 4 4 4 6 6 8 8 theo 4 hướng từ gốc
đi ra.
Sau đó đem về phân loại và đếm số lượng.

3.5.3.2. Phát tán mầm sống nhờ nước
Các hình thức phát tán nhờ nước rất phức tạp và khó nghiên cứu. Sự khác nhau
về các hình thức phát tán đòi hỏi các phương pháp khác nhau.

34
- Sự phát tán nhờ nước sông, suối: Phương pháp xác định là dùng dụng cụ để lấy
bùn bờ sông và lấy mẫu nước. Số lượng khoảng 100 mẫu, lom lấy 1 mẫu.
- Sự phát tán nhờ nước mưa: ở đây cần xác định khối lượng nước cần lấy để làm
mẫu là bao nhiêu, tốc độ dòng chảy lúc lấy mẫu (có đại diện được chưa ?) bởi vì sẽ
phải tính t
ốc độ dòng chảy là bao nhiêu cm
3
/giây, phạm vi có nước chảy. Số lẩn cần
nhắc lại 5 - 15 lần. Lượng nước thường lấy là 500cm
3
/1ần. Dụng cụ là một ống đong,
hoặc dạng ống hình trụ, đáy là lưới vải hay ni lông để đón. Trên cơ sở mẫu thu được
tính thời gian thu, khối lượng nước đi qua để đánh giá tổng thể.

3.5.3.3. Phát tán nhờ động vật
Cần có sự tham gia của các nhà động vật học, có như thế mới có thể định loại
được loài động vật, hiểu đượ
c sinh thái của nó sẽ có phương pháp nghiên cứu thích
hợp.
Phát tán nhờ động vật cũng rất đa dạng, mỗi loại dùng hệ phương pháp riêng. Sau
đây sẽ xem một số dạng: nhờ kiến, gặm nhấm, chim, động vật ăn cỏ.
a) Phát tán mầm sống nhờ kiến: Những vấn đề cần làm sáng tỏ là:
- Những loại mầm sống nào (loài nào) sẽ được phát tán bằng kiến: muốn vậy ph
ải
tiến hành theo dõi.
+ Những mầm sống nào được kiến tha về tổ, số lượng, số loài của nó, tiến hành
bằng cách đào một số tổ kiến (có thể 100 tổ cho 1 quần xã).
+ Liệt kê những mầm sống và loài thường gặp trên đường đi của kiến bị kiến bỏ
lại.
+ Đặt thử một số mầm trên đường đi của kiến để
theo dõi số mầm bị tha đi, tốc
độ bị tha.
- Khối lượng thu gom trong quá trình hoạt động của kiến.
Muốn vậy phải làm thí nghiệm theo dõi, diện tích 100 - 200cm
2
bỏ vào đó 25, 50,
100 loại mầm kiến tha đi và theo dõi nó theo từng loại. Theo dõi qua từng giờ, thí
nghiệm cần tiến hành vài lần.
Với khoảng cách nào thì kiến có thể thực hiện phát tán, để làm rõ điều này cũng
phải theo dõi và làm thí nghiệm với các mầm khác nhau, khoảng cách khác nhau.
b) Phát tán nhờ bọn gặm nhấm: Gặm nhấm sẽ tiến hành thu gom các mầm sống
khác nhau với khoảng cách khác nhau.
Có nhiều loại gặm nhấm và với từ
ng kiểu thảm thực vật có tổ hợp khác nhau.

Bọn gặm nhấm trong từng tiểu thảm thực vật chúng cúng chỉ thích một số loài nhất
định. Thường xác định qua nguồn dự trữ của nó trong các hang, đào hang vào sáng
sớm, số lượng khoảng 25 - 50 hang trong 1 quần xã.
c) Phát tán mầm sống nhờ chim:
- Phát tán mầm nhờ chim cũng có vai trò rất lớn. Đặc biệt là loại chim biết bơi.
Có thể chim trong quần xã và ngoài quần xã. Đ
ã có nhiều đề tài chuyên nghiên cứu về

35
chim ăn quả và hạt.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn là vấn đề chưa thật sáng tỏ như:
- Loài chim nào sẽ ăn quả cây gì ?
- Những loại hạt nào có khả năng bảo tồn sức sống sau khi qua đường tiêu hoá
của chim.
- Chim sẽ phát tán được bao xa ?
Để trả lời 2 mục đầu cần quan sát trong thiên nhiên và tiến hành thí nghiệm. Để
trả lời phần 3 cần phải theo dõi trong tự nhiên.
Nghiên cứu nội phát tán nhờ chim trong tự
nhiên cần lưu ý những tình huống
sau:
1. Theo dõi gần tổ chim: ở đây cần làm rõ những loài chim nào thường ăn những
mầm mống thực vật nào, nó ăn như thế nào, số lượng nó ăn trong ngày.
2. Phân tích các loại mầm mống trong diều hay dạ dày chim bị giết.
3. Thu thập và phân tích phân của chim.
4. Xác định những yếu tố phân bố thực vật được chim thực hiện. Muốn vậy phải
theo dõi tấ
t cả các loài cây có quả mọng, rừng trồng đặc biệt nơi nghỉ của chim.
5. Phát tán mầm sống nhờ động vật ăn cỏ:
Động vật ăn cỏ cũng là nhân tố phát tán nội và ngoại, đặc biệt lớn là động vật
nuôi.

Trong mối quan hệ với ngoại động vật phát tán cần phải làm rõ sự khác nhau của
hệ thống quả. Về số lượng ta có thể tiến hành
đếm, ví dụ nhặt từ lông của một con vật
nào đó mỗi loại phải lặp lại từ 10 - 15 lần.
Với nhóm động vật ăn cỏ nội phát tán có thể nghiên cứu qua phân.
3.5.4. Một số ý kiến về việc lập bộ sưu tập mô tả quả hạt
Khi nghiên cứu về sinh thái của các mầm mống rất cần phải tập hợp để thành bộ
sưu t
ập mẫu các loại, nó thoả mãn yêu cầu:
1. Hạt và quả được thu thập từ địa điểm nó mọc.
2. Quả (hạt) mọng hay khô đều không phơi khô mà phải cố định nó trong dung
dịch, nếu nó có màu gì cần ghi màu trên etêkét.
3. Nếu quả (hạt) dễ vỡ cần có hộp đựng.
4. Nếu có phần phụ dễ rụng thì cần thu quả (hạt) có cả phần phụ hoặc thu phần
phụ riêng.
5. Khi có hi
ện tượng dị quả thì cần thu cả, trên etêkét cần ghi rõ nó trên cây hay
trên một cụm hoa.

36
Chương 4
NGHIÊN CỨU SINH SẢN SINH DƯỠNG
VÀ SỰ PHỤC HỒI CÁC CÁ THỂ TRONG QUẦN XÃ


4. 1. SINH SẢN SINH DUỠNG VÀ SỰ PHỤC HỔI Ở THỰC VẬT BẬC CAO,
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU NÓ
Gọi là sinh sản sinh dưỡng tức là sự tạo ra một cơ thể mới từ một phần của bộ
phận sinh dưỡng của cơ thể khác, từ đó khả năng sinh sản của cơ thể sau này hoàn toàn
giống với cơ thể mẹ. Sinh s

ản sinh dưỡng của thực vật bậc cao có ý nghĩa không kém
sinh sản hữu tính của nó, nhiều trường hợp nó đã cho phép nhanh chóng chiếm lĩnh
khoảng không và trở nên đông đúc. Trong nhiều kiểu thảm thực vật, nhiều quần hệ,
quần hợp và tầng phiến sinh sản sinh dưỡng còn vượt qua sinh sản hạt, đặc biệt quan
trọng trong việc xâm chiếm các lãnh thổ mới.
Sự có mặt hay vắng mặt kh
ả năng sinh sản sinh dưỡng là một trong những yếu
nhất quan trọng trong cạnh tranh giữa các loài thực vật, còn sự biến.đổi của thực bì
cũng có liên quan đến vấn đề này.
Trong kinh tế nông nghiệp, sinh sản sinh dưỡng của thực vật có thể được đánh
giá là có lợi hoặc có hại, điều này phụ thuộc vào từng loài và giá trị kinh tế của nó.
Trong điều kiện tự nhiên có rất nhi
ều loài có khả nàng sinh sản sinh dưỡng như
sinh sản bằng thân rễ, thân hành, sinh sản từ rễ chúng vừa có khả năng sinh sản, vừa
có khả năng phát tán Một số khác khả năng đó chỉ có trong điều kiện và từng phần
xác định, ví dụ khi cày lật một số rễ của một số loài sẽ mọc lên thành cây, thân một số
loài bị vùi xuống đất cũng có thể mọ
c thành cây Con người đã biết sử dụng khả năng
này của thực vật để tạo ra các cơ thể mới, ngày nay còn biết tác động từ những phần
rất nhỏ của cơ thể để tạo ra cơ thể mới (nuôi cấy mô).
Cần phân biệt, thứ nhất, kết quả của sinh sản sinh dưỡng là làm tăng số lượng cá
thể, xâm chiếm khoảng không. Thứ hai, sinh s
ản sinh dưỡng phục hồi được những
phần cơ thể bị tổn thương hay bị chết. Như đã biết, sự tạo thành chồi mới có ý nghĩa
sinh vật học, quần lạc học và kinh tế nông nghiệp rất lởn, có thể coi đây là sự phục hồi
chứ không chỉ là sinh sản sinh dưỡng.
Tiếp theo là phương pháp nghiên cứu của cả hai loại (sinh sản và phát tán sinh
dưỡng)
được xem xét cùng nhau. Những vấn đề liên quan đến sinh sản sinh dưỡng và
phát tán sinh dưỡng của thực vật là không thể tách rời nhau. Rõ ràng là khả năng phát

tán bằng con đường sinh dưỡng, nghĩa là xâm chiếm khoảng trống bằng cơ quan sinh
dưỡng, nó khác với xâm chiếm bằng sinh sản hạt hay bào tử và đơn giản hơn, còn sinh
sản hạt nó biểu hiện ở các mức độ khác nhau. Ở đây cần nói thêm rằng, khi nghiên cứu
sinh sản sinh dưỡng c
ần đặc biệt chú ý đến sức sống và tốc độ phát tán của thực vật

×