Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Sự phối hợp của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong kiểm soát lạm phát ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2008 đến nửa đầu năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.47 KB, 31 trang )

1

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
I.

Lý do chọn đề tài
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ hợp thành hệ thống chính sách quan trọng

trong việc điều tiết vĩ mơ nền kinh tế, các cơng cụ của hai chính sách này vừa có tính
độc lập, nhưng vừa có tính tương tác, hỗ trợ nhau trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Sự phối hợp tốt, nhịp nhàng hoạt động của hai chính sách này sẽ giúp chính phủ điều
hành đạt được hai mục tiêu quan trọng của kinh tế vĩ mơ là tăng trưởng và kiểm sốt
lạm phát; nhưng ngược lại, sự phối hợp không nhịp nhàng, không gắn kết sẽ làm giảm
hiệu quả điều hành chính sách và thậm chí có thể làm trầm trọng, làm cho kinh tế vĩ
mơ bất ổn. Việc tìm ra cơ chế phối hợp giữa hai chính sách này ln được chính phủ,
các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Vì vậy nhóm chúng tôi đã quyết định chọn đề
tài “ Sự phối hợp của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong kiểm soát lạm
phát ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2008 đến nửa đầu năm 2012” Đề tài này đề cập tới
một số vấn đề phối hợp giữa hai chính sách trong kiểm sốt lạm phát ở Việt Nam trong
thời gian qua và đưa ra một số đề xuất nhằm tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa
trong thời gian tới.
II.

Nội dung và mục tiêu nghiên cứu
Đề tài sẽ đúc kết những cơ sở lý luận về lạm phát, chính sách tiền tệ, chính sách

tài khóa, sự phối hợp của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong kiểm sốt lạm
phát. Từ đó phân tích, đánh giá thực trạng và kết quả đạt được của việc phối hợp hai
chính sách thơng qua các số liệu báo cáo để đưa ra những đánh giá tổng quan và chính
xác về các mặt đã đạt được và những mặt còn hạn chế trong việc phối hợp hai chính
sách. Trên cơ sở đó đưa ra giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho việc phối hợp


hai chính sách tiền tệ và tài khóa một cách một cách hữu hiệu và cụ thể nhất.


2

III. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được tập trung nghiên cứu trong đề tài này là: Sự phối hợp của chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát ở Việt Nam giai đoạn
2008 đến nửa đầu năm 2012
IV. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: trong nước Việt Nam
Phạm vi thời gian: từ năm 2008 đến giữa đầu năm 2012
V.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng trong đề tài này là phương pháp thống

kê mô tả với cách tiếp cận hệ thống bằng số liệu thông tin thực tế thu thập tại trang web
của Tổng cục thống kê. Chuyên đề này sẽ khái quát và mô tả thực trạng áp dụng, phối
hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong kiểm soát lạm phát ở Việt Nam giai
đoạn từ năm 2008 đến nửa đầu năm 2012 . Để từ đó có các giải pháp đưa ra nhằm giúp
cho sự vận dụng các chính sách tiền tệ và tài khóa để kiểm sốt lạm phát của Chính
phủ ngày càng hiệu quả hơn.


3

PHẦN 2. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT, CHÍNH SÁCH TÀI KHĨA, CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ VÀ SỰ PHỐI HỢP CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHĨA, CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ

I. Lạm phát
1. Khái niệm
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của
đồng tiền.Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá đồng tiền nội
tệ so với các loại tiền tệ khác.
Lạm phát cũng có thể là do khối lượng tiền lưu hành trong xã hội tăng lên khi
Chính phủ khơng quản lý được khối lượng tiền lưu hành, hoặc là do Chính phủ phát
hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Trong khi đó, số lượng hàng hóa xã hội
sản xuất ra vẫn khơng tăng, dẫn đến thừa tiền. Khi thừa tiền sẽ kích thích người tiêu
dùng tăng sức mua (tăng cầu) khiến giá cả tăng vọt, có khi đưa đến siêu lạm phát.
Lạm phát cũng có thể do tác động của yếu tố bên ngồi, do dịng tiền nước ngồi
đổ vào trong nước nhiều dẫn đến thừa tiền, hoặc do giá của một số mặt hàng thiết yếu
nào đó trên thế giới tăng, chẳng hạn như giá dầu thô tăng, dẫn đến các nước có nhập
khẩu dầu sẽ tăng giá điện, cước phí vận chuyển hàng hóa. Điện và cước phí vận chuyển
là những chi phí đầu vào chủ yếu của tất cả các ngành hàng sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ, dẫn đến giá thành sản phẩm tăng theo.
Lạm phát có thể do nhiều nguyên nhân tác động khác nhau, kể cả chính sách tăng
lương của Chính phủ cũng có thể góp phần tác động đến lạm phát, vì khi tăng lương,
người lao động thu nhập được nhiều tiền hơn và mạnh tay chi tiêu, cầu vượt cung.
Tóm lại, lạm phát xảy ra khi xuất hiện sự gia tăng mặt bằng chung về giá cả hàng
hóa. Trong mỗi giai đoạn có thể có giá mặt hàng này tăng, mặt hàng kia giảm, nhưng
nếu mức giá chung tăng, ta có lạm phát. Nếu mức giá chung giảm, ta có giảm phát.
Nếu chỉ có một vài mặt hàng chẳng hạn như giá đường, hay giá gạo tăng một cách đơn


