Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

BÁO CÁO THUYẾT MINH TỔNG HỢP QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT ĐẾN NĂM 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020 VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM MIỀN TRUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 171 trang )

MỞ ĐẦU
Đất đai - nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của mỗi quốc
gia, địa bàn phân bố và nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế, văn hoá xã hội, an
ninh và quốc phòng, giới hạn về diện tích, hình thể nhưng mức độ sản xuất lại
phụ thuộc vào sự đầu tư, hướng khai thác sử dụng của con người.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (Điều
18) quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch
và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả”. Luật Đất đai
hiện hành quy định: “Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất” là một
trong những nội dung quản lý Nhà nước về đất đai.
Quy hoạch sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ cho
trước mắt mà cả lâu dài. Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương
hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh
thổ, quy hoạch sử dụng đất được tiến hành nhằm tạo cơ sở pháp lý để bố trí sử
dụng đất đai hợp lý, có hiệu quả, bảo vệ cảnh quan môi trường, đồng thời đáp
ứng được yêu cầu thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai, đặc biệt trong giai
đoạn thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Một trong những nhân tố đột phá then chốt để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước là có những chính sách hợp lý nhằm đẩy nhanh tốc
độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh
tế và cơ cấu vùng kinh tế. Để thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng
như tạo mối liên kết và phối hợp trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng
kinh tế, Chính phủ đã lựa chọn một số tỉnh, thành phố để hình thành nên các
vùng kinh tế trọng điểm quốc gia có khả năng đột phá, tạo động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với tốc độ cao và bền vững, tạo điều kiện
nâng cao mức sống của toàn dân và nhanh chóng đạt được sự công bằng xã hội
trong cả nước.
Theo hướng đó, ngay từ cuối năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
Quyết định số 1018/1997/QĐ-TTg ngày 29/11/1997 về Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (KTTĐMT), bao gồm 4
tỉnh, thành phố là Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Đến nay


quy mô của vùng được mở rộng thêm tỉnh Bình Định và Thủ tướng Chính phủ đã
phê duyệt phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 tại Quyết định số
148/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004 nhằm phát huy tiềm năng, vị trí địa lý và các lợi
thế so sánh của vùng, từng bước phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
thành một trong những vùng phát triển năng động của cả nước, bảo đảm vai trò hạt
nhân tăng trưởng, thúc đẩy phát triển khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
1
Để đáp ứng các mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các
Bộ, ngành Trung ương tiến hành lập quy hoạch đồng bộ theo từng ngành,
từng lĩnh vực, trong đó việc phân bổ bố trí quỹ đất cho các mục đích sử dụng
giữ vai trò hết sức quan trọng, đòi hỏi phải tiến hành lập quy hoạch sử dụng
đất của vùng. Thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã xây dựng báo cáo Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020 vùng KTTĐMT với đối tượng nghiên cứu bao gồm toàn
bộ quỹ đất đai theo địa giới hành chính của các tỉnh, thành phố thuộc vùng
KTTĐMT theo phương pháp:
1). Trên cơ sở các kết quả về:
- Đánh giá điều kiện tự nhiên, thực trạng và định hướng phát triển kinh
tế - xã hội, tình hình sử dụng đất, tiềm năng đất đai của vùng và các tỉnh,
thành phố trong vùng.
- Dự báo dân số của vùng và các tỉnh, thành phố trong vùng đến năm
2020.
- Chiến lược, quy hoạch phát triển một số ngành, lĩnh vực (nông, lâm
nghiệp, thủy sản; đô thị, giao thông, thủy lợi) của cả nước đến năm 2020.
- Định mức sử dụng đất đối với các lĩnh vực: y tế, giáo dục - đào tạo,
văn hóa, thể dục - thể thao.
- Mối quan hệ về sự chuyển dịch giữa nguồn vốn đầu tư toàn xã hội -
tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ với sự chuyển dịch diện tích đất qua
các giai đoạn 2001 - 2005, 2006 - 2010, 2001 - 2010 cũng như quy luật biến

động sử dụng đất trong thời kỳ 1996 - 2005...
2). Từ đó tính toán, tổng hợp và dự báo nhu cầu sử dụng đất của các
ngành, các lĩnh vực đến năm 2010 và 2020.
3). Sau khi đối soát với kết quả điều tra thực tiễn và khả năng đáp ứng
từ quỹ đất đai, tiến hành cân đối giữa các mục đích sử dụng, đề xuất các chỉ
tiêu định hướng, quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và 2020, trong đó:
- Cơ bản đảm bảo quỹ đất cho các ngành, các lĩnh vực theo quy hoạch,
điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của các tỉnh trong vùng đã
được Chính phủ phê duyệt.
- Có sự điều chỉnh một số loại đất đạt tiêu chuẩn đối với các tỉnh dự
báo thấp hơn so với định mức cũng như cân đối phù hợp với các chỉ tiêu sử
dụng đất của vùng được tổng hợp từ các tỉnh theo quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất cả nước đã được Quốc hội phê duyệt.
- Có tính đến mối quan hệ, tính liên kết trong toàn vùng, liên vùng đối
với một số lĩnh vực như: các khu kinh tế (Chân Mây - Lăng Cô - Chu Lai -
2
Dung Quất - Nhơn Hội), các khu đô thị, trung tâm thương mại (Huế - Đà
Nẵng - Vạn Tường - Quy Nhơn), các khu du lịch (Cố đô Huế - Chân Mây -
Lăng Cô - Mỹ Khê - Non Nước - Hội An - Mỹ Sơn - Sa Huỳnh - Quy Nhơn)…
Trong quá trình nghiên cứu, ngoài việc tuân thủ các quy định theo Luật
Đất đai năm 2003 và các văn bản dưới Luật (như Nghị định số 181/2004/NĐ-
CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, Thông tư số 30/2004/TT-BTNMT ngày
01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường...), Quy hoạch sử dụng đất vùng
KTTĐMT còn được xây dựng dựa trên những văn bản, tài liệu sau:
1). Các văn bản, tài liệu liên quan về đất đai:
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến
năm 2005 của cả nước; Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006 - 2010 của cả nước
(đã được Quốc hội phê duyệt).
- Quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010; kế
hoạch sử dụng đất 5 năm (2001 - 2005) và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006

- 2010) của các tỉnh trong vùng đã được phê duyệt.
- Kết quả tổng kiểm kê đất đai năm 2000 và kiểm kê đất đai năm 2005;
Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 1996 - 2000 và 2001 - 2005
của các tỉnh trong vùng.
2). Các văn bản, tài liệu liên quan khác:
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
- Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị về phát
triển kinh tế - xã hội đảm bảo an ninh quốc phòng vùng Bắc Trung bộ và
Duyên hải Trung bộ đến năm 2010.
- Chương trình hành động của Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết
số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị (ban hành kèm Quyết định
phê duyệt số 113/2005/QĐ-TTg ngày 20/5/2005).
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 - 2010 và các chỉ
tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 của cả nước, các vùng
kinh tế.
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 của cả nước.
- Phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng
điểm Miền Trung đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 (Quyết định phê
duyệt số 148/2004/QĐ-TTg ngày 13/8/2004).
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung bộ -
Duyên hải Trung bộ và vùng Kinh tế trọng điểm Miền Trung đến năm 2020
(đang trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt).
3
- Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo
các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 (Quyết định phê
duyệt số 73/2006/QĐ-TTg ngày 04/4/2006).
- Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015
và định hướng đến năm 2020 (Quyết định phê duyệt số 1107/QĐ-TTg ngày
21/8/2006).
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội khu kinh tế Dung Quất

đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 (Quyết định phê duyệt số
139/2006/QĐ-TTg ngày 16/6/2006).
- Quy hoạch chung xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai (Quyết định phê
duyệt số 43/2004/QĐ-TTg ngày 23/3/2004).
- Các văn bản, tài liệu liên quan đến việc thành lập và xây dựng các khu
kinh tế Chu Lai, Chân Mây - Lăng Cô, Nhơn Hội (Quyết định số 108/QĐ-TTg
ngày 25/7/2003, Quyết định số 04/2006/QĐ-TTg ngày 05/01/2006...).
- Kết quả dự báo dân số cho cả nước, các vùng địa lý - kinh tế và 61
tỉnh/thành phố Việt Nam 1999 - 2024.
- Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm
2020 (Quyết định phê duyệt số 10/1998/QĐ-TTg ngày 23/01/1998).
- Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp, thuỷ sản cả
nước đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 (Quyết định phê duyệt số
150/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005).
- Quy hoạch tổng thể phát triển thuỷ sản cả nước đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020 (Quyết định phê duyệt số 10/2006/QĐ-TTg ngày
11/01/2006).
- Chiến lược phát triển giao thông vận tải Việt Nam (Quyết định phê
duyệt số 206/2004/QĐ-TTg ngày 10/12/2004).
- Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020 (Quyết định phê duyệt số 162/2002/QĐ-
TTg ngày 15/11/2002).
- Quy hoạch tổng thể phát triển ngành giao thông đường sắt Việt Nam
đến năm 2020 (Quyết định phê duyệt số 06/2002/QĐ-TTg ngày 07/01/2002).
- Quy hoạch tổng thể phát triển ngành giao thông vận tải đường sông Việt
Nam đến năm 2020 (Quyết định phê duyệt số 16/2000/QĐ-TTg ngày
03/02/2000).
- Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ
sở đến năm 2010 (Quyết định phê duyệt số 271/2005/QĐ-TTg ngày
31/10/2005).

