Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

TRƯỞNG PHÒNG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ DÂN TỘC MIỀN NÚI docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.18 KB, 27 trang )

1

Sáng kiến kinh nghiệm :
TRƯỞNG PHÒNG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUẢN LÝ DÂN TỘC MIỀN NÚI
I-LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Tư tưởng chỉ đạo của chiến lược phát triển giáo dục (GD ) trong giai đoạn
2001-2010 là khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực ; tiếp tục đổi mới một
cách có hệ thống và đồng bộ tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả
(CLHQ) GD ; phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH- HĐH ),
chấn hưng đất nước , đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững , chóng sánh vai cùng
các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới .
Nguồn nhân lực có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã
hội(KT-XH) nói chung và là nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển, đi lên ở vùng
đồng bào dân tộc (DT) và miền núi.
Khi nói đến nguồn nhân lực , người ta thường tập trung nhấn mạnh đến con
người.Đó là những người đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động xã hội , bao gồm
các thế hệ trẻ đang được nuôi dưỡng học tập tại các cơ sở GD phổ thông chuyên
nghiệp, cao đẳng và đại học. Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là làm
tăng giá trị của con người về mặt trí tuệ, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ; làm cho con
người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất mới, cao hơn.
2

Giờ đây, nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước với nhiều
thuận lợi và cũng gặp không ít khó khăn. Để vượt qua thì con người phát triển toàn
diện và nguồn nhân lực được đào tạo với chất lượng cao sẽ là nhân tố quyết định cho
thắng lợi. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đã định hướng cho sự phát triển nguồn
nhân lực Việt Nam là: người lao động có trí tuệ, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất
tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát triển bởi một nền GD tiên tiến gắn với một
nền khoa học công nghệ hiện đại. Trong dự thảo của báo cáo chính trị tại đại hội X
đưa xuống cơ sở thảo luận cũng đã nhấn mạnh vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất


lượng cao.
Việc khẳng định vấn đề DT và đại đoàn kết DT là chủ trương chiến lược nhất
quán của Đảng ta, mục tiêu chung là “Vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” làm điểm tương đồng để các DT trong huyện đều bình đẳng, không
phân biệt đối xử , xoá bỏ mặc cảm, định kiến, xây dựng tinh thần đoàn kết tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
Nhằm nâng cao CLGD , tạo tiền đề phát triển toàn diện trên cơ sở mở rộng hệ
thống và loại hình trường lớp mọi địa bàn dân cư , đặc biệt ở nông thôn và những
vùng khó khăn đồng thời nâng cao nhận thức trong đồng bào DT Khmer về đường lối,
Chủ trương của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước, nhất là chính sách DT,
nghĩa vụ và quyền lợi của công dân xây dựng ý thức tự lực tự cường vươn lên , không
trông chờ ỷ lại nhà nước.
3

Do đó cần tập trung đầu tư xây dựng phát triển KT-XH xoá đói giảm nghèo,
nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của đồng
bào Khmer,và miền núi khó khăn
Mặt khác quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho con em đồng bào DT miền núi
được học hành, không để bỏ học giữa chừng , đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục
(PCGD). Hướng dẫn dạy nghề, hướng nghiệp giải quyết việc làm đào tạo bổ sung
nguồn lao động cho xã hội,là việc hết sức quan trọng và cần thiết là rất cấp bách và
khẩn trương của huyện trong giai đoạn hiện nay .
Những căn cứ pháp lý:
-Chiến lược phát triển GD giai đoạn 2001-2010 được ban hành kèm theo quyết
định 201/2001/QĐ.TTG ngày 28-12-01 của Thủ tướng chính phủ.
-Chỉ thị số 14/2003/CT-TTg ngày 5/6/2003 của Thủ tướng chính phủ về phương
hướng, nhiệm vụ giải pháp phát triển KT-XH.
-Chương trình hành động 06/CT ngày 8/01/03 của huyện Đảng bộ.
-Căn cứ tình hình thực tế của địa phương về nhu cầu học tập nâng cao kiến thức
xã hội, lao động sản xuất của nhân dân