4

lẻ thì khơng có nghĩa là lạm phát, mà đơn giản chỉ là một sự mất cân đối tạm thời giữa
cung và cầu trong ngắn hạn. Khi lạm phát xảy ra, giá trị của đồng tiền bị sụt giảm.
2. Phân loại lạm phát

2.1. Căn cứ vào định lượng
a. Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát xảy ra với giá cả hàng hóa tăng chậm và có
thể dự đoán trước được, thường được giới hạn ở mức một con số 1 năm. Thậm chí,loại
lạm phát này cịn có thể có tác dụng mở rộng tín dụng, một mặt kích cầu, một mặt gia
tăng đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc
làm giảm tỉ lệ thất nghiệp.
b. Lạm phát phi mã
Lạm phát phi mã: là loại lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng nhanh ở mức từ
2 đến 3 con số một năm. Khi lạm phát phi mã xảy ra, do tiền bị mất giá rất nhanh nên
người dân khơng cịn muốn nắm giữ tiền mà chuyển sang săn lùng mua hàng hóa,
vàng, ngoại tệ cất giữ. Lãi suất thực có thể giảm bằng khơng hoặc âm, hiệu quả kinh tế
suy giảm, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, thu nhập thực tế của người lao động bị xói
mịn nghiêm trọng, thất nghiệp tăng cao.
c. Lạm phát siêu tốc:
Lạm phát siêu tốc: là loại lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng rất nhanh với
tốc độ từ 4 con số trở lên 1 năm. Người dân phải chạy trốn khỏi tiền và chuyển sang cất
trữ mọi thứ. Nền kinh tế có thể bị biến động và rơi vào khủng hoảng trầm trọng, thất
nghiệp tràn lan, đời sống nhân dân giảm sút nghiêm trọng. Lạm phát thường xảy ra do
các biến cố lớn dẫn đến đảo lộn trật tự xã hội như chiến tranh, khủng hoảng chính trị.
2.2. Căn cứ vào định tính
a. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
Lạm phát cân bằng: giá cả tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao
động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.


5

Lạm phát không cân bằng: giá cả tăng không tương ứng với thu nhập thực tế của
người lao động.

b. Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
Lạm phát dự đoán trước được: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với
tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước, nên lạm phát này không gây ảnh
hưởng đến đời sống - kinh tế.
Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước đến giờ chưa xuất hiện.
Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi.
Từ đó, loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của người
dân vào chính quyền có phần giảm sút.
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát do cầu
kéo" và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai thủ phạm chính.
3.1. Lạm phát do cầu kéo
Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ kéo theo sự tăng
lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang,
dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường. Lạm phát do sự tăng
lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng) được gọi là “lạm phát do cầu kéo”.
3.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào,
máy móc, chi phí bảo hiểm cho cơng nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố
này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì thế
mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là mức giá
chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.


6

3.3. Lạm phát do cơ cấu
Với ngành kinh doanh hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công cho người lao
động. Nhưng những nhóm ngành kinh doanh khơng hiệu quả, doanh nghiệp cũng

theoxu thế đó buộc phải tăng tiền cơng cho người lao động. Nhưng vì kinh doanh kém
hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc
phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.
3.4. Lạm phát do cầu thay đổi
Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu
về một mặt hàng khác lại tăng lên.Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền, giá cả
có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà khơng giảm, như giá điện ở Việt
Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có
lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
3.5. Lạm phát do xuất khẩu
Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ
lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến
lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng
cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy
sinh lạm phát.
3.6. Lạm phát do nhập khẩu
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế
giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bị
giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
3.7. Lạm phát do tiền tệ
Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương
mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay do
ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền
trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.


7

4. Ảnh hưởng của lạm phát đến đời sống kinh tế xã hội
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy

theo mức độ của nó.
4.1. Tác động phân phối lại thu nhập và của cải
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác nhau
trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những ngươi có tài
sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói chung đều tăng
lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công ăn lương,
những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại.
4.2. Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng lên thì
thất nghiệp giảm xuống và ngược lại. Nhà kinh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý
thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm”, theo đó một nước có thể mua một mức độ
thất nghiệp tháp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
4.3. Các tác động khác
Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy ra làm tăng tỷ giá hối
đoái. Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều kiện tăng xuất khẩu, tuy
nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động nhập khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho
hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng.Nguồn tiền trong xã
hội bị sụt giảm nhanh chóng,nhiều ngân hàng bị phá sản vì mất khả năng thanh
toán.Lạm phát gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mịn giá trị thực của
những khoản cơng phí. Ngồi ra lạm phát cao kéo dài và khơng dự đoán trước được
làm cho nguồn thu ngân sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái. Tuy nhiên,
lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những trường
hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng dần thì tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đẩy người ta
nhanh hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy chính phủ có thể thu được
nhiều thuế hơn mà khơng phải thơng qua luật.


8

II. Chính sách tiền tệ

1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ
Khái niệm chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô
do NHTW khởi thảo và thực thi, thông qua các cơng cụ, biện pháp của mình nhằm đạt
các mục tiêu:ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng:
chính sách tiền tệ mở rộng hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thơng qua CSTT có thể tác động đến sự tăng
hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình.Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2
mặt: Sức mua đối nội của đồng tiềnvà sức mua đối ngoại.Tuy vậy,CSTT hướng tới ổn
định giá trị đồng tiền khơng có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế khơng
thể phát triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp
tăng.
Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới
việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó
ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế .Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì
phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ
trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mơ của mình, để giữ cho nhịp độ tăng
trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể
hiện lịng tin của dân chúng đối với Chính phủ .Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả
hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.