4
- Quy hoạch phát triển ngành thể dục thể thao đến năm 2010 (Quyết
định phê duyệt số 57/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002).
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và 2015,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 của các tỉnh trong
vùng.
- Các kết quả nghiên cứu trên địa bàn vùng KTTĐMT và các tỉnh trong
vùng đã được phê duyệt trong thời gian qua...
Ngoài phần mở đầu và kết luận, báo cáo gồm 3 phần chính:
Phần 1 - Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Phần 2 - Tình hình quản lý, sử dụng đất và tiềm năng đất đai.
Phần 3 - Định hướng sử dụng đất đến năm 2020 và quy hoạch sử dụng
đất đến năm 2010.
5
Phần 1
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN VÀ CẢNH QUAN MÔI TRƯỜNG
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Vùng KTTĐMT là một trong 3 vùng kinh tế trọng điểm của nước ta
với 2.788.403 ha đất tự nhiên, chiếm 8,42% diện tích tự nhiên toàn quốc, bao
gồm 5 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng,
Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.
Tọa độ địa lý nằm trong khoảng từ 13
0
30’ đến 16
0
45’ vĩ độ Bắc và từ
107
0

01’ đến 109
0
18’ kinh độ Đông.
- Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị.
- Phía Nam giáp tỉnh Phú Yên.
- Phía Đông giáp biển Đông.
- Phía Tây giáp các tỉnh Kon Tum, Gia Lai và nước CHDCND Lào.
Nằm vào trung độ của khu vực miền Trung, trên các trục giao thông
chính xuyên quốc gia (đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng
không), có hệ thống cảng biển, sân bay, là cửa ngõ ra biển của vùng Tây
Nguyên và các quốc gia láng giềng phía Tây như Nam Lào, Đông bắc
Campuchia, Đông bắc Thái Lan... đã tạo cho vùng KTTĐMT có vị trí địa lý
thuận lợi trong việc giao lưu phát triển kinh tế - xã hội với vai trò đầu mối
trung chuyển quan trọng mang ý nghĩa quốc gia tới các nước trong khu vực và
trên thế giới.
1.2. Địa hình, địa mạo
Vùng KTTĐMT có địa hình đa dạng, phức tạp, ngoài việc bị chia cắt
bởi khu vực đèo Hải Vân, nhìn chung dáng địa hình của vùng nghiêng dần từ
Tây sang Đông với hình thái một dải hẹp uốn theo hình vòng cung ôm sát
đường bờ biển, nhiều nhánh núi ngang nhô ra sát biển, chia cắt dải đồng bằng
thành nhiều cánh đồng nhỏ, hình thành 4 dạng địa hình chính như sau:
- Địa hình núi trung bình và núi cao: có độ cao trung bình trên 700 m
với độ dốc trên 25
0
. Đây là tiểu vùng nằm ở phía Tây của vùng và phía Đông
của dãy Trường Sơn Nam, địa hình bị chia cắt mạnh, đất đai chủ yếu thuộc
nhóm đất đỏ vàng, đất mùn trên núi và đất xói mòn trơ sỏi đá với thảm thực
vật chủ yếu là rừng, song do độ dốc lớn nên đất đai ở khu vực này thường bị
xói mòn, rửa trôi.
6

- Địa hình núi thấp: có độ cao từ 300 - 700 m, độ dốc từ 15 - 25
0

được phân bố thành những dải đất hẹp, chuyển tiếp giữa vùng núi trung bình
và vùng gò đồi, chạy dọc hướng Bắc - Nam, lượn theo vòng cung của dãy
Trường Sơn. Phần lớn đất đai thuộc nhóm đất đỏ vàng với thảm thực vật chủ
yếu là rừng và một phần được che phủ bởi các loại cây công nghiệp lâu năm.
- Địa hình gò đồi: là địa hình trung du đồi thoải chuyển tiếp giữa vùng
đồng bằng ven biển với vùng đồi núi và thường có độ cao dưới 300 m, độ dốc
từ 8 - 15
0
. Đất đai phần lớn thuộc loại đất nâu vàng trên phù sa cổ với thảm
thực vật bao gồm các loại cây ăn quả, hoa màu lương thực và cây công nghiệp
ngắn ngày.
- Địa hình đồng bằng: có đặc điểm tương đối bằng phẳng và hơi
nghiêng về phía Đông ra tới biển, độ dốc < 3
0
và từ 3 - 8
0
với thảm thực vật
chính là các loại cây trồng nông nghiệp hàng năm. Ngoài các dải đất ven biển,
phần lớn diện tích thuộc khu vực bồi đắp phù sa của hệ thống các sông (như
sông Ba, sông Trà Khúc, sông Thu Bồn...) hình thành nên nhóm đất phù sa.
Tuy nhiên, do hệ thống đê điều, điều kiện bồi lắng phù sa của các con sông...
nên các khu vực ngoài đê cốt đất thường cao hơn vùng trong đê và hình thành
nên các loại đất phù sa khác nhau. Ngoài ra trong tiểu vùng này còn có một số
nhóm đất khác như đất mặn, đất phèn, đất cát...
Với sự phong phú của địa hình, mức chênh lệch độ cao khá lớn giữa
các khu vực đã tạo điều kiện cho vùng phát triển một nền sản xuất nông
nghiệp theo hướng đa dạng hoá cây trồng vật nuôi. Song do địa hình hẹp, dốc

nên thường xảy ra các hiện tượng lũ lụt, xói mòn mạnh, ảnh hưởng không nhỏ
đến sản xuất cũng như đời sống của nhân dân trong vùng.
1.3. Khí hậu
Nằm trong khu vực nhiệt đới, gió mùa, bị chi phối bởi quy luật độ cao
và ảnh hưởng của yếu tố địa hình nên khí hậu của vùng có sự biến động và
phân hoá mạnh mẽ theo mùa: mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12, mùa
khô từ tháng 1 đến tháng 8 năm sau. Bên cạnh đó, do có sự chia cắt bởi khu
vực đèo Hải Vân nên chế độ khí hậu của vùng có nhiều đặc điểm riêng biệt
với sự hình thành các tiểu vùng khí hậu mang các đặc trưng khác nhau, cụ thể
như sau:
- Tiểu vùng phía Bắc đèo Hải Vân (thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế): Nhiệt
độ trung bình hàng năm dao động từ 21 - 25
0
C và thấp dần về phía miền núi
(thấp hơn khoảng 3
0
C so với đồng bằng ). Đây là một trong những khu vực có
lượng mưa lớn nhất nước ta, trung bình trên 3.030 mm/năm, có nơi hơn 4.500
mm (Nam Đông, A Lưới), tập trung từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, trong đó
tháng 11 có lượng mưa nhiều nhất, chiếm tới 30% lượng mưa cả năm.
7
- Tiểu vùng phía Nam đèo Hải Vân (bao gồm thành phố Đà Nẵng và
các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định):
+ Nhiệt độ trung bình năm khoảng 24 - 26
0
C, song có sự chênh lệch
giữa các khu vực theo hướng tăng dần về phía đồng bằng (trung bình 25 -
27
0
C), thấp dần về phía miền núi (trung bình 20 - 23

0
C), đồng thời có xu
hướng tăng dần về phía Nam của vùng (trung bình 26 - 27
0
C). Tổng tích ôn
trung bình dao động từ 9.000 - 9.500
0
C và có xu hướng biến thiên thuận theo
nhiệt độ giữa các khu vực.
+ Lượng mưa trung bình năm khá lớn, khoảng 1.900 - 2.400 mm, tập
trung chủ yếu vào mùa mưa (chiếm tới 70 - 75% tổng lượng mưa cả năm),
trong đó tháng 10, 11 có lượng mưa lớn nhất, đạt 500 - 600 mm; trong khi
vào mùa khô lượng mưa rất thấp, nhất là các tháng 3, 4 lượng mưa đạt dưới
50 mm. Theo khu vực, lượng mưa có xu hướng tăng dần từ khu vực đồng
bằng (trung bình 1.800 - 2.000 mm) lên miền núi (trên 2.500 mm) nhưng giảm
dần từ phía Bắc (2.000 - 2.500 mm) về phía Nam vùng (1.700 - 2.000 mm).
- Ngoài ra, chế độ khí hậu của vùng còn có một số yếu tố khác mang
đặc điểm khá tương đồng trong toàn vùng, đó là:
+ Độ ẩm trung bình năm khoảng 75 - 85% và phụ thuộc vào sự phân
hóa mùa trong năm, trong đó vào mùa mưa độ ẩm cao 80 - 85%, mùa khô độ
ẩm giảm xuống dưới 80%, có nơi dưới 75%.
+ Gió mùa Tây Nam khô, nóng bắt đầu thổi từ tháng 4 đến tháng 8, tốc
độ gió bình quân từ 2 - 3 m/s, có khi lên tới 7 - 8 m/s. Ngoài ra ở khu vực phía
Bắc đèo Hải Vân còn chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc lạnh, ẩm bắt đầu
từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, tốc độ gió 4 - 6 m/s.
+ Bão: Thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 10, trung bình một năm
có 1 - 3 cơn bão.
Nhìn chung, với chế độ nhiệt, lượng ánh sáng khá phong phú đã tạo
điều kiện thuận lợi trong quá trình quang hợp phát triển của cây trồng cũng
như là cơ sở cho việc bố trí cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống phù hợp với từng