Xuất phát từ thực tiễn khó khăn của Tịnh Biên về nhiều mặt trong đó có GD sẽ
được đề cập trong phần thực trạng dưới đây đặc biệt là GD cho cộng đồng DT còn rất
nhiều bất cập . Do vậy sự hình thành và đẩy nhanh tiến độ thực hiện GDDT sẽ góp
phần nâng cao CLHQĐT,đảm bảo được yêu cầu phù hợp với khoa học GD , quán triệt
4

mục tiêu và nguyên lý GD của Đảng là việc làm rất quan trọng và rất cần thiết của một
huyện miền núi , biên giới và DT .
II- NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT :
1/Thực trạng trước đây :
Tịnh Biên(TB) la huyện miền núi DT biên giới nằm về phía Tây nam của tỉnh,
diện tích tự nhiên: 33.744 ha, dân số 25.166 hộ với 113.560 nhân khẩu, trong đó đồng
bào DT thiểu số khmer 29,1% dân số. Với địa hình bán sơn địa, vừa có đồng bằng vừa
có đồi núi và tuyến biên giới giáp Cam Pu Chia dài 18,75km, dân cư được phân bố
theo địa bàn gồm 14 xã (TT) trong đó 10 xã có đồng bào DT Khmer sinh sống, tập
trung nhiều nhất ở 5 xã Văn Giáo, An Cư, Vĩnh Trung, An Hảo và Tân Lợi. Diện tích
vùng đồi núi cao 17,78% , đồng bằng ven chân núi 25,19% vùng đồng bằng ngập nước
37,03%, lúa tăng vụ trên 14.000 ha nhưng vụ hè thu hằng năm thường bị lũ lụt.Đại bộ
phận dân cư sống bằng nghề nông sản xuất lúa 2 vụ là chủ yếu, tập quán canh tác lạc
hậu, việc ứng dụng tiến bộ khoa học-kỷ thuật(KH-KT) vào sản xuất còn hạn chế. Bản
chất của người DT ít nói sống chất phác thật thà,sinh họat theo từng cụm dân cư trong
phum sóc,đời sống còn nhiều khó khăn,trình độ dân trí phát triển không đồng đều,ít
quan tâm đến việc học tập.
TB vốn có truyền thống cách mạng, là huyện Anh Hùng trong việc chống giặc
ngoại xâm. Tình hình KT-XH, đời sống vật chất văn hoá tinh thần của người dân được
nâng lên , hộ khá ngày càng tăng , hộ nghèo giảm dần bình quân thu nhập
5.683.000đ/người/năm, bình quân lương thực 1094kg/người/năm. Hệ thống giao thông
lộ liên xã được nhựa hoá, sửa chửa tạo thuận lợi cho việc đi lại và vận chuyển.
5


Song, trước nhu cầu phát triển chung của đất nước, của nền GD và nhu cầu phát
triển của đồng bào DT thiểu số; tình hình GDĐT vùng DT thiểu số đang đặt ra những
yêu cầu bức xúc. Tỉ lệ người được đi học còn thấp tình trạng mất cân đối giữa các cấp
học lớn, học sinh(HS) tập trung chủ yếu ở bậc tiểu học và THCS, tỉ lệ THPT, cao đẳng
đại học còn rất thấp, số người được đào tạo sau Đại học được đi học nước
ngoài,chuyên viên giỏi là người DT thiểu số hầu như không có. Việc dạy chữ DT còn
nhiều bất cập.
GDTB có tăng nhanh về quy mô trong một số năm gần đây . Tuy nhiên mặt bằng
dân trí , trình độ về nguồn nhân lực vẫn còn thấp so với các vùng khác trong tỉnh .
Việc dựng trường mở lớp chủ yếu do nhà nước, tính XHH chưa cao, chưa đa dạng chủ
yếu là quốc lập , trong khi các điều kiện kèm theo nhất là việc đầu tư kinh phí hàng
năm chưa đáp ứng kịp nên ảnh hưởng nhất định đến HQĐT ảnh hưởng không nhỏ đến
GDDT .
Nhiều năm qua đã tập trung đầu tư xây dựng hệ thống trường lớp đến tận vùng
sâu , vùng xa, vùng đồng bào DT thiểu số. Riêng trường THPT còn mỏng, cách xa địa
bàn đồng bào sinh sống (xã An Cư,Tân Lập), nên con em đồng bào khó tiếp tục theo
học ở bậc THPT. Hầu hết con em đồng bào gặp rất nhiều khó khăn khi bước vào lớp 1.
phần lớn các cháu đều rất bỡ ngỡ, thậm chí không theo kịp chương trình học tập vì
chưa được chuẩn bị về tinh thần trang bị kiến thức cơ bản và ngôn ngữ phổ thông.
Nên việc xây dựng thêm điểm trường THPT , mẫu giáo bố hợp lý về cự ly để con em
đồng bào DT thiểu số có điều kiện học tập là cần thiết.
6