9

3. Các cơng cụ của chính sách tiền tệ
3.1. Nghiệp vụ thị trường mở
Khái niệm:Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị
trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng tiền cung ứng.

Cơ chế tác động: Khi NHTW mua (bán) chứng khốn thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ
tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay
đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R ), nếu bao gồm cả cơng chúng thì nó sẽ làm
thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông (C).
Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một cơng
cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khốn mua (bán)
tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh,ít tốn kém về chi phí ,dễ đảo
ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện thơng qua quan hệ trao đổi nên nó cịn phụ
thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để cơng cụ này hiệu
quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
3.2. Dự trữ bắt buộc
Khái niệm: Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phải giữ lại, do NHTW
quy định,gửi tại NHTW,không hưởng lãI,không được dùng để đầu tư,cho vay và thơng
thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm
bảo khả năng thanh toán,sự ổn định của hệ thống ngân hàng
Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số
nhân tiền tệ trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ
bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay
tăng (giảm),từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc điểm: Đây là cơng cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp NHTW chủ
động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh.


10

Song tính linh hoạt của nó khơng cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm, phức tạp,
tốn kém và nó có thể ảnh hưởng khơng tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
3.3. Chính sách tái chiết khấu
Khái niệm: Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các

NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu
(đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay tái chiết khấu(cửa sổ chiết khấu).
Cơ chế tác động: Khi NHTW tăng (giảm) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế
(khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay của các
NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng).Mặt
khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc
khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ngồi ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa phổ biến để
có thể làm cơng cụ táI chiết khấu) thì NHTW cịn thực hiện nghiệp vụ này thông qua
việc cho vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM.
Đặc điểm: Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là người cho
vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh tốn ,và có
thế kiểm sốt đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác động tới
việc đIều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào
các lĩnh vực cụ thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động
cho vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó ,sai
lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường.
3.4. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
Khái niệm: là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM khơng được
vượt q một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai
trò kiểm sốt mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho tồn nền kinh
tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ tăng trưởng ,lạm phátiêu thụ..) sau


11

đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức
do NHTW quy định .
Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng
tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có

quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các
công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những
giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .Song nhược
điểm của nó rất lớn: triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm hiệu quả
phân bổ vốn trong nến kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngồi sự kiểm
sốt của NHTW và kìm hãm nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
3.5. Quản lý lãi suất của các NHTM
Khái niệm:NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay
để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới qui mơ
tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền
cung ứng thay đổi theo.
Đặc điểm: Giúp NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của
từng thời kỳ, điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện phát huy tác
dụng của các cơng cụ gián tiếp. Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất vì
thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ
cung cầu về vốn trong nến kinh tế.


12

III. Chính sách tài khóa
1. Khái niệm
Là việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu để điều tiết mức chi tiêu chung
của nền kinh tế, khi sản lượng thực tế của nền kinh tế ở quá xa bên phải hoặc bên trái
mức sản lượng tiềm năng, thì lúc đó cần tác động của chính sách tài khố hoặc tiền tệ
để đưa mức sản lượng thực tế về mức sản lượng tiềm năng.
Theo cách tiếp cận của Keynes thì vai trị trung tâm của Chính phủ là chính sách

tài khố.Chính phủ sẽ sử dụng chính sách tài khố với những công cụ khác nhau ứng
với từng điều kiện cụ thể của nền kinh tế.
Giả sử nền kinh tế đang lâm vào suy thoái và thất nghiệp.Các hãng tư nhân khơng
muốn đầu tư thêm, cịn người tiêu dùng khơng muốn chi tiêu cho tiêu dùng nên tổng
cầu (AD) ở mức rất thấp. Lúc này để mở rộng tổng cầu thì Chính phủ sẽ tăng chi tiêu
hoặc giảm thuế để tăng mức chi tiêu cho nền kinh tế. Trong mơ hình số nhân đầy đủ,
việc Chính phủ tăng chi tiêu và giảm thuế sẽ khiến sản lượng thực tế tăng lên và mức
việc làm đầy đủ có thể khơi phục. Trong trường hợp ngược lại : nền kinh tế rơi vào lạm
phát hoặc tăng q cao thì Chính phủ có thể giảm chi tiêu và tăng thuế nhằm kiềm chế
bớt tốc độ tăng quá cao của nền kinh tế.Tuy nhiên, trên thực tế chính sách tài khố
khơng đủ sức mạnh như vậy, nhất là trong điều kiện kinh tế hiện nay.
2. Mục tiêu của chính sách tài khóa
Chính sách tài khố nhằm mục tiêu:
-

Ổn định nền kinh tế ở mức sản lượng mục tiêu là sản lượng tiềm năng (Yp)
Duy trì nền kinh tế ở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Tỷ lệ lạm phát nền kinh tế là vừa phải.

3. Các cơng cụ của chính sách tài khóa
Chính sách tài khố có 2 cơng cụ: chi tiêu ngân sách và thuế.
Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái <=> sản lượng thực tế của nền kinh tế (Yt) thấp
hơn sản lượng tiềm năng (Yp): Yt < Yp. Lúc này Chính phủ cần thực hiện chính sách


13

tài khố mở rộng nhằm kích cầu thúc đẩy nền kinh tế đạt đến mức sản lượng tiềm
năng, cụ thể:
- Tăng chi tiêu hàng hoá và dịch vụ (G)

- Giảm thuế (T)
=> Kết quả là: G, T  AD  Y, U
Khi nền kinh tế có lạm phát cao <=> sản lượng thực tế của nền kinh tế vượt cao
hơn sản lượng tiềm năng: Yt >Yp . Lúc này Chính phủ cần thực hiện chính sách tài
khố thu hẹp nhằm hạ bớt “nhiệt” giúp sản lượng thực tế quay trở về mức sản lượng
tiềm năng, cụ thể:
- Giảm chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ
- Tăng thuế
=> Kết quả là: G, T  AD  Y, P , U
IV. Sự phối hợp của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Chính sách tài khóa với thuế và chi tiêu của Chính phủ tác động trực tiếp đến yếu
tố chi tiêu chính phủ (G) hoặc gián tiếp đến tiêu dùng (C), đầu tư (I), xét cho cùng là
tác động đến tổng cầu. Chính sách tiền tệ với các quyết đinh về mức cung tiền tác động
trực tiếp đến thị trường tiền tệ, qua đó tác động trở lại đến tổng cầu (C, I, X). Cả hai
chính sách đều tác động đến quy mơ của tổng cầu nhưng mỗi chính sách đều lại gây ra
sự thay đổi khác nhau về các thành phần của tổng cầu. Có thể nói sự vận dụng tốt cả
hai chính sách có khả năng quản lý (kiểm soát) được tổng cầu để ổn định được thu
nhập (sản lượng) ở mức dự kiến (sát với sản lượng tiềm năng). Như vậy trên giác độ
kinh tế vĩ mơ cần có một mục tiêu cho cả hai chính sách, có những cơ quan có khả
năng phối hợp điều hành. Sự thiếu phối hợp có thể triệt tiêu tác động của các chính
sách và dẫn đến sự mất cân đối vĩ mô một cách trầm trọng.

Về mặt lý thuyết, có thể xây dựng thành các cặp chính sách có cùng mục tiêu.


14

(1) Khi cho rằng tổng cầu ở mức quá thấp có thể dùng chính sách mở rộng tài khóa và
mở rộng tiền tệ, đường IS và LM sẽ dịch chuyển xa sang bên phải, tổng cầu và sản
lượng sẽ tăng mạnh.

(2) Khi tổng cầu ở mức quá cao, có thể dùng chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt để
giảm mạnh tổng cầu và làm giảm lượng tiền trong lưu thơng, điển hình:
 Đối với CSTT: áp dụng các biện pháp
+ Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Đây là biện pháp nhằm giảm lượng cung tiền vào thị
trường. Biện pháp này tác động đến tất cả các ngân hàng và bình đằng giữa các ngân
hàng với nhau
+ Nâng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi: Biện pháp này sẽ làm hạn chế
các ngân hàng thương mại mang các giấy tờ có giá đến ngân hàng nhà nước để chiết
khấu. Ngoài ra việc nâng lãi suất tiền gửi sẽ hút khiến người dân gửi tiền vào ngân
hàng nhiều hơn.
+ Ngân hàng trung ương áp dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm bán các chứng từ
có giá cho các ngân hàng thương mại.
+ Ngân hàng trung ương bán vàng và ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại.
+ Ngân hàng Trung ương ngừng phát hành tiền vào trong lưu thông nhằm giảm
lượng tiền đưa vào lưu thông trong xã hội

 Đối với CSTK: áp dụng các biện pháp


15

+ Giảm chi ngân sách: Đó là giảm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm đầu tư công.
+ Tăng tiền thuế tiêu dùng nhằm giảm bớt nhu cầu chi tiêu cá nhân trong xã hội.
Y
Yp
i
Yt
IS0
LM0
IS1

LM1
i1
i0
Mơ hình áp dụng CSTK và CSTT thắt chặt nhằm đưa Yt về Yp
(3) Khi tổng cầu ở mức vừa phải, sản lượng tương đối ổn định ở mức dự kiến, có thể sử
dụng hỗn hợp tài chính chặt chẽ - tiền tệ mở rộng hoặc tài chính mở rộng – tiền tệ thắt
chặt để làm biến đổi thành phần của tổng cầu. Với hỗn hợp tài chính thắt chặt và tài
chính mở rộng vừa đủ để tổng cầu không thay đổi, nhưng tiêu dùng và đầu tư tăng lên,
chi tiêu Chính phủ giảm xuống.Hỗn hợp này có thể ổn định sản lượng hiện tại nhưng
có lợi cho sự tăng trưởng trong tương lai nhờ mở rộng quỹ vốn, sẽ có thêm việc làm
với năng suất cao hơn. Tuy nhiên, nếu sự cắt giảm chi tiêu của Chính phủ tập trung vào
các khỏan đầu tư cơng cộng mang lại lợi ích chung thì cần cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng.
Với hỗn hợp tài khóa mở rộng và tiền tệ thắt chặt có thể giữ nguyên tổng cầu, mở
rộng khả năng đầut tư công cộng và hạn chế sự bành trướng về đầu tư và tiêu dùng.
Trong thực tiễn đời sống kinh tế có quá nhiều các nhân tố kinh tế, xã hội, tồn tại
… trong thời gian dài, ngắn khác nhau, tác động cùng chiều hoặc ngược chiều đến
nhiều vấn đề kinh tế. Mơ hình trên đây chỉ là một mơ hình đơn giản, nên thật sự khó dự
đốn kết quả thật sự khi thực hiện các hỗn hợp chính sách nói trên. Cũng vì lẽ đó,
chính sách tài khóa thường được coi trọng hơn bởi nó tác động trực tiếp vào tổng cầu,
cịn chính sách tiền tệ phải qua một cơ chế lan truyền từ tác động vào thị trường tiền tệ
và qua hiệu ứng của thị trường này tác động đến hành vi ứng xử của các tác nhân kinh


16

tế, để có được một tổng cầu theo dự kiến. Khó có thể đánh giá chính xác tác động của
chính sách tiền tệ.
Khi thực hiện chính sách tiền tệ để quản lý (kiểm soát) tổng cầu thường gặp phải
trở ngại là lạm phát. Trong những điều kiện nào đó về cung, chính sách tiền tệ mở rộng
có thể khơng đẩy được đường LM sang phải, tòan bộ phần gia tăng của mức cung tiền

khơng có ảnh hưởng đến tổng cầu mà chuyển tòan bộ vào giá làm lạm phát trở nên
trầm trọng.


17

PHẦN 3. SỰ PHỐI HỢP CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TÀI
KHĨA TRONG KIỀM SỐT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008
ĐẾN GIỮA 2012 - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
I. Thực trạng áp dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong kiểm sốt
lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2008 đến giữa 2012
Từ năm 2008, lạm phát bắt đầu bùng nổ ở Việt Nam, đây là kết quả tất yếu của
việc áp dụng chính sách kích cầu của những năm trước, chỉ số giá tiêu dùng CPI năm
2008 tăng lên 19,89% và giảm xuống 6,52% trong năm tiếp theo, đến năm 2010 lại
tăng lên 11,75% và đạt mức 18,13% trong năm 2011,cho đến giữa năm 2012 thì giảm
0,26% so với tháng trước, sau 38 tháng tăng liên tục.

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam
Mô tả rõ nét về sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm
chế lạm phát giai đoạn từ năm 2008 đến nửa đầu năm 2012


18

 Năm 2008: Giai đoạn nhằm mục tiêu ổn định vĩ mơ sau khủng hoảng, chính
phủ đã áp dụng CSTT thu hẹp phối hợp với CSTK thu hẹp.
+ CSTT: Từ đầu năm 2008,NHNN đã sử dụng tất cả các công cụ CSTT theo
hướng thắt chặt để kiềm chế lạm phát như:
o Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả
các kỳ hạn

o Phát hành bắt buộc 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN và quy định các tín phiếu
NHNN không được sử dụng để vay tái cấp vốn tại NHNN
o Lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 12% rồi 14%. Hệ thống lãi suất điều
hành gồm cặp lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh tăng lên 15% và 13%
o Khống chế hạn mức tín dụng và yêu cầu kiểm soát chặt những lĩnh vực cho vay
có rủi ro cao, đặc biệt cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản...
+ CSTK: Song song với việc thắt chặt của chính sách tiền tệ thì chính sách tài
khố cũng được thắt chặt, cụ thể:
o Chính phủ đề ra cắt giảm đầu tư cơng bằng cách rà sốt cắt giảm những cơng
trình đầu tư chưa cần thiết và tập trung vào đầu tư dứt điểm những cơng trình dự
án có khả năng hồn thành trong năm 2008; đồng thời giảm 25% kế hoạch đầu
tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ.
o Chính phủ cũng cắt giảm những khoản chi thường xuyên thông qua việc thực
hiện tiết kiệm chi 10% kinh phí thường xuyên. Kết quả là: tổng chi tiêu Chính
phủ thực hiện trong năm 2008 vẫn vượt 19% so với dự toán, tăng hơn 22% so
với thực hiện năm 2007 và chiếm 31,75% GDP. Chi đầu tư phát triển đã được
cắt giảm đáng kể nhưng vẫn chiếm đến 7,9% GDP, vượt dự toán 18% và tăng
5% so với năm 2007.
=>Kết quả:CPI năm 2008 vẫn ở mức cao (22,3 %), thâm hụt ngân sách nhà nước
năm 2008 vẫn xấp xỉ 5% GDP. Ðến ngày 31/12/2008, nợ công chiếm 42% GDP, dư
nợ ngoài nước của quốc gia bằng 27,2% GDP.


19

 Năm 2009: Giai đoạn kích cầu, chính phủ áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng
phối hợp với chính sách tài khóa mở rộng.
+ CSTT: Đứng trước tình hình suy thoái kinh tế và khủng khoảng kinh tế thế giới
ngày càng lan rộng. NHNN đã đề một loạt biện pháp nhằm mở rộng chính sách tiền tệ
nhằm kích thích đầu tư như:

o Triển khai thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất mà thực chất là mở rộng cung tiền
o Hạ lãi suất cơ bản từ 14% xuống 8,5% và cặp lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn
xuống 7,5% và 9,5%
o Giảm tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền đồng xuống cịn 5%
o Thực hiện thanh tốn trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN. Nghiệp vụ thị
trường mở chủ yếu là mua giấy tờ có giá để cung ứng thêm tiền
o Duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong gần suốt năm 2009, tăng lên 8% vào
tháng 11/2009. Kết quả là tốc độ tăng trưởng tín dụng lên tới mức kỷ lục gần
40% vào năm 2009 và lạm phát tạm thời ở mức 6,9% - tỷ lệ cao nhất trong khu
vực vào thời gian đó.
+ CSTK:Bên cạnh đó chính sách tài khóa cũng được mở rộng, cụ thể như:
o Chính phủ đã đưa ra gói kích cầu đầu tư trị giá 160.000 tỷ đồng để đầu tư và hỗ
trợ những khu vực bị tổn thương.
o Song song đó là các chính sách thuế để hỗ trợ mở rộng sản xuất như giãn thuế,
giảm thuế nhằm kích thích đầu tư và tiêu dùng.
 Kết quả: Chính sự mở rộng chính sách tiền tệ và chính sách tài khố đã góp phần kéo
nền kinh tế Việt Nam ra khỏi tình trạng đổ vỡ hàng loạt do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế thế giới. Đây được xem là một năm thành công trong việc phối hợp điều
hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Đưa chỉ số giá CPI từ 19.89% năm
2008 xuống còn 6,52 % năm 2009 và tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP đạt 5.32%
 Năm 2010: Giai đoạn thực hiện chính sách vĩ mơ thận trọng nhằm ổn định và
duy trì các mục tiêu tăng trưởng chính sách tiền tệ được thực thi một cách linh
hoạt thận trọng, đồng thời chính sách tài khóa mở rộng ở mức hợp lý.


20

+CSTT: Trong 6 tháng đầu năm 2010 thì NHNN áp dụng chính sách tiền tệ thắt
chặt với mục tiêu kiểm soát lạm phát và kiểm soát trạng thái thanh khoản của cả hệ
thống bằng cách hạn chế việc cung ứng tín dụng bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn tín dụng thơng qua việc u cầu chất lượng tín dụng cao, điều này đã làm tăng
trưởng tín dụng trong 6 tháng đầu năm chỉ đạt 10% và bị chỉ trích kiềm hãm sự tăng
trưởng kinh tế. Vì thế 6 tháng cuối năm 2010, NHNN quyết định áp dụng chính sách
tiền tệ nới lỏng nhằm tăng trưởng tín dụng. Chính điều này đã giúp tăng trưởng tín
dụng cả năm tăng gần 28% so với 2009, đổi lại điều này thì hệ thống rơi vào việc rủi ro
thanh khoản do việc thiếu vốn vay vì lãi suất thấp dẫn đến huy động vốn khó khăn
trong khi nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng.
+ CSTK: Nhằm duy trì và kích thích tăng trưởng kinh tế nên chính sách tài khố
theo đuổi trong năm 2010 là mở rộng, trong đó chú trọng đến mở rộng đầu tư xây dựng
cơ bản.
 Kết quả: cuối năm 2010 tỷ lệ lạm phát đạt mức 11.75% so với mức 6.52%năm
2009.
 Năm 2011: Giai đoạn ưu tiên ổn định vĩ mơ, kiềm chế lạm phát, chính sách tiền
tệ thắt chặt phối hợp chính sách tài khóa thận trọng linh hoạt.
+ CSTT: Sau 6 tháng cuối năm 2010 áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng thì đầu
năm 2011 NHNN đưa ra một loạt các biện pháp nhằm thắt chặt tiền tệ trong bối cảnh
nền kinh tế đang rơi sâu vào lạm phát như:
o Tập trung vốn phát triển sản suất kinh doanh, giảm tỷ lệ nợ cho vay vào lĩnh vực
phi sản suất
o Lãi suất chiết khấu tăng từ 7%/năm lên 13%/năm, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất
cho vay qua đêm trong thanh toán liên ngân hàng tăng từ 10% lên 16%/năm
o Nghiệp vụ thị trường mở thực hiện nghiệp vụ hút tiền ròng trong phần lớn thời
gian của năm 2011
o Tuân thủ nghiêm ngặt giới hạn tín dụng trong tồn hệ thống ngân hàng với các
chế tài xử phạt nghiêm khắc của nội bộ từng ngân hàng


21

o Xây dựng và định hướng tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng từng bước nhằm

nâng cao tính hiệu quả, giảm mức độ rủi ro và cải thiện sức mạnh cạnh tranh của
hệ thống ngân hàng. Chủ trương này cũng nhằm giải quyết tận gốc căn nguyên
của tình trạng mặt bằng lãi suất cao hiện nay (về phía ngân hàng)
o Triển khai đồng bộ các giải pháp đối với thị trường ngoại tệ, thị trường vàng
nhằm mục tiêu giảm sự di chuyển vốn lòng vòng giữa tài sản được coi như tiền một trong các yếu tố gây áp lực lên lãi suất nội tệ, triệt tiêu tác động của CSTT.
+ CSTK: Được coi là một trong những "công cụ mạnh" và hiệu quả để thực hiện
điều tiết kinh tế vĩ mơ, trong năm 2011, chính sách tài khóa (gồm hai bộ phận chủ yếu
là thu - chi ngân sách để tạo lập quỹ ngân sách nhà nước (NSNN) phục vụ yêu cầu phát
triển Kinh tế - Xã hội) đã được Chính phủ thực hiện thận trọng, linh hoạt:
• Cắt giảm đầu tư công, chống thất thu ngân sách và giảm nợ đọng thuế
• Thực hiện giãn, giảm thuế thu nhập DN, thu nhập cá nhân, thuế nhập khẩu cho
người dân, DN và có chính sách hỗ trợ thiết thực cho người nghèo, đối tượng
chính sách…
=> Kết quả lạm phát tăng cao đạt mức 18.13% vượt xa mức dự kiến ban đầu (đầu
năm dự kiến khoảng 7%. Nợ công tăng nhanh và cao gần vượt xa qua giới hạn an
tồn. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khốn suy giảm và trầm lắng. Nợ xấu
của các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại có xu hướng tăng lên.

 Nửa đầu năm 2012
+ CSTT: Bức tranh kinh tế 6 tháng thể hiện rõ nét những tác động tích cực của
chính sách tiền tệ:
• Phục hồi thanh khoản nền kinh tế, kể cả ngân hàng nhỏ và doanh nghiệp nhỏ và
vừa, đặc biệt là thanh khoản về vốn lưu động


22

• Khơi phục thanh khoản của thị trường bất động sản và chứng khoán để hỗ trợ
cho việc giảm nợ xấu của các NHTM, tái cấu trúc tài chính của các ngân hàng
• Tiếp tục chính sách tỷ giá hối đoái căn bản ổn định, vừa để hỗ trợ đầu tư vừa để

chống lạm phát
+ CSTK: Với vai trò là cơng cụ mạnh, chính sách tài khóa năm 2012 thực hiện
theo xu hướng thắt chặt và tập trung cho thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế:
• Chi cho đầu tư cơng sẽ tiếp tục cắt giảm mạnh và có chọn lọc. Chi thường
xuyên cũng sẽ tiết kiệm hơn và được kiểm sốt, giám sát chặt chẽ hơn.
• Chính sách thuế cần thiết nên nới lỏng, mở rộng các quy định về miễn, giảm
thuế, giãn thời hạn nộp thuế, giảm nhẹ nghĩa vụ thuế cho các đối tượng nộp
thuế... để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, kích thích và thúc đẩy
phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các đối tượng doanh nghiệp thuộc
diện vừa và nhỏ, các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp phụ trợ.
 Kết quả: nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm đã có những bước chuyển biến tích
cực, CPI tính theo năm của tháng 6 đã xuống còn 6,9%, mặt bằng lãi hạ tương
đối nhanh đối với các lĩnh vực ưu tiên; mới đây đã yêu cầu các ngân hàng
thương mại hạ lãi suất vay cũ xuống dưới 15%.Tuy nhiên, bên cạnh những kết
quả tích cực, việc thực hiện chính sách tiền tệ trong những tháng đầu năm 2012
cũng còn một số hạn chế, bất cập và đứng trước những thách thức không nhỏ
như: Nợ xấu ngân hàng hiện đang là một trong những điểm nghẽn lớn nhất hiện
nay mà các chuyên gia gọi là “cục máu đông” làm ách tắc sự luân chuyển của
vốn cho nền kinh tế, lãi suất cho vay cao kéo dài, chênh lệch giữa lãi suất huy
động và lãi suất cho vay còn lớn (thường vượt mức 3%/năm theo thơng lệ), tăng
trưởng tín dụng sau 6 tháng vẫn cịn mang dấu âm, gây ra tình trạng kém thanh
khoản, vốn bị ứ đọng, kém hiệu quả.
 Dự báo chính sách tài khóa, tiền tệ 6 tháng cuối năm 2012
o Lãi suất có thế sẽ ít biến động: Với lạm phát dự kiến cả năm 2012 là dưới
9%/năm thì mức lãi suất huy động 9%/năm có thể sẽ được duy trì cho đến hết
năm 2012. Tuy nhiên, kỳ vọng lạm phát phụ thuộc nhiều vào chính sách tiền tệ


23


thắt chặt và sự tin tưởng của thị trường vào điều hành chính sách. Vì thế kịch
bản lãi suất ổn định chỉ xảy ra nếu Chính phủ vẫn kiên quyết mục tiêu bình ổn
vĩ mơ và cam kết thực hiện với những hành động cụ thể và nhất quán.
o Tỷ giá khó có khả năng biến động mạnh do:
(i)
Nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu chưa lớn do chưa bước vào chu
(ii)

kỳ sản xuất và nền kinh tế vẫn chưa thốt khỏi tình trạng đình trệ;
(ii) NHNN sẽ thực hiện các biện pháp điều tiế để giữ ổn định cho VND

nhằm phục vụ mục tiêu quan trọng nhất trong năm 2012 là giảm lạm phát.
o Tăng trưởng tín dụng sẽ cải thiện: trong thời gian tới do mặt bằng lãi suất giảm
và một loạt các biện pháp nhằm hỗ trợ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã được
thực hiện trong thời gian vừa qua sẽ phát huy tác dụng. Khả năng tiếp cận
nguồn vốn của doanh nghiệp có thể được cải thiện.
o Nợ xấu vẫn tiếp tục là vấn đề đáng lo ngại:và có thể tiếp tục tăng cao nếu
Chính phủ khơng quyết liệt trong việc xử lý nợ xấu.
II. Một số hạn chế phát sinh trong q trình phối hợp của hai chính sách
Mặc dù bối cảnh kinh tế quốc tế không mấy sáng sủa, nhưng trong những năm
Việt Nam vẫn đạt được mục tiêu tăng trưởng và là một trong số quốc gia có tốc độ tăng
trưởng tốt nhất trong khu vực. Hệ thống ngân hàng - tài chính giữ được ổn định, các
cơng cụ điều hành mang tính hành chính trong giai đoạn chống suy giảm kinh tế dần
dần được dỡ bỏ, các công cụ thị trường đang dần tái sử dụng, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp hồi phục và phát triển sau tác động của khủng hoảng kinh tế và tài chính
trên thế giới. Có được kết quả trên, nhờ vào việc chỉ đạo quyết liệt, cùng với phương
pháp điều hành chính sách vĩ mô nhanh nhạy, linh hoạt và thận trọng của Chính phủ,
trong đó chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa - tài chính đóng vai trị quan trọng có
quyết định tới ổn định kinh tế vĩ mơ và thúc đẩy tăng trưởng.
Thế nhưng, mặc dù đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP, song lạm phát vẫn ở mức

cao.Có nhiều ngun nhân dẫn đến kết quả khơng mong muốn này, trong đó sự phối
hợp chưa thực sự nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ cũng đã


24

ảnh hưởng tới kết quả kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Sự phối hợp
chưa nhịp nhàng giữa hai chính sách vĩ mơ quan trọng và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
đến kiểm sốt lạm phát trong ngắn hạn là do:
Thứ nhất: Chủ trương duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài, đặc biệt ngay cả
trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới đã đè nặng lên chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Với mơ hình tăng trưởng chủ yếu nhờ vào tăng lượng
đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước hiện tại hoạt động kém hiệu quả làm chủ đạo và
nhờ vào việc bán tài ngun, gia cơng trình độ thấp... dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp.
Điều này được minh chứng qua số đơn vị cần thiết để tạo ra một điểm phần trăm tăng
trưởng GDP (hệ số ICOR) vào khoảng 6 trong những năm gần đây, dẫn đến quyết định
logic về chính sách là để tăng trưởng cao cần gia tăng đầu tư.
Thứ hai: Kết cục của mơ hình tăng trưởng này dẫn đến Chính phủ phải thực thi
chính sách tài khóa mở rộng, chấp nhận thâm hụt ngân sách (5,8%) và phát hành trái
phiếu để bù đắp cho nhu cầu đầu tư, đặc biệt là đầu tư công. Tổng mức đầu tư ban đầu
của các dự án, cơng trình thuộc danh mục đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ
giai đoạn 2003 - 2010 là 246.447 tỷ đồng. Hầu hết các dự án đều có điều chỉnh tổng
mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu. Có dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 3 - 4
lần, riêng phần vốn trái phiếu Chính phủ một số dự án điều chỉnh tới trên chục lần, qua
tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng mức đầu tư điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa
phương đã lên tới 558.654 tỷ đồng (tăng 226%). Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho
rằng, tổng mức đầu tư các cơng trình, dự án sử dụng nguồn vốn này đã “tăng quá cao
so với khả năng cân đối của ngân sách, ảnh hưởng đến khả năng vay và trả nợ” i. Trong
khi cơ chế điều hành, quản lý nguồn vốn chưa hợp lý số lượng dự án hồn thành cịn
q ít, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn.

Thứ ba: Chinh sách tài khóa với chi tiêu cơng q mạnh trong khu vực đầu tư, làm
tăng tỷ lệ đầu tư/GDP. Do nền kinh tế kém hiệu quả nên các khoản đầu tư công cũng
không mấy hiệu quả đã tạo ra sự mất cân đối giữa lượng hàng hóa với số lượng tiền


25

trong nền kinh tế và kết quả tất yếu phải xảy ra là lạm phát. Chi tiêu công và nợ công
tăng cao trong những năm gần đây đã tạo ra sức ép nặng nề lên giá cả hàng hóa. Điều
này cũng giải thích tại sao chính sách tiền tệ đã kiểm sốt tăng trưởng tín dụng (28%)
và gia tăng tổng phương tiện thanh toán (25%) khá tốt năm 2010 nhưng lạm phát vẫn ở
mức 2 chữ số. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam trong
nhiều năm qua.
Thứ tư: Một minh chứng khác cho việc thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ là trong nhiều thời điểm, trong khi chính sách tiền
tệ đang vận hành theo hướng thắt chặt tiền tệ để ổn định giá cả, Chính phủ lại điều
chỉnh tăng giá một số mặt hàng như xăng dầu, giá điện. Sự không nhất quán này đã
phần nào làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát ở Việt
Nam trong thời gian qua
Thứ năm:Trong khi chính sách tiền tệ đang điều hành theo hướng giảm lãi suất thị
trường để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn với chi phí thấp thì để huy động
vốn cho gia tăng đầu tư cơng, Chính phủ phải tăng cường phát hành trái phiếu chính
phủ với lãi suất ở một số thời điểm lên tới 11 - 12%/năm, cao hơn lãi suất huy động
vốn của các tổ chức tín dụng, sau một thời gian, mức lãi suất huy động trái phiếu đã
giảm xuống 9,6% năm, nhưng vẫn cao hơn so với mức rủi ro của cơng cụ tài chính này.
Các ngân hàng thương mại với động cơ tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, họ đã
sử dụng vốn huy động được trên thị trường mua trái phiếu chính phủ hấp dẫn hơn là
cho các doanh nghiệp vay và mức lãi suất này vơ hình trung đã đẩy mức lãi suất huy
động trên thị trường lên cao. Đây là một biểu hiện của sự chưa ăn khớp giữa vận hành
của chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ trong thời gian qua.

Thứ sáu: Sự thiếu phối hợp, trao đổi thông tin trong điều hành chính sách tiền tệ
và chính sách tài khóa cũng đã ảnh hưởng tới việc điều hành của chính sách sách tiền
tệ về ngắn hạn. Điều hành chính sách tiền tệ địi hỏi có hệ thống thơng tin tài chính đầy
đủ, cập nhật và chính xác, thế nhưng trong một số trường hợp các thông tin, báo cáo về


×