khu vực trên địa bàn vùng. Tuy nhiên, do lượng mưa tập trung và phân hoá
theo mùa cũng như sự khác biệt lượng mưa giữa các khu vực... có ảnh hưởng
khá lớn đến quá trình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn vùng. Vì vậy việc bố
trí cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống cây trồng phù hợp với chế độ mưa trên từng
địa bàn cụ thể có ý nghĩa rất quan trọng trong sản xuất nhất là ở những khu
vực chưa có công trình thuỷ lợi. Ngoài ra, các yếu tố khí hậu bất lợi khác như
bão, gió mùa Tây Nam khô nóng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và
đời sống của nhân dân trong vùng.
8
1.4. Thuỷ văn, nguồn nước
Vùng KTTĐMT có mạng lưới sông suối tương đối phát triển, phân bố
với mật độ khá cao, trung bình từ 0,5 - 1,2 km/km
2
, chủ yếu bắt nguồn và
chảy trong phạm vi nội vùng với hướng chảy từ Tây sang Đông. Nhìn chung
hệ thống sông suối thường ngắn và dốc, bao gồm các sông chính như: sông
Hương, sông Bồ, sông Truồi, sông Nông (Thừa Thiên - Huế); sông Hàn (Đà
Nẵng); Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ (Quảng Nam); Trà Bồng, Trà Khúc, Sông
Nhuệ, Trà Câu (Quảng Ngãi); Lại Giang, La Tinh, sông Côn, sông Hà Thanh
(Bình Định)...
Do điều kiện yếu tố độ dốc địa hình nên chế độ thủy văn của các sông
đa phần mang đặc điểm: vào mùa mưa dòng chảy lớn ở thượng nguồn, nước
lũ dồn về nhanh trong khi đoạn hạ lưu độ dốc nhỏ, cửa sông cạn, hẹp, do vậy
khả năng thoát lũ chậm, thường gây lũ lụt ở đồng bằng (nhất là khi trùng với
thời kỳ triều cường); trong khi vào mùa khô dòng chảy nhỏ, gây khô hạn, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và sinh hoạt. Vì vậy, mặc dù phần lớn các
khu vực trong vùng có thể tự cân đối được nguồn nước thông qua hệ thống
công trình thuỷ lợi, hồ chứa..., nhưng biện pháp trữ nước thông qua hệ thống
hồ chứa vẫn là một vấn đề cần được quan tâm nhiều, nhằm hạn chế lũ lụt
trong mùa mưa cũng như giải quyết yêu cầu về nước trong mùa khô.

2. Các nguồn tài nguyên
2.1. Tài nguyên đất
Toàn vùng hiện có 2.788.403 ha đất tự nhiên, trong đó đã khai thác đưa
vào sử dụng cho các mục đích 2.073.700 ha (chiếm 74,37% diện tích tự
nhiên). Phần diện tích còn lại 714.703 ha (chiếm 25,63% diện tích tự nhiên),
chủ yếu là đất đồi núi chưa sử dụng (636.252 ha, chiếm 89% tổng đất chưa sử
dụng).
Về thổ nhưỡng, đất đai của vùng được chia làm 14 nhóm đất với diện
tích 2.686.923 ha (diện tích điều tra), cụ thể như sau:
- Nhóm đất cát: Diện tích 101.346 ha, chiếm 3,63% diện tích tự nhiên,
tập trung nhiều ở các tỉnh Thừa Thiên Huế (38.385 ha), Quảng Nam (33.655
ha), Bình Định (13.570 ha) và được phân thành 3 loại đất:
+ Đất cồn cát và bãi cát trắng vàng: chủ yếu ở Quảng Nam và Bình
Định.
+ Đất cát biển Glây: tập trung ở Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định.
+ Đất cát điển hình: phân bố tập trung ở Bình Định.
Nhìn chung, nhóm đất cát thường phân bố thành các dải hẹp dọc bờ
9
biển và các cửa sông theo hướng Đông - Đông Nam, là phần tiếp giáp giữa
bậc thềm phù sa cổ và trầm tích biển. Đất có đặc tính dễ di động theo gió, ít
chua, nghèo mùn, mức độ phân giải hữu cơ mạnh, hàm lượng đạm, lân dễ
tiêu, lân tổng số rất thấp. Ngoài những khu vực có điều kiện tưới hiện đang
được sử dụng trồng rau, màu, cây công nghiệp ngắn ngày, nơi đất thấp có thể
trồng lúa, còn lại phần lớn diện tích là chưa sử dụng.
- Nhóm đất phù sa: Có 252.838 ha, chiếm 9,07% diện tích tự nhiên, tập
trung nhiều ở Quảng Ngãi (98.158 ha), Quảng Nam (50.738 ha) và Bình Định
(61.611 ha), bao gồm 7 loại đất:
+ Đất phù sa được bồi: phân bố chủ yếu ở vùng hạ lưu của các sông
thuộc Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Bình Định.
+ Đất phù sa không được bồi: phân bố tiếp giáp với đất phù sa được

bồi, chủ yếu ở Thừa Thiên Huế và Quảng Nam.
+ Đất phù sa ngòi suối: phân bố thành từng dải hẹp ven các sông, suối
nhỏ tập trung ở các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng.
+ Đất phù sa gley: phân bố rải rác ở các tỉnh trong vùng, nơi có địa
hình thấp trũng, dễ đọng nước hoặc nơi có mực nước ngầm gần mặt đất.
+ Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng: phân bố ven các sông, tập trung
nhiều ở các tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định.
+ Đất phù sa phủ trên nền cát: phân bố ở địa hình thấp, bằng phẳng của
các huyện đồng bằng ven biển thuộc tất cả các tỉnh trong vùng.
+ Đất phù sa chua: phân bố ở tỉnh Bình Định.
Về cơ bản, nhóm đất phù sa phân bố ở địa hình tương đối bằng phẳng,
tập trung ở phần hạ lưu các con sông, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung
bình, độ dày tầng đất trên 100 cm, độ phì và hàm lượng dinh dưỡng từ trung
bình đến khá, thích hợp với nhiều loại cây trồng (cây lương thực, hoa màu,
cây công nghiệp ngắn ngày...). Tuy nhiên, tùy theo từng khu vực cụ thể mà
các loại đất có những tính chất, hàm lượng dinh dưỡng... khác nhau, do đó
mức độ đầu tư, bồi dưỡng đất cũng như việc bố trí cây trồng thích hợp rất cần
được chú ý nhằm đem lại hiệu quả cao.
- Nhóm đất xám: Diện tích 842.439 ha, chiếm 30,21% đất tự nhiên toàn
vùng, phân bố ở các tỉnh Bình Định (425.835 ha), Quảng Ngãi (376.547 ha)
và Quảng Nam (40.057 ha), được chia thành 6 loại:
+ Đất xám feralit: phân bố chủ yếu ở khu vực phía Đông dãy Trường
Sơn thuộc tỉnh Bình Định.
+ Đất xám bạc màu: phát triển trên phù sa cổ, đá macmaaxit và đá cát,
10
phân bố chủ yếu ở Quảng Nam.
+ Đất xám điển hình: phân bố ở bậc thềm cao hơn và nằm tiếp giáp đất
phù sa.
+ Đất xám gley: phân bố ở địa hình thấp, trũng, có điều kiện ngập
nước.

+ Đất xám có tầng loang lổ: hình thành do quá trình tích tụ sắt và
nhôm.
+ Đất xám mùn trên núi: phân bố phần lớn ở phía Tây của tỉnh Bình
Định.
Đa phần đất xám được hình thành trên sản phẩm bồi tụ phù sa cổ, đá
macmaaxit và đá cát, phân bố thành những vùng tập trung, quy mô diện tích
lớn, địa hình ít dốc. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, một số nơi có tầng sét
loang lổ ở dưới sâu, hàm lượng dinh dưỡng thấp, dễ thoát nước… thích hợp
trồng các loại cây lâu năm và cây công nghiệp hàng năm.
- Nhóm đất đỏ: Là nhóm đất đặc trưng của vùng, có diện tích lớn nhất
trong các nhóm đất với 1.278.857 ha, chiếm 45,86% diện tích tự nhiên toàn
vùng, phân bố ở tất cả các tỉnh song tập trung nhiều nhất ở Quảng Nam
(793.545 ha) và Thừa Thiên Huế (393.403,2 ha), được chia thành 12 loại:
+ Đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất: hình thành trên địa hình dốc,
chia cắt, tập trung ở tỉnh Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng.
+ Đất vàng nhạt trên đá cát: phân bố ở địa hình dốc, chủ yếu thuộc
Thừa Thiên Huế.
+ Đất nâu vàng trên phù sa cổ: phân bố trên địa hình đồi gò lượn sóng,
dốc thoải hay bằng, tập trung chủ yếu ở Thừa Thiên Huế, Bình Định, Đà
Nẵng.
+ Đất nâu đỏ trên đá bazan: phân bố ở khu vực địa hình đồi bằng hoặc
lượn sóng thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Thừa Thiên
Huế.
+ Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa: phân bố tập trung ở tỉnh Thừa
Thiên Huế và rải rác ở các tỉnh trong vùng.
+ Đất đỏ vàng trên đá granit: phân bố nhiều ở Thừa Thiên Huế và Đà
Nẵng.
+ Đất đỏ vàng trên phiến sa thạch: phân bố chủ yếu ở Đà Nẵng.
+ Các loại đất khác còn lại như: đất nâu vàng trên sản phẩm dốc tụ, đất
đỏ vàng trên gơnai, đất đỏ vàng trên paragơnai, đất đỏ vàng trên philit, đất

11
nâu đỏ trên đá Gabrrô, điôrit được phân bố rải rác ở các tỉnh trong vùng.
Nhìn chung, nhóm đất đỏ được phân bố ở nhiều dạng địa hình khác
nhau, song chủ yếu ở địa hình cao và rất cao nên chịu nhiều tác động của
xói mòn, rửa trôi. Đất thường chua, độ no bazơ thấp, khả năng hấp thụ
không cao, nhiều khu vực xuất hiện quá trình tích luỹ Fe, Al, đa phần được
sử dụng vào mục đích lâm nghiệp, một phần nhỏ được cải tạo để sản xuất
nông nghiệp (trồng các loại cây hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày), còn
lại là đất trống đồi núi trọc.
- Nhóm đất đen: Có 2.792 ha, chiếm 0,10% diện tích tự nhiên toàn
vùng, phân bố tập trung ở Quảng Ngãi và Quảng Nam. Đất có thành phần cơ
giới trung bình, phản ứng từ trung tính đến ít chua, hàm lượng mùn và đạm
tổng số khá, lân tổng số cao, thích hợp với nhiều loại cây trồng cạn.
- Nhóm đất mùn alit trên núi cao: Diện tích 98.297 ha, chiếm 3,53%
diện tích đất tự nhiên, phân bố ở độ cao trên 700 m, thuộc địa bàn các tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định, bao gồm 3 loại:
+ Đất mùn đỏ vàng trên đá sét và biến chất: phân bố tập trung ở Quảng
Nam.
+ Đất mùn đỏ vàng trên đá macma axit: phân bố rải rác ở các tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.
+ Đất mùn vàng nhạt trên đá cát: phân bố ở tỉnh Quảng Nam.
Đây là nhóm đất có độ phì khá, hàm lượng mùn cao nhưng do phân bố
ở địa hình núi cao, dốc và chia cắt nên đất thường chua, tầng mỏng, chỉ thích
hợp cho mục đích phát triển cây lâm nghiệp.
- Nhóm đất mặn: Có 22.646 ha, chiếm 0,81% diện tích tự nhiên, phân
bố ở tất cả các tỉnh trong vùng song chủ yếu ở Quảng Nam (13.234 ha) và
Bình Định (6.365 ha). Tùy theo tính chất và đặc điểm hình thành, đất mặn
được chia thành 3 loại gồm: đất mặn sú vẹt đước, đất mặn nhiều, đất mặn ít
và trung bình.
Đất mặn thường phân bố ở khu vực ven biển, cửa sông, hình thành do sự

xâm nhập của nước biển, nhiều khu vực có sản phẩm phù sa mùn lẫn xác hữu
cơ, có phản ứng từ trung tính đến ít chua, hàm lượng dinh dưỡng từ nghèo đến
khá tùy theo từng khu vực, chủ yếu trồng rừng ngập mặn phòng hộ, nuôi trồng
thuỷ sản nước lợ, làm muối và một số ít diện tích được cải tạo để trồng lúa, hoa
màu.
- Nhóm đất phèn: Diện tích 2.812 ha, chiếm 0,10% diện tích tự nhiên,
phân bố ở tất cả các tỉnh trong vùng, tập trung nhiều trên địa bàn Quảng Nam
(1.297 ha). Theo tính chất, đất phèn được chia thành: đất phèn mặn ít, đất
12
phèn nhiều mặn, đất phèn tiềm tàng và đất phèn hoạt động.
Đây là nhóm đất được hình thành do sản phẩm bồi tụ phù sa với vật
liệu sinh phèn, phát triển mạnh ở môi trường đầm mặn, địa hình thấp, khó
thoát nước. Đất phèn có độ mặn cao, chua nhiều, tỷ lệ mùn, đạm khá, lân tổng
số và các chất dễ tiêu đều nghèo, quá trình gley mạnh, thích hợp với những
loại cây trồng ít hoặc không cần cải tạo đất như khoai mỡ, dứa, bàng, tràm...,
nếu được cải tạo tốt có thể trồng lúa.
- Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá: Diện tích 24.830 ha, chiếm 0,89% diện
tích đất tự nhiên, phân bố ở khu vực địa hình dốc, xói mòn mạnh, đá lộ trên
mặt, tầng đất mặt mỏng, tập trung ở Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Quảng
Nam. Do đất hạn chế về tầng dày và độ dốc nên chỉ có thể sử dụng vào việc
khai thác làm vật liệu xây dựng, khoanh nuôi bảo vệ và phát triển cây rừng.
- Nhóm đất Glây: Diện tích 18.020 ha, tập trung ở tỉnh Bình Định và
Quảng Ngãi, có nguồn gốc ban đầu là đất phù sa, đất cát hoặc sản phẩm dốc
tụ thường xuyên ngập nước. Đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt
nặng, phản ứng chua ít, hàm lượng chất hữu cơ lớp mặt cao, có thể cải tạo để
trồng lúa và rau màu.
- Nhóm đất dốc tụ: Có 10.920 ha, chiếm 0,61% diện tích tự nhiên, phân
bố ở địa hình thung lũng, tập trung ở Đà Nẵng, Quảng Nam. Tùy thuộc đặc
điểm của mẫu chất, đá mẹ, đất có phản ứng từ chua vừa đến ít chua, cation
kiềm trao đổi thấp, hàm lượng mùn và đạm tổng số tầng đất mặt khá cao, lân

tổng số từ nghèo đến trung bình, mức độ phân giải chất hữu cơ yếu, thích hợp
để trồng lúa, rau màu hoặc cây công nghiệp ngắn ngày.
- Nhóm đất tầng mỏng: Có 22.229 ha, chiếm 0,80% diện tích tự nhiên,
phân bố chủ yếu ở vùng đồi núi của tỉnh Bình Định, trên sản phẩm phong hoá
của đá granit ở địa hình chia cắt, dốc, lượng mưa nhiều, quá trình rửa trôi, xói
mòn mạnh, đất có phản ứng chua, hàm lượng mùn, đạm tổng số khá, lân và
kali tổng số nghèo, thích hợp khoanh nuôi phát triển rừng.
- Nhóm đất nứt nẻ: Diện tích 634 ha, phân bố ở Quảng Ngãi, đất có
thành phần thịt nặng hoặc sét, hơi chua, hàm lượng chất hữu cơ từ khá đến
giàu, các chất dinh dưỡng đều thấp, nếu được đầu tư có thể đưa vào sản xuất
nông nghiệp.
- Nhóm đất than bùn: Diện tích 120 ha, tập trung ở tỉnh Bình Định,
phân bố ở địa hình thấp trũng, có phản ứng chua, thành phần cơ giới nhẹ, hàm
lượng chất dinh dưỡng từ nghèo đến trung bình tùy theo độ sâu tầng đất.
Tóm lại: Mặc dù tài nguyên đất của vùng khá đa dạng về chủng loại
song số lượng đất tốt không nhiều, cùng với điều kiện bất lợi về địa hình, khí
13
hậu... đã hạn chế rất lớn đến sản xuất nông nghiệp của vùng.
2.2. Tài nguyên nước
Nước là nguồn tài nguyên biến động khá rõ theo sự phân hóa mùa trong
năm trên địa bàn vùng, được cấu thành từ hai nguồn: nước mặt và nước ngầm.
- Nước mặt: được phân bố trên hệ thống sông suối và hồ chứa với lưu
lượng nước khá phong phú như: sông Hàn - lượng nước bình quân đạt 7 tỷ
m
3
/năm, sông Hương - 3,8 tỷ m
3
/năm, sông Cu Đê - 0,6 tỷ m
3
/năm... Nhìn

chung, chất lượng nước khá tốt, hiện đang được khai thác phục vụ cho sản
xuất và sinh hoạt.
Tuy nhiên, trữ lượng nước mặt lại phụ thuộc khá lớn vào lượng mưa
giữa các mùa trong năm. Vào mùa mưa, với lượng mưa ở khu vực phía Bắc
(như Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng) từ 2.000 - 3.000 mm/năm, lưu lượng dòng
chảy đạt 40 - 60 l/giây/km
2
; trong khi ở khu vực phía Nam (Bình Định) lượng
mưa 1.500 - 2.000 mm, lưu lượng dòng chảy chỉ đạt 10 - 20 l/giây/km
2
. Mùa
khô, khu vực phía Bắc của vùng lượng dòng chảy giảm chỉ còn 10 - 15
l/giây/km
2
, phía Nam giảm xuống 2 - 5 l/giây/km
2
. Đây là vấn đề cần được
chú ý nhiều trong quá trình sản xuất của vùng, đặc biệt là công tác thủy lợi
(xây dựng hệ thống hồ chứa). Ngoài ra, sự nhiễm mặn của các sông vào mùa
kiệt cũng đang đặt ra những yêu cầu đòi hỏi trong công tác tu bổ, hoàn chỉnh
hệ thống đập dâng, đê ngăn mặn... nhằm khai thác tối đa tiềm năng nguồn
nước mặt cho sản xuất và sinh hoạt.
- Nước ngầm: tồn tại trong các địa tầng, địa chất song khả năng khai
thác không đều, được thể hiện ở một số khu vực như: Đà Nẵng, Hội An
32.400 m
3
/ngày; khu vực Trà Ổ 3.037 m
3
/ngày, Phù Mỹ 7.049 m
3

/ngày, Quy
Nhơn 17.983 m
3
/ngày; khu vực thị xã Quảng Ngãi 20.000 m
3
/ngày, khu vực
đồng bằng Bắc sông Vệ 1.000 m
3
/ngày, khu vực đồng bằng Mộ Đức - Đức
Phổ 2.000 m
3
/ngày…
Nhìn chung, tài nguyên nước ngầm trên địa bàn vùng rất hạn chế, chủ
yếu khai thác ở quy mô nhỏ phục vụ cho sinh hoạt và một phần cho sản xuất
nông nghiệp. Tuy nhiên trên địa bàn vùng lại có tiềm năng nước khoáng,
nước nóng khá phong phú, phân bố ở các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Nam,
Bình Định, hiện đang được khai thác sử dụng cho các mục đích như an dưỡng
chữa bệnh, đóng chai giải khát, phục vụ du lịch…
Trong điều kiện nguồn nước ngầm không ổn định, khó khai thác thì vấn
đề nước mặt là yếu tố tác động rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân
trong vùng. Với địa hình hẹp, dốc, sự phân phối dòng chảy trong năm không
đều, để duy trì, điều tiết đảm bảo sự cân bằng nước của vùng, cần thiết phải
bảo vệ và trồng lại rừng đầu nguồn, đầu tư thích đáng xây dựng hệ thống thủy
14
lợi với các công trình như hồ chứa, đập dâng…
2.3. Tài nguyên biển, ven biển
Với khoảng 590 km chiều dài bờ biển đã tạo cho vùng KTTĐMT có
nhiều lợi thế trong việc khai thác các nguồn lợi biển và được thể hiện qua một số
mặt:
- Việc hình thành nhiều cảng biển lớn như cảng Thuận An, Chân

Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Liên Chiểu, Quy Nhơn... có ý nghĩa quan trọng
đối với phát triển kinh tế không chỉ nội vùng mà còn tác động rất lớn đến
nền kinh tế quốc dân.
- Có nhiều bãi biển đẹp như Chân Mây, Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Khe Hai…
là điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh kinh tế du lịch.
- Diện tích vùng nước mặn, lợ và đầm phá khá lớn như Tam Giang
(Thừa Thiên Huế), Thị Nại (Bình Định)… thích hợp để phát triển nuôi trồng
các loại hải sản có giá trị xuất khẩu cao như rong câu chỉ vàng, tôm he, tôm
hùm, mực, cá thu, cá ngừ, cá ngựa...
Tuy nhiên, nguồn lợi biển phân bố không đều, các ngư trường ven bờ
đang có nguy cơ cạn kiệt. Do đó việc đánh bắt ở các ngư trường xa bằng tàu
lớn, có phương tiện bảo quản dài ngày là hướng chủ yếu trong tương lai.
2.4. Tài nguyên rừng
- Về thực vật: Toàn vùng hiện có 1.324.193 ha đất lâm nghiệp có rừng
(chiếm 47,49% diện tích tự nhiên) với các kiểu rừng như: rừng nhiệt đới
thường xanh quanh năm; rừng non tái sinh, rừng hỗn giao tre, gỗ; rừng cây
bụi và rừng trồng. Ở khu vực đồi núi, hệ sinh thái khá đa dạng và phong phú
với nhiều chủng loại có giá trị kinh tế như trắc, huỳnh, hương, sến, gụ, lim…;
nhiều loại dược liệu quý như sa nhân, hà thủ ô, ngũ gia bì, sâm, thiên niên
kiện, bách bộ, thổ phục linh…; song do hậu quả của chiến tranh và sự khai
thác quá mức của con người đã làm cho nguồn tài nguyên này dần bị cạn kiệt
cả về trữ lượng và chủng loại. Ở khu vực ven biển, thảm thực vật chủ yếu là
thông, dương, liễu và các loại cây chịu mặn với vai trò phòng hộ chắn sóng,
cát… nhưng cũng đã và đang có nguy cơ bị thu hẹp do phát triển nuôi trồng
thuỷ sản.
- Về động vật: Sự đa dạng, phong phú các kiểu rừng và thành phần loài
thực vật là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của hệ động vật. Theo các
kết quả nghiên cứu, động vật rừng của vùng mang đặc trưng của khu hệ động
vật Ấn Độ - Mã Lai, trong đó có nhiều loại có trong sách đỏ của Việt Nam và
thế giới. Về thành phần loài: Thú có các đại diện như: hổ, báo, gấu, bò rừng,

khỉ, sơn dương, heo rừng, chồn, cheo, mèo rừng, sóc chân vàng, voọc ngũ
15
sắc, khỉ đuôi dài, voọc xanh bạc, gà tiền mặt đỏ, gà lôi hồng tía, trăn gấm...;
Chim có các loài đại diện gồm có: công, đại bàng đất, gà lôi, bìm bịp và một
số loài khác, đặc biệt chim yến cho sản phẩm có giá trị cao, nổi tiếng trong
nước và quốc tế. Ngoài ra, còn có 1 số loài chim nước, chim di cư, chim biển
và các loại bò sát…
Nhìn chung, vùng KTTĐMT chứa đựng tài nguyên động, thực vật khá
phong phú, song do nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho nguồn tài
nguyên rừng ngày càng dần suy giảm. Vì vậy, việc bảo vệ nghiêm ngặt các
loài thực vật, động vật đang tồn tại là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc
duy trì đa dạng tài nguyên sinh vật để phát triển bền vững, đặc biệt với vai trò
cân bằng sinh thái, điều tiết nguồn nước nhằm hạn chế lũ lụt và hạn hán ở hạ
lưu vùng.
2.5. Tài nguyên khoáng sản
Theo đặc điểm cấu tạo địa chất và sinh khoáng, vùng KTTĐMT có
tiềm năng khoáng sản vào loại lớn của nước ta với chủng loại và trữ lượng
khá phong phú, trong đó:
- Vật liệu xây dựng: phân bố ở tất cả các tỉnh trong vùng, bao gồm các
loại: đá Granit (Quảng Ngãi khoảng 4 triệu tấn, Bình Định 500 triệu tấn…), đá
xây dựng (Quảng Ngãi 7 tỷ m
3
, Bình Định 700 triệu m
3
…), đá vôi (Thừa Thiên
Huế khoảng 1.040 triệu m
3
…), cát thuỷ tinh (Thừa Thiên Huế trên 50 triệu
tấn…), cao lanh (Quảng Ngãi trên 4 triệu tấn, Bình Định khoảng 28 triệu m
3

),
sét (Bình Định trữ lượng 10 triệu m
3
)… Bên cạnh đó còn có các loại đá ong,
đá phiến được phát hiện tại Bình Định, Quảng Nam và Đà Nẵng.
- Các loại khoáng sản khác như than đá, quặng Silimanhit, Titan…
phân bố rải rác ở một số tỉnh, đáng kể như:
+ Than đá chủ yếu ở Quảng Nam (Nông Sơn, Ngọc Kinh, Quang Điềm)
với trữ lượng hơn 14 triệu tấn, khai thác khoảng 10 vạn tấn/năm.
+ Quặng Silimanhit ở Quảng Ngãi (Hưng Nhượng, Sơn Tịnh) trữ lượng
khoảng 1 triệu tấn.
+ Titan chủ yếu ở Bình Định, Thừa Thiên Huế, trong đó mỏ Đề Gi
(Bình Định) có trữ lượng khá lớn, khoảng 1,5 triệu tấn.
+ Bauxit tập trung ở Quảng Ngãi, vàng phân bố ở Quảng Nam có khả
năng khai thác được vài trăm nghìn tấn.
+ Nước khoáng phân bố ở các tỉnh Thừa Thiên Huế (3 mỏ), Quảng
Nam (18 mỏ), Quảng Ngãi (5 mỏ), Bình Định (3 mỏ).
+ Đồng, Wonfram, chì, kẽm, thiếc, dầu khí, phóng xạ, than bùn... phân
16
bố ở các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Mặc dù khá phong phú về chủng loại, song đa phần các loại khoáng sản
này mới chỉ khai thác ở dạng thủ công, quy mô nhỏ, chưa được đưa vào khai
thác và chế biến theo quy mô công nghiệp lớn. Đây là vấn đề cần được quan
tâm nhằm phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng, phục vụ nhu cầu
phát triển trong nội vùng cũng như hướng tới các mặt hàng xuất khẩu.
2.6. Tài nguyên nhân văn
Với trên 6,2 triệu người, trên địa bàn vùng KTTĐMT hiện có rất
nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống như Kinh, Hrê, BaNa, Chăm, Chàm,
Êđê, Hroi, Raglay, Hoa..., trong đó dân tộc Kinh chiếm chủ yếu.
Mỗi dân tộc ở đây đều có những phong tục, tập quán riêng, có chữ viết,

tiếng nói riêng... tạo nên bản sắc văn hoá khá đa dạng, phong phú, mang đậm
những yếu tố văn hoá bản địa cổ xưa, trong đó nổi lên bản sắc văn hoá lịch sử
dân gian truyền thống với các loại hình nghệ thuật độc đáo như nhã nhạc cung
đình Huế, Ca chòi, Ca Lêu, Xà Ru, A Giới, Cà Lù, Cor Nghé, Plét... Đặc biệt,
bề dày lịch sử của vùng đất này còn được thể hiện qua các di chỉ cổ xưa như:
văn hoá Sa Huỳnh, di chỉ Gò Đá, di chỉ Bình Châu (Quảng Ngãi); nhiều di
tích lịch sử nổi tiếng như quần thể di tích Huế, đô thị cổ Hội An, thánh địa
Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới…
Về tập quán sản xuất đã hình thành nhiều nghề mang tính nghệ thuật
nổi tiếng như: điêu khắc Chàm, đúc đá Non Nước, làng mộc Kim Bồng, gốm
Thanh Hà, dâu tằm Duy Trình, đúc đồng Phước Kiều…
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, các dân tộc trên địa
bàn vùng đã đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, góp phần xứng đáng cùng
cả nước hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ, để lại ngày
nay nhiều di tích lịch sử như: nhà chứng tích chiến tranh ở Sơn Mỹ, di tích
lịch sử Ba Tơ…
Với tài nguyên như trên, việc quan tâm đến tập quán của mỗi dân tộc để
bố trí phân bổ sử dụng đất đai là vấn đề cần được xem xét trong quy hoạch nhằm
khai thác triệt để các nguồn lực, tiềm năng, góp phần phát triển kinh tế của vùng.
3. Khái quát cảnh quan, môi trường
3.1. Điều kiện cảnh quan
Là địa bàn vừa có núi, có đồng bằng, có biển, nhiều di sản văn hoá độc
đáo nên cảnh quan của vùng khá phong phú, đa dạng với nhiều thắng cảnh
đẹp, nổi tiếng, rất thích hợp cho phát triển du lịch. Trong đó đáng kể như:
- Quần thể di tích cố đô Huế, đô thị cổ Hội An nổi bật với nét đẹp về
17
cảnh quan kiến trúc.
- Khu bảo tồn thiên nhiên Cù Lao Chàm (Đà Nẵng) hấp dẫn du khách
với tài nguyên sinh vật phong phú (khỉ vàng, sóc chân vàng, chim yến, san
hô…).

- Các khu vực bãi biển Lăng Cô, Non Nước, Mỹ Khê, Sa Huỳnh…
cùng với hệ thống các đảo và bán đảo Sơn Trà, Hòn Tằm, Hòn Lao, Hòn
Chồng, Hòn Bà…, các dãy núi Trường Sơn, núi Ngự, đèo Hải Vân… với
thảm thực vật rừng xanh nhiệt đới đã tạo nên vẻ đẹp, sự hùng vĩ về cảnh quan
thiên nhiên…
Tất cả hoà quyện vào nhau tạo cho vùng điều kiện cảnh quan kỳ thú,
cùng với hệ thống các điểm di tích lịch sử nổi tiếng (thánh địa Mỹ Sơn, nhà
chứng tích chiến tranh ở Sơn Mỹ, di tích lịch sử Ba Tơ…) là điều kiện hết sức
thuận lợi để phát triển mạnh kinh tế du lịch của vùng.
3.2. Hiện trạng môi trường
Trong những năm qua, quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đô thị…
trên địa bàn vùng đã có những tác động nhất định đến môi trường của vùng,
mặc dù chưa nghiêm trọng song cũng có nhiều vấn đề đáng được đặt ra cần
quan tâm giải quyết và được thể hiện ở các mặt sau:
- Suy thoái môi trường do biến động tài nguyên rừng: Theo số liệu
thống kê, mặc dù diện tích đất lâm nghiệp có rừng của vùng tăng 235.334 ha
trong thời kỳ 1996 - 2005; tuy nhiên tại từng thời điểm, địa bàn cụ thể, diện
tích rừng vẫn suy giảm (giai đoạn 1996 - 2000 toàn vùng giảm 44.626 ha,
riêng Quảng Nam giảm 75.827 ha…). Việc khai thác rừng bừa bãi, phá rừng
làm nương rãy, cháy rừng (đặc biệt là rừng tự nhiên phòng hộ) cùng với điều
kiện địa hình hẹp, dốc đã làm xói mòn, rửa trôi đất đai. Tình trạng phá rừng
ngập mặn để nuôi trồng thuỷ sản không những làm giảm khả năng phòng hộ
mà còn gây ô nhiễm môi trường, tác động nghiêm trọng đến hệ sinh thái ven
biển.
- Suy thoái môi trường do phát triển đô thị và công nghiệp: Quá trình
đô thị hóa và phát triển các khu công nghiệp những năm qua đã có ảnh hưởng
đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, kéo theo sự di cư từ nông
thôn ra thành thị, gây áp lực về nhà ở và vệ sinh môi trường, hình thành các
khu nhà ổ chuột và khu đô thị nghèo, gây tiếng ồn, bụi và làm phát sinh một
lượng lớn chất thải, tác động đến môi trường không khí và môi trường nước:

+ Môi trường không khí: Trên địa bàn các tỉnh trong vùng, hầu hết các
đô thị và khu công nghiệp đều bị ô nhiễm nặng về bụi. Nồng độ bụi trong
không khí vượt quá trị số tiêu chuẩn cho phép từ 1,3 - 3,0 lần (đặc biệt là
18
thành phố Đà Nẵng và thị xã Tam Kỳ). Nồng độ khí SO
2
ở khu vực xung
quanh một số nhà máy, xí nghiệp (như nhà máy thép Đà Nẵng) vượt quá trị số
tiêu chuẩn cho phép từ 1,1 - 2,7 lần.
+ Môi trường nước: Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết chất lượng nước
các sông trên địa bàn vùng tương đối ổn định, các chỉ tiêu đều nằm trong giới
hạn cho phép. Tuy nhiên, tại Đà Nẵng chất lượng nước đoạn hạ lưu sông Hàn
đã bị ô nhiễm với nồng độ COD cực đại lên tới 16 - 25 mg/l, nồng độ chì 0,004
- 0,010 mg/l, thủy ngân 8 - 10 µg/l, vượt tiêu chuẩn cho phép (TCVN 5942 -
1995)…
- Suy thoái môi trường biển và ven bờ do chất thải: Chất thải từ các
hoạt động du lịch, nuôi trồng thuỷ sản, công nghiệp (công nghiệp đóng tàu,
cảng dầu, chế biến hải sản...) đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và
môi trường ven biển. Kết quả điều tra cho thấy, ở các bến cảng, vũng vịnh
như cảng Sông Hàn (Đà Nẵng), cửa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi)... đặc biệt là các
khu vực biển có cảng cá hoạt động, môi trường nước đều đã bị ô nhiễm với
hàm lượng chất dinh dưỡng, hữu cơ và tổng Coliform tương đối cao. Ngoài
ra, chất thải sinh hoạt của dân cư vùng cửa sông, ven biển cùng với quá trình
khai thác nguồn tài nguyên biển bằng các phương pháp sử dụng chất nổ, điện,
lưới quét... cũng là những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môi trường
ven biển.
- Suy thoái môi trường đất do hoạt động sản xuất nông nghiệp: Quá
trình canh tác chưa hợp lý, đặc biệt là trên đất dốc đã dẫn đến hiện tượng rửa
trôi, xói mòn, bạc màu đất; hàng trăm ha đất sản xuất bị cát bay bồi lấp, nước
mặn xâm nhập hàng năm. Việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu chưa

hợp lý đã ảnh hưởng xấu tới hệ sinh thái nông nghiệp do lượng tồn dư các hóa
chất trong đất, nước…
Đứng trước các vấn đề nêu trên, song song với việc đầu tư phát triển
kinh tế - xã hội, vấn đề bảo vệ môi trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng,
đảm bảo cho sự phát triển bền vững và lâu dài. Để bảo vệ môi trường của
vùng, trước hết phải bảo vệ rừng, tiếp đó hạn chế suy thoái môi trường do
biến động tài nguyên nước, quá trình phát triển đô thị và công nghiệp…
4. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi
trường
4.1. Những thuận lợi, lợi thế
- Nằm ở trung độ theo chiều dài đất nước nên vùng KTTĐMT có vị trí
chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế với vai trò là bản lề nối kết 2 vùng
kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam.
19
- Có vị trí giáp biển, là cửa ngõ ra biển của khu vực Tây Nguyên, Nam
Lào, Đông bắc Campuchia, Đông bắc Thái Lan..., trở thành đầu mối trung
chuyển quan trọng, trung tâm thương mại, chế tác của khu vực trong khối
ASEAN/AFTA, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO.
- Có bờ biển dài, nhiều vũng, vịnh và các bãi tắm đẹp (như Lăng Cô,
Non Nước, Mỹ Khê, Sa Huỳnh...), có các di sản văn hoá thế giới (Cố đô Huế,
phố cổ Hội An) cùng với nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh kỳ thú đã
tạo cho vùng có khả năng phát triển thành một trong những trung tâm du lịch
lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á.
- Là địa bàn hội tụ đầy đủ các loại hình giao thông, có đường giao
thông huyết mạch chạy qua (QLộ 1A, đường sắt Thống Nhất), gắn với các sân
bay lớn (sân bay quốc tế Đà Nẵng), hệ thống cảng biển hiện đại (cảng Thuận
An, Chân Mây, Tiên Sa, Kỳ Hà...), rất thuận lợi để phát triển và giao lưu kinh
tế.
- Có nhiều vùng đất cát ven biển bằng phẳng, thuận lợi cho việc xây
dựng các khu công nghiệp tập trung; tiềm năng hải sản lớn, ngư trường rộng

là điều kiện thúc đẩy phát triển các ngành nông lâm thuỷ sản.
- Về chiến lược quốc phòng, ngoài quần đảo Hoàng Sa thì với vai trò là
"xương sống gánh 2 đầu đất nước" đã mang lại cho vùng KTTĐMT vị trí hết
sức quan trọng trong việc phòng thủ Quốc gia.
4.2. Những khó khăn, hạn chế
- Do có vị trí phía Đông giáp biển, phía Tây giáp núi cao, địa hình phức
tạp, hẹp, sông suối ngắn và dốc nên:
+ Hàng năm thường chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão, lũ lụt; ngập úng
vào mùa mưa; hạn hán, xâm nhập mặn vào mùa khô, gây thiệt hại nghiêm
trọng về kinh tế, ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống dân sinh.
+ Khó khăn trong việc đầu tư khai hoang, cải tạo đồng ruộng và xây
dựng, phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đối với giao thông và thủy lợi.
- Tài nguyên rừng bị suy giảm về trữ lượng, chất lượng, tính đa dạng
sinh học; quy mô tài nguyên khoáng sản không lớn; số lượng đất tốt thích hợp
cho sản xuất nông nghiệp không nhiều, nguy cơ thoái hóa do nhiễm mặn khu
vực ven biển, xói mòn rửa trôi ở khu vực đồi núi có chiều hướng gia tăng…
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Khái quát thực trạng phát triển kinh tế
1.1. Tăng trưởng kinh tế
Trong xu thế phát triển chung của cả nước, những năm qua nền kinh tế
20
- xã hội vùng KTTĐMT đã đạt nhiều tiến bộ quan trọng và có sự chuyển biến
tích cực, sản xuất đang dần tăng tốc, đời sống nhân dân từng bước được cải
thiện, xuất hiện nhiều nhân tố mới, những mô hình tốt tạo đà cho đổi mới phát
triển trong giai đoạn tới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt cao hơn nhiều so với
mức trung bình cả nước, thể hiện ở bảng sau:
BẢNG 1: GDP CỦA VÙNG KTTĐMT SO VỚI CẢ NƯỚC THỜI KỲ 1996 - 2005
Chỉ tiêu
Tổng sản phẩm GDP (tỷ đồng)
(Giá hiện hành)

Tốc độ
tăng trưởng
Năm 1995 Năm 2000 Năm 2005
Toàn vùng 11.057,7 20.615,9 36.838,8 10,10
- Nông lâm thuỷ sản 4.358,2 6.413,5 8.225,8 5,02
- Công nghiệp và xây dựng 2.321,4 5.827,9 13.739,5 17,12
- Dịch vụ 4.378,1 8.374,5 14.873,5 9,80
Cả nước 273.666 362.435 392.989 7,5
- Nông lâm thuỷ sản 63.717 73.917 76.905 3,6
- Công nghiệp và xây dựng 96.913 142.621 157.808 10,3
- Dịch vụ 113.036 145.897 158.276 7,0
Bình quân thu nhập đầu người tăng mạnh từ 2,01 triệu đồng năm 1995
(cả nước là 2,72 triệu đồng) lên đạt 5,94 triệu đồng vào năm 2005 (tăng gấp
2,96 lần), cao hơn so với bình quân cả nước (cả nước đạt 4,73 triệu đồng).
Tuy nhiên, sự chênh lệch về thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn,
giữa các tỉnh, thành phố trong vùng, giữa nhóm dân tộc Kinh và các dân tộc
thiểu số khá lớn. Đây là một vấn đề cần được quan tâm trong các chương
trình, dự án phát triển của vùng.
Mặc dù vùng KTTĐMT có tốc độ tăng trưởng khá cao, cao hơn bình
quân chung cả nước trong những năm qua, song do tập trung chủ yếu vào lĩnh
vực kinh tế nông lâm thuỷ sản, trong khi công nghiệp, dịch vụ phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng, lợi thế cùng với xuất phát điểm thấp nên nhìn
chung bộ mặt kinh tế toàn vùng vẫn chưa thay đổi nhiều so với các vùng kinh
tế khác trong cả nước, đặc biệt là so với 2 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
và phía Nam.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong thời kỳ 1996 - 2005, cơ cấu kinh tế của vùng có sự chuyển dịch
theo hướng tích cực: tăng tỷ trọng khu vực kinh tế công nghiệp và dịch vụ,
giảm tỷ trọng khu vực kinh tế nông lâm thuỷ sản, được thể hiện như sau:
BẢNG 2: CƠ CẤU GDP (%) QUA MỘT SỐ NĂM

21
Chỉ tiêu Năm 1995 Năm 2000 Năm 2005
Toàn vùng 100,0 100,0 100,0
- Nông lâm thuỷ sản 39,4 31,1 22,3
- Công nghiệp và xây dựng 21,0 28,3 37,3
- Dịch vụ 39,6 40,6 40,4
Cả nước 100,0 100,0 100,0
- Nông lâm thuỷ sản 26,3 23,3 19,6
- Công nghiệp và xây dựng 29,9 35,4 40,1
- Dịch vụ 43,8 41,3 40,3
Tuy cơ cấu kinh tế toàn vùng có sự chuyển dịch đúng hướng, song tốc
độ chuyển dịch trong nội bộ từng tỉnh, thành phố cũng như giữa các địa
phương trong vùng cũng có sự khác biệt khá lớn:
BẢNG 3: TỐC ĐỘ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU GDP (%)
CỦA CÁC TỈNH TRONG GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
Chỉ tiêu TT Huế Đà Nẵng Q. Nam Q. Ngãi Bình Định
- Nông lâm thuỷ sản - 3,2 - 2,1 - 10,0 - 9,6 - 4,6
- Công nghiệp và xây dựng + 5,0 + 7,8 + 7,2 + 6,5 + 5,4
- Dịch vụ - 1,8 - 5,7 + 2,8 + 3,1 - 0,8
2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
2.1. Khu vực kinh tế nông - lâm - thủy sản
Mặc dù không phải là vùng có tiềm năng phát triển nông nghiệp ở nước
ta, song trong những năm qua nông lâm thuỷ sản vẫn giữ vai trò quan trọng,
đóng góp chủ yếu cho nền kinh tế chung của vùng với tốc độ tăng bình quân
5,02%/năm (giai đoạn 2001 - 2005); tổng giá trị sản xuất tăng từ 5.592,3 tỷ
đồng năm 1995 lên 7.559,8 tỷ đồng năm 2000 và đạt 9.519,6 tỷ đồng vào năm
2005 (giá cố định 1994).
Cơ cấu trong nội bộ ngành có sự chuyển dịch hợp lý trên cơ sở phát
huy lợi thế về tiềm năng biển của vùng: tỷ trọng nông, lâm nghiệp giảm từ
81,86% năm 1995 xuống còn 68,09% năm 2005, trong khi tỷ trọng thuỷ sản

tăng từ 18,14% lên 31,91%.
BẢNG 4: GIÁ TRỊ SẢN XUẤT VÀ TỶ TRỌNG
NÔNG - LÂM - THUỶ SẢN QUA CÁC NĂM
22
Chỉ tiêu Năm 1995 Năm 2000 Năm 2005
1. Giá trị sản xuất (Tỷ đồng) 5.592,3 7.559,8 9.519,6
- Nông nghiệp 4.139,2 5.161,9 5.960,4
- Lâm nghiệp 438,8 430,8 521,7
- Thủy sản 1.014,3 1.967,1 3.037,5
2. Cơ cấu giá trị sản xuất (%) 100,00 100,00 100,00
- Nông nghiệp 74,01 68,28 62,61
- Lâm nghiệp 7,85 5,70 5,48
- Thủy sản 18,14 26,02 31,91
a. Sản xuất nông nghiệp:
Trong điều kiện hạn chế về tiềm năng đất sản xuất nông nghiệp (bình
quân đầu người rất thấp chỉ đạt 0,28 ha) nhưng với sự đầu tư khoa học kỹ
thuật và thâm canh trong sản xuất nên trong 10 năm qua sản xuất nông nghiệp
của vùng có sự phát triển đáng kể. Giá trị sản xuất tăng từ 4.139,2 tỷ đồng
năm 1995 lên 5.161,9 tỷ đồng năm 2000 và đạt 5.960,4 tỷ đồng vào năm 2005
là (giá cố định năm 1994). Tốc độ tăng trưởng bình quân (1996 - 2005) đạt
4,4%/năm, trong đó giai đoạn 1996 - 2000 tăng 4,9%/năm, 2001 - 2005 tăng
3,1%/năm.
- Về trồng trọt: Trong các loại cây trồng, lương thực có hạt là cây chủ
lực của vùng, mặc dù có sự biến động về diện tích tăng từ 386,1 nghìn ha năm
1995 lên 391,1 nghìn ha năm 2000 và đến năm 2005 giảm xuống còn 358,4
nghìn ha song sản lượng vẫn tăng liên tục từ 1.207,1 nghìn tấn năm 1995 lên
1.477,5 nghìn tấn năm 2000 và đạt 1.675,8 nghìn tấn vào năm 2005, đảm bảo
cân đối cho nhu cầu tại chỗ, ngoài ra một phần nhỏ còn được cung cấp cho
Tây Nguyên.
Ngoài cây lương thực có hạt, cây sắn khá thích hợp với điều kiện của

vùng và có nhu cầu xuất khẩu lớn, do đó diện tích được mở rộng lên 49,1
nghìn ha năm 2005 (gấp 1,43 lần so năm 2000), trong khi diện tích khoai lang
giảm từ 35,9 nghìn ha năm 1995 xuống còn 16,1 nghìn ha năm 2005.
Trong các loại cây công nghiệp hàng năm, mía là cây cho sản phẩm
hàng hóa lớn nên được phát triển với tốc độ khá nhanh, đạt 12,9 nghìn ha vào
năm 2005 với sản lượng 631,5 nghìn tấn (tập trung ở Quảng Ngãi và Bình
Định), có thể xem đây là lợi thế để so sánh với các cây khác có điều kiện
tương tự.
Đối với cây công nghiệp lâu năm, điều là cây có diện tích lớn nhất và
có tiềm năng mở rộng, trong khi cà phê, dừa có xu hướng giảm (tập trung ở
Quảng Ngãi và Bình Định); ngoài ra còn một số cây có triển vọng phát triển
23
như dâu tằm, chè, hồ tiêu, ca cao, cao su... nhưng diện tích, sản lượng hiện
nay còn nhỏ.
- Về chăn nuôi: Những năm gần đây, chăn nuôi của vùng đã được quan
tâm đầu tư, phát triển khá về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, đa dạng
hóa và tăng giá trị hàng hóa sản phẩm chăn nuôi. Theo số liệu thống kê, năm
2005 đàn trâu có 163,7 nghìn con, chiếm 5,60% trong cả nước (tập trung nhiều
ở Quảng Nam, Quảng Ngãi và Thừa Thiên Huế); đàn bò có 759,6 nghìn con,
chiếm 13,71% cả nước (chủ yếu ở Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam); đàn
gia cầm có 12,41 triệu con, chiếm 5,64% trong cả nước (tập trung ở Quảng
Nam, Quảng Ngãi và Bình Định). Tồn tại của ngành chăn nuôi nói chung hiện
nay là chất lượng giống kém, công tác thú y chưa tốt và khó khăn về thị trường
tiêu thụ.
b. Sản xuất lâm nghiệp:
Được sự quan tâm của Nhà nước, nhất là nhờ chủ trương đóng cửa
rừng và đẩy mạnh thực hiện các chương trình 327, PAM, 661, 135, 133, giao
khoán rừng cho hộ gia đình quản lý... đã tạo điều kiện cho lâm nghiệp của
vùng phát triển, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng phá rừng, góp phần nâng
cao tỷ lệ che phủ của rừng lên đạt 40,32% (năm 2005), chuyển từ một nền lâm

nghiệp khai thác sang nền lâm nghiệp xã hội, lấy bảo vệ và xây dựng vốn
rừng làm nhiệm vụ cơ bản, đưa kinh tế lâm nghiệp trở thành thế mạnh của
vùng.
- Về giá trị sản xuất: Trong thời kỳ 1996 - 2005, giá trị sản xuất lâm
nghiệp tăng bình quân 1,89%/năm (trong đó giai đoạn 1996 - 2000 giảm
0,36%/năm, giai đoạn 2001 - 2005 tăng 4,22%/năm) và đạt 521,7 tỷ đồng vào
năm 2005, tăng 90,9 tỷ đồng so với năm 2000. Sản lượng gỗ khai thác tăng từ
248,4 nghìn m
3
năm 1995 lên 259,5 nghìn m
3
năm 2000 và đạt 489,9 nghìn m
3
vào năm 2005, tập trung phần lớn ở Quảng Ngãi, Bình Định và Quảng Nam.
- Về công tác trồng và bảo vệ rừng: Trong 10 toàn vùng đã trồng mới
được 91.222 ha rừng, bình quân trên 9 nghìn ha/năm, trong đó tập trung phát
triển mạnh vào giai đoạn 1996 - 2000 (64.690 ha), góp phần nâng cao vốn
rừng.
c. Nuôi trồng và đánh bắt thủy sản:
Phát huy lợi thế tiềm năng biển, nên kinh tế thuỷ sản đóng vai trò quan
trọng trong tăng trưởng cũng như cơ cấu kinh tế nông nghiệp của vùng. Tốc
độ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kỳ 1996 - 2005 đạt 19,94%, cao hơn
mức bình quân chung cả nước (18,54%), trong đó sản lượng khai thác tăng
bình quân 10,10%, nuôi trồng tăng 11,47%; sản lượng không ngừng tăng lên,
năm 1995 đạt 154.761 tấn, đến năm 2000 tăng lên 230.656 tấn và năm 2005
24
đạt 322.537 tấn (bình quân tăng 16.778 tấn/năm), chủ yếu là sản lượng khai
thác (chiếm trên 94%), tập trung nhiều ở Bình Định (110.491 tấn, chiếm
34,26% sản lượng khai thác toàn vùng). Tuy nhiên, cơ cấu sản lượng có sự
chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng khai thác từ 97,56% năm 1995 xuống

94,10% năm 2005, tăng tỷ trọng nuôi trồng từ 2,44% lên 5,90%, phù hợp với
xu hướng chung của cả nước.
BẢNG 5: SẢN LƯỢNG, CƠ CẤU THUỶ SẢN QUA CÁC NĂM
Chỉ tiêu Năm 1995 Năm 2000 Năm 2005
Sản lượng toàn vùng (tấn) 154.761 230.656 322.537
- Khai thác 150.979 222.537 303.504
- Nuôi trồng 3.782 8.119 19.033
Cơ cấu (%) 100,00 100,00 100,00
- Khai thác 97,56 96,48 94,10
- Nuôi trồng 2,44 3,52 5,90
Tỷ trọng so với cả nước (%) 9,77 10,24 9,40
- Khai thác 12,63 13,40 15,21
- Nuôi trồng 0,97 1,38 1,32
Ngoài ra, trên địa bàn vùng còn có hoạt động sản xuất diêm nghiệp,
phân bố chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định; tuy nhiên quy mô diện
tích sản xuất có xu hướng giảm do chuyển đổi sang phát triển nuôi tôm. Phần
diện tích còn lại hiện nay nhìn chung đang được khai thác hiệu quả, chất
lượng muối tốt, được xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
* Nhận xét chung:
- Những thành tựu đạt được: Trong những năm qua nền kinh tế nông
lâm ngư nghiệp trên địa bàn vùng KTTĐMT đã đạt được những kết quả nhất
định:
+ Tuy có điểm xuất phát thấp, điều kiện tự nhiên không thuận lợi
nhưng đến nay sản xuất nông nghiệp của vùng phát triển khá ổn định, đảm
bảo nhu cầu lương thực và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
+ Việc quản lý, bảo vệ và từng bước khai thác hiệu quả, hợp lý vốn
rừng không những góp phần phát triển bền vững mà còn giữ vai trò quan
trọng trong sự phát triển đa dạng cơ cấu nền kinh tế.
+ Tiềm năng, lợi thế biển và ven biển đã được phát huy hiệu quả, dần
đưa kinh tế thuỷ sản trở thành ngành sản xuất chủ đạo trong cơ cấu ngành

nông nghiệp, đóng góp quan trọng trong tích luỹ nội bộ và giá trị xuất khẩu.
- Những tồn tại và hạn chế:
25

×