Các địa phương chưa nắm chắc lực lượng HS, sinh viên là người DT thiểu số
qua đào tạo. Do chính sách tuyển dụng CBCC hiện nay chủ yếu phải qua thi tuyển, đa
số con em DT thiểu số ít đủ điều kiện để được tuyển dụng chính thức . Mặt khác, do
yêu cầu tinh giảm biên chế , nhu cầu tuyển dụng CBCC mới ít, cơ hội để con em DT
thiểu số qua đào tạo được tuyển dụng cũng khó khăn hơn.
Một khó khăn lớn nữa hiện nay đối với vùng đồng bào DT thiểu số trong việc
phát triển nguồn nhân lực liên quan đến GD là trình độ dân trí phát triển chậm. Điều

này có liên quan đến cả ảnh hưởng còn lại của văn hoá cổ xưa khi con người vùng núi
phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên nên đồng bào có tâm lý việc dễ thì làm , cái khó thì
bỏ. Việc học cũng vậy người DT thiểu số , miền núi còn có tâm lý “vừa đủ”, bằng lòng
học như vậy vả lại nhiều khi học lên không biết để làm gì? Cũng cần phải nhấn mạnh
thêm là tập quán tự cung tự cấp hãy còn ăn sâu trong tư tưởng của đồng bào. Mỗi gia
đình dậy từ tờ mờ sáng đi làm cho đến tối để có đủ cái ăn mà đồng bào cần, không
nghĩ đến việc làm để bán cho người khác. Hơn nữa giao thông lại không thuận lợi nên
bà con chưa nghĩ nhiều đến thị trường hàng hoá chưa thấy việc học tập văn hoá là điều
quan trọng. Ơ đồng bào DT lại rất coi trọng tình trạng chiều con cái, ít khi “Kiên
quyết” nhắc nhỡ học tập nên ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nguồn nhân lực ở khu
vực này.
Việc dạy ở một số trường DT vấn đề dễ nhận thấy là do GV không biết tiếng
DT, HS nhiều em chưa nói giỏi tiếng việt nên việc truyền đạt kiến thức đến HS rất khó
khăn. Điều đó là một thách thức không nhỏ trong tiến trình đổi mới GD ở vùng DT
thiểu số nói chung cũng như ở Tịnh Biên nói riêng.
7

Dạy HSDT thiểu số khó ở chổ các em không nắm vững tiếng việt. Thí dụ như
khi dạy bài học kể chuyện tưởng tượng các em không hiểu “tưởng tượng” là gì. GV
diễn giải rất kỹ HS vẫn không hiểu nỗi nghĩa của từ. Với HSDT thiểu số khó khăn của
các em là học các môn xã hội ; nhất là ngữ văn có HS học lớp 10 rồi mà nói tiếng phổ
thông chưa giỏi .
Dạy học cho HSDT thiểu số khó khăn nhất là do sự bất đồng về ngôn ngữ các em học
đã hay quên lại không dám hỏi, không dám dứng dậy, kể cả GV gọi đến, còn chuyện
GV phải đứng ra đánh vần từng chữ cho các em không phải chỉ ở tiểu học, mà ngay cả
HS THCS (lớp 6,7) cũng vậy. Vất vã nhất là môn tiếng Anh. Ngay tiếng phổ thông
nhiều em nói chưa sõi, huống gì tiếng nước ngoài. Các em HS người DT thiểu số rụt
rè, nhút nhát đã đành tiếp thu bài lại chậm. Một tiết học, muốn các em hiểu được có
khi phải kéo dài thời lượng 5, 6 tiết. Nhưng kết quả cũng rất hạn chế.
Những điều nêu trên có liên quan đến vấn đề bản sắc DT của đồng bào DT

thiểu số và miền núi điều quan trọng là phải dung hoà giữa bản sắc của các DT thiểu
số, miền núi với việc tiếp thu văn hoá, KHKT hiện đại. Phải hạn chế những mặt không
phù hợp đã lạc hậu của văn hoá truyền thống, phát huy mặt tích cực, coi đó là cái nền
để HĐH cho đồng bào DT. Hiểu văn hoá truyền thống và khả năng đích thực của con
người, của đồng bào thì sẽ phát triển được nguồn nhân lực.
2/ Những việc đã làm :
Kể từ năm 2001phân công bố trí lại cán bộ quản lý (CBQL),tổ chức chỉ đạo sâu
sát và chặt chẽ các hoạt động GD,kiểm tra uốn nắn giúp đở cơ sở,vạch kế hoạch và
8

tham mưu tích cực về chuyên môn và nghiệp vụ giúp Trưởng phòng nắm bắt tình
hình,kiểm soát có hiệu quả các hoạt động GDDT.
Thông qua thao tác thống kê dựa trên kết quả điều tra dân số vào tháng 4 / 1999
tập hợp chính xác số liệu tình hình dân trí ở từng xã (TT), qua đó phân tích xem xét
đánh giá một cách toàn diện để phát triển có chủ điểm, chủ đích trong giai đoạn mới
phù hợp với tình hình của tỉnh và đặc thù riêng của huyện; lập kế hoạch giao chỉ tiêu
cho từng đơn vị cơ sở. Trưởng phòng và Chủ tịch UBND các xã ( TT) ký kết trách
nhiệm giao ước chỉ tiêu nhân các cuộc làm việc giữa PGD và địa phương vào tháng 3
hàng năm .
PGD phối hợp với địa phương một cách chặt chẽ để quá trình tổ chức vận động
ra lớp được nhiều thuận lợi ít gặp khó khăn trở ngại , ít tốn kém công sức , góp phần
làm tăng hiệu suất lãnh đạo , HQCL hoạt động của ngành cũng như hiệu ứng tốt về
góp phần nâng cao nhận thức trong cộng đồng đối với GDDT vốn từ lâu chưa được
quan tâm chú ý kể cả nhận thức trong nội bộ ngành cũng như sự lãnh đạo của cấp uỷ
chính quyền địa phương.
Phối hợp chặt chẽ với các ngành hửu quan trong việc xử lý thông tin, thu thập số
liệu, thống kê kết quả khảo sát tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển GDDT. PGD tổ
chức cho CBQL giao lưu trao đổi kinh nghiệm ở Trà Vinh và Sóc Trăng qua đó nâng
cao và mở rộng tầm nhìn, vận dụng một cách thận trọng có chọn lọc và có hiệu quả
vào thực tiễn tình hình của huyện.

Lập kế hoạch giao trách nhiệm thi đua cụ thể cho từng đơn vị trường, cách làm
này tương tự như giao ước thi đua. Từ đó trong chỉ đạo phải tập trung chú ý nâng cao
9

hơn nữa năng suất chất lượng công tác tạo tiền đề cho việc đúc rút kinh nghiệm thực
tiễn, hệ thống hoá các vấn đề được xem là có kết quả tốt thành lý luận vào cuối năm.
Từ thực tế của cuộc sống và GDDT nên được sự quan tâm của các cấp uỷ,
UBND huyện , xã chỉ đạo rất sát sao tạo sự chuyển biến đáng khích lệ, họat động có
chiều sâu về chất lượng giảng dạy và học tập cho con em người DT Khơmer ở vùng
sâu vùng xa , việc dạy chữ DT cũng tổ chức thực hiện phủ khắp các trường có HSDT
theo học . Hiện nay , việc tổ chức dạy hai thứ chữ đã được triển khai từ lớp 3 đến lớp 5
và THCS DT nội trú Chi Lăng.
Công tác huy động trẻ em người DT Khơmer ra lớp đạt tỷ lệ cao hơn . Các lớp
CMC trong nhà trường và ngòai nhà trường được tổ chức dạy vào buổi chiều hoặc
buổi tối sau khi những thanh niên nam nữ người Khơmer đi lao động ngòai đồng áng
về . Đặc biệt trong các chùa Khơmer đêù có những lớp học XMC tổ chức giảng dạy
hai thứ chữ phổ thông và Khơmer ngữ cho thanh niên Khmer tuổi từ 15 đến 35 kể cả
sư sãi mới vào tu trong cửa Phật .
Thông qua việc triển khai thông tư , Chỉ thị , Nghị quyết của TW và địa
phương.Đồng thời tiến hành bồi dưỡng kiến thức văn hóa : ngữ pháp , phương pháp
giảng dạy,văn học,từ ngữ,tập làm văn Khmer cho CB,GV DT thông qua các lớp bồi
dưỡng do tỉnh tổ chức và hội đồng bộ môn Khmer của huyện.
Bằng những tài liệu tham khảo mang tính thực tế , phù hợp với tính thực tiễn
của địa phương , nội dung , hình ảnh sống động giúp cho HS và GV nhận thức được
bản sắc DT là vốn quí , từ những nhận thức trên tạo nên một niềm tin cho sự duy trì và
phát huy bản sắc văn hóa DT .

10
Tình cảm , thái độ và tinh thần trách nhiệm của cộng đồng tham gia vào công
tác DT ngày một nâng cao thể hiện cụ thể như : nhận thức đưa con em đi học , tinh

thần bảo quản cơ sở vật chất , hiến đất , gây quỹ học đường ngày càng được củng cố
và phát triển ở hầu hết các vùng có HSDT .
Sau những năm thực hiện Nghị quyết TW II (khoá VIII) kết luận TW Đảng
khoá IX về GDDT; nghị quyết TW 7 (khoá IX) về công tác DT, các bộ ngành TW, cấp
uỷ Đảng, chính quyền địa phương đã quan tâm, đầu tư nhiều hơn cho vùng đồng bào
DT thiểu số. Mạng lưới các trường mầm non đến THCS những năm gần đây đã mở
rộng nhất là ngành mầm non. Quy mô và CLGD cho đồng bào DT đã được nâng lên.
Kết quả CMC và PCGD tiểu học cơ bản được giữ vững.
Vì vậy để phát triển tốt trong tương lai , cần phải tiếp tục kiên trì làm chuyển
đổi nhận thức trong cộng đồng tạo nguồn nhân lực phục vụ cho thời kỳ CNH-HĐH đất
nước . Mặt khác động viên giúp đở từng cơ sở trường học và địa phương khắc phục
khó khăn trước mắt để đạt được những giới hạn cao hơn và thực tế hơn, giúp các cơ sở
GD tìm cách phát hiện các nhân tố tích cực trong dân,những khả năng tiềm tàng có thể
có trong việc phát triển GDDT.
3/ Môt số kết quả đạt được :
Những năm trước 2000 GDTB được quan tâm nhưng chưa đúng mức điều này
xuất phát từ nhận thức của công tác QLGD mà cụ thể là công tác tham mưu và quản
lý nhà nước ở lĩnh vựcGD. Sau 05 năm tổ chức chỉ đạo bước đầu đem lại một số kết
quả:

11
3-1/ Kết quả cụ thể :
Việc nâng cao CLGD HS nói chung , HS Khmer nói riêng được phát triển tòan
diện là một yêu cầu tất yếu . Cùng với việc đổi mới phương pháp đã mang lại HQCL
giảng dạy GV và học tập của HS vùng DT góp phần hạn chế lưu ban bỏ học . Nhờ
được học song ngữ , những trẻ em Khmer sống tách biệt với người Kinh , chưa biết
nói tiếng Việt khi đến trường đã có cơ hội học tập cả hai thứ tiếng , trong đó , cả hai bổ
sung lẫn nhau cho việc phát triển nhận thức , tư duy của các em . Từ chỗ theo kịp nhịp
độ học tập chung , tiếp thu được những tri thức mới , các em mới thấy ham học , mến
trường , mến lớp , đồng thời quyết tâm theo đuổi việc học hành , phấn đấu học hết tiểu

học để được vào trường DT nội trú học tiếp bậc trung học .
Cùng với sự phát triển nâng cao về trình độ văn hóa , mặt bằng dân trí vùng DT
ngày càng được phát triển cao hơn , từ đó tạo điều kiện tốt để đồng bào DT giữ gìn và
phát huy bản sắc DT. Đặc biệt là chữ viết , tiếng nói , cùng với việc sưu tầm , phổ biến
văn hóa riêng của DT ( các thành ngữ , tục ngữ , các câu chuyện kể về đồng bào DT)
sẽ giúp cho HS có được những kiến thức hiểu đúng về DT mình cũng như cùng với
các DT khác đóng góp sức mình cho việc phát triển sự nghiệp GD . Việc được học ,
biết đọc biết viết chữ DT, lọai chữ viết truyền thống vốn được hình thành từ thời xa
xưa là một nguyện vọng tha thiết và rất chính đáng của đa số đồng bào DT Khmer . Ở
trường , HS Khmer còn được tra từ điển , tham khảo quyển truyện tranh , các tài liệu
đọc thêm về bản sắc văn hóa DT là những món ăn tinh thần thật bổ ích , phù hợp với
lứa tuổi thơ hồn nhiên của các em .

12
Tình cảm, thái độ , trách nhiệm ,sự hỗ trợ của đồng bào Khmer với GD thể hiện
khá rõ nét do GDDT là một bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp GD của Đảng và
Nhà nước . Các lớp được mở ở trong chùa đã góp phần đưa GD đến với HSDT ở vùng
sâu vùng xa .
Trước đây , trẻ em Khơme 6 tuổi trở lên đến trường tiểu học đạt tỷ lệ rất thấp so
với trẻ em người Kinh . Do sống ở các phum sóc xa xôi , đi lại khó khăn , các trẻ em
Khmer thường đi học trể tuổi .Tăng đáng kể đối với việc huy động trẻ em DT Khmer
ra lớp CMC-PCGDTH đảm bảo tỷ lệ huy động tối thiểu của ngành là từ 95% trở lên .
Các khóa đào tạo và bồi dưỡng được tổ chức đều đặn đã từng bước trang bị cho
GV những kiến thức chuẩn mực cũng như khả năng sư phạm để có thể tự tin hơn trước
các em HS ( trước đây hầu hết các GV dạy tiếng Khmer đều chỉ được học tiếng DT ở
các chùa ) . Các lớp học tiếng Khmer ở các trường tiểu học trở nên nề nếp và chất
lượng khi các tiết học được tiến hành một cách bài bản , quy cũ .
Dạy song ngữ đã tạo điều kiện tốt cho việc đổi mới phương pháp GD , lấy hoạt
động của HS làm trung tâm trong quá trình dạy học như : Hình thức họp tổ , nhóm
phát huy vai trò tự quản , các thành viên trong nhóm đều có điều kiện tự học , tự phát

huy năng lực cá nhân qua việc tham gia phát biểu ý kiến , đóng góp xây dựng bài .
Hình thức “ Chơi mà học , học mà chơi” làm cho lớp học sinh động , tránh đơn điệu ,
nhàm chán thúc đẩy HS phát huy năng lực tư duy . Dạy cách tự học , chủ động trong
học tập . Tận dụng không gian lớp học làm cho HS vui thích và cũng là động lực thúc
đẩy HS phát triển năng lực , năng khiếu .

13
Việc huy động cộng đồng tham gia GD để tổ chức các lớp ghép – song ngữ ,
lực lượng này có chú ý , quan tâm đúng lúc và hỗ trợ tích cực tạo điều kiện cho HS có
hòan cảnh khó khăn , đặc biệt là HSDT đến trường học tập như cấp học bỗng , tặng
cặp tập vỡ , miễn tiền đóng góp xây dựng
Các CBQLGD đã có kinh nghiệm trong khâu tổ chức , chỉ đạo , quản lý chặt
chẽ các lớp ghép – song ngữ , nắm sát đối tượng và đưa ra nhiều biện pháp duy trì sĩ
số , tổ chức các lớp bồi dưỡng , dự giờ , thăm lớp , phân phối tài liệu giảng dạy , cung
cấp cặp sách vỡ kịp thời.
Về OLGD đã có chuyển biến tích cực góp phần nâng cao dân trí cho đồng bào
DT thiểu số : HS là người DT cần cù chịu khó, ngoan, yêu lao động. Tỉ lệ HS được
xếp đạo đức khá và tốt thường đạt tỉ lệ cao (90% - 95%) tỉ lệ HS là người DT thiểu số
đạt loại khá, nhất là HS học lực trung bình nhiều hơn những năm trước, số HS học lực
yếu giảm nhiều đến nay chỉ còn khoản 20% - 25%.
GD mầm non,THCS vùng đồng bào DT Khmer phát triển khá tốt , đã xây dựng
hòan thành cơ bản các trường , lớp tận các ấp vùng sâu,tất cả các xã có đồng bào DT
Khơmer đều có trường THCS,mầm non có nơi như An Cư,Tân Lợi,Chi Lăng có đến 2
trường mầm non ,mẫu giáo tạo điều kiện cho trẻ em người DT đi học được thuận lợi ,
số HSDT được đi học và thi tốt nghiệp tiểu học tăng .
Việc dạy chữ Khmer cho các em DT rất được sự đồng tình của đồng bào
DT.Mặc dù số lượng trường,lớp có dạy chữ DT còn ít nhưng cũng góp phần giữ gìn
bản sắc văn hóa DT của người Khmer.Các tài liệu song ngữ không những được GV sử

14

dụng để giảng dạy , giới thiệu cho các em HS mà còn được phụ huynh người DT
mượn , tham khảo để sinh họat trong các lễ hội của họ .

2 / Kết quả chung :
Từ chỗ con em được học hành nghiêm chỉnh , lại biết đọc biết viết tiếng DT , bà
con DT Khmer càng tỏ ra quan tâm đến công tác GD , nâng cao trình độ dân trí nhằm
thóat khỏi nghèo đói , bệnh tật cải thiện dần chất lượng cuộc sống vốn rất khó khăn vất
vã .Nhờ mở nhiều trường lớp , các trường đã thu hút HS ra lớp ngày càng đông tỷ lệ
lưu ban bỏ học giảm đáng kể . Điều đó thúc đẩy công tác PCGD đúng tiến độ,đúng
thời gian quy định .
GD cho cộng đồng người DT khmer,nông thôn được tổ chức triển khai khá tốt
trên địa bàn TB.Đây là việc rất khó thực hiện,tưởng như không thể được nếu như
không có quyết tâm cao,không có sự tác động quản lý mạnh . Nhận thức của cộng
đồng dân cư có nhiều chuyển biến tích cực , đặc biệt là đồng bào DT
khmer.Nhưng,trước nhất vẫn là sự chuyển biến nhận thức từ trong nội bộ, trong lãnh
chỉ đạo QLGD, quản lý nhà nước của chính quyền địa phương cũng như ý thức lãnh
đạo của các cấp uỷ Đảng và sự vận động của các tổ chức đoàn thể. Từ đó tạo tiền đề
cho GDDT phát triển bền vững .
Góp phần phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu học tập của cộng đồng DT
giúp địa phương phát triển mọi mặt hoạt động một cách thường xuyên, góp phần xây
dựng một xã hội học tập.

15
Đội ngũ CBQL ,GV từng bước trưởng thành trong điều kiện huyện miền
núi,biên giới,DT thật sự khó khăn trên nhiều bình diện,phương diện . Việc phát triển
qui mô GDDT góp phần không nhỏ vào việc giải quyết việc làm , giải quyết lao động
phục vụ chiến lược phát triển KT-XH của địa phương trong điều kiện chưa cân đối
được ngân sách .
So sánh với những năm trước đây, GD ở những vùng sâu vùng xa đã có tiến bộ
rất nhiều, nhiều trường tiểu học ở vùng sâu trước đây chỉ có tới lớp 1, lớp 2 thì nay đã

có đến lớp 5. hình thức dạy lớp ghép tuy còn nhiều hạn chế nhưng đã tích cực góp
phần xoá các điểm trắng về GD và là giải pháp tình thế để đáp ứng nhu cầu học tập
của nhân dân.
Sự chỉ đạo của PGD đối với các trường tiểu và sự hợp tác của các GV người
DT Khmer góp phần tác động đến nhận thức của cộng đồng . Sự tác động qua lại ấy
góp phần nâng tỷ lệ trẻ đến trường , duy trì sỉ số , hạn chế lưu ban , bỏ học , từng bước
nâng cao CLGD .
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tình cảm và nhận thức của cộng đồng người
Khmer đối với phát triển sự nghiệp GD , nâng cao dân trí của cộng đồng .Tạo điều
kiện tốt trong việc huy động trẻ em tham gia học tập vì hầu hết gia đình đều ngụ tại
vùng sâu , phương tiện đi lại khó khăn , sống chưa tập trung , kinh tế lại nghèo.
Công tác xã hội hoá(XHH) GD được mọi người hưởng ứng tham gia, kiến thức
xã hội, KH-KT luôn được nhân dân quam tâm theo dõi.Mặc dù vẫn còn nhiều khó
khăn nhưng đảng bộ huyện đặc biệt quan tâm tập trung đầu tư bằng nhiều dự án phục

16
vụ chương trình DT,nước ,truyền thông, thông tin bưu điện phục vụ tốt việc đi lại, học
hành.
Những năm qua, chính sách về GDDT của Nhà nước đối với đồng bào DT thiểu
số càng cụ thể và đi vào cuộc sống. Cùng nhiều chính sách ưu đải khác lần lượt được
triển khai thực hiện. Do vậy tình hình GDDT trong vùng DT thiểu số TB nói riêng có
những chuyển biến tích cực và có mặt tiến bộ rõ nét. Cơ sở vật chất, trang thiết bị,
trường học vùng DT được tăng cường.
4/Nguyên nhân thành công và tồn tại:
4.1/ Nguyên nhân thành công:
Có sự nổ lực chủ quan của lãnh đạo, CBCC PGD trong công tác tham mưu đề
xuất với cấp Ủy, Ủy ban các cấp đối với các hoạt động trên địa bàn huyện.Xây dựng
được khối đoàn kết nhất trí cao, thống nhất trong hành động, vượt khó khăn để phong
trào phát triển tốt.
Đây là vấn đề thường xuyên liên tục được thể hiện dưới nhiều hình thức và

phương pháp làm khác nhau , sẽ không gặt hái được kết quả , thành công lớn nếu như
không quán triệt và tổ chức chỉ đạo chặt chẽ trong các lần hội nghị nội bộ, hội nghị
liên ngành, hội nghị của Đảng và Nhà nước cũng như các kỳ họp HĐND.
Tăng cường vai trò tham mưu lãnh đạo quản lý của Trưởng phòng, mạnh dạn
bố trí sử dụng đội ngũ, trẻ, khoẻ, nhiệt tình có năng lực, năng khiếu, chịu khó tự học tự
rèn luyện, tự bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ .

17
Thường xuyên tổ chức kiểm tra , tự kiểm tra và kiểm tra đột xuất quy trình công
việc , kịp thời phát hiện bồi dưỡng các nhân tố mới trong CBCC. Không ngừng cải
tiến công tác quản lý qua từng năm học nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ
chung của ngành , của địa phương cũng như thực tiễn xã hội đang đặt ra .
Năng lực nghiệp vụ của CBQL từng bước được nâng cao .Đội ngũ GV được
đào tạo lại phù hợp với yêu cầu phát triển của từng địa bàn đang triển khai dạy hai thứ
chữ .Năng lực giảng dạy , trình độ khmer ngữ của đội ngũ GV được nâng lên.Từ đó
nhận thức về công tác GDDT ngày càng rõ nét , tinh thần trách nhiệm ngày càng cao.
Các tài liệu tham khảo , tài liệu nâng cao , tài liệu đọc thêm đã góp phần nâng cao kiến
thức cho GV cũng như nâng cao năng lực sư phạm .
4.2/Nguyên nhân tồn tại :
Trong những năm qua GDTB đã phấn đấu đạt nhiều thành tựu trong mọi lĩnh
vực trong đó có GDDT. Tuy nhiên so với nhu cầu học tập trong cộng đồng DT để mở
rộng kiến thức góp phần phát triển KT, VH-XH thì còn nhiều bất cập và hạn chế.
Trong vài năm gần đây được chú ý và phát triển . Tuy nhiên cũng gặp không ít
những cản ngại trong tổ chức chỉ đạo và điều hành ,trong nhận thức, trong tư duy của
môt ít cán bộ các cấp. Do vậy chất lượng còn gặp những hạn chế nhất định , việc đầu
tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển . Chất lượng đội ngũ GV kiêm nhiệm kinh nghiệm
chưa nhiều , trình độ chuyên môn không đồng đều.Một ít cán bộ bán chuyên trách
Khơmer chưa qua tập huấn đào tạo quản lý, vì vậy chất lượng hoạt động buổi ban đầu
chưa đạt yêu cầu.


18
Một vài nơi cấp uỷ Đảng , chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến sự phát
triển bền vững GD vùng DT , thiếu chỉ đạo đầu tư.Một bộ phận phụ huynh các cháu
vùng nông thôn DT, chưa quan tâm đến việc đưa con em đến trường , từ đó dẫn đến
chỉ tiêu huy động trẻ trong công tác phổ cập còn gặp nhiều khó khăn.
Nguồn kinh phí hạn hẹp không đáp ứng yêu cầu phát triển cũng như mua sắm
thêm trang thiết bị bên trong phục vụ nhu cầu học tập từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến
việc phát triển CSVC và chất lượng.
Địa bàn vùng núi , biên giới , DT , dân cư không tập trung nhất là nông thôn
nên việc đi lại học hành gặp không ít những khó khăn nhất định .
Tự bản thân ngành GD hiện nay cũng chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra như trình độ
và năng lực của CBQL, HQĐT… Bên cạnh là sự mất cân đối về tỉ lệ HS so với tỉ lệ
dân cư ;HSDT thiểu số đi học không đúng độ tuổi, tỉ lệ lưu ban bỏ học cao hơn mặt
bằng chung. Nguy cơ tái mù chữ đang tìm ẩn trong HSDT thiểu số là rất cao.
Chất lượng HS tuy có khá hơn so với trước nhưng chưa nhiều, tỉ lệ HS giỏi còn
thấp. Càng đi sâu vào những vùng khó khăn tỉ lệ HS học lực yếu xu thế ngày càng
tăng, một số em tuy đã học xong bậc tiểu học nhưng chưa nói thạo tiếng Việt,phụ
huynh chưa quan tâm đúng mức đến phát triển GD mầm non, bên cạnh chất lượng
HSDT từ các trường tiểu học ở vùng sâu, vùng xa còn rất thấp. Hầu hết HSDT chỉ đạt
học lực trung bình tỉ lệ HS yếu nhiều hơn tỉ lệ HS học lực khá, tỉ lệ HS đạt loại giỏi rất
thấp nhiều nơi không có.

19
HS phần lớn chỉ học xong tiểu học,số HS có trình độ trung học, nhất là HS đi
học ở các trường chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học chiếm tỉ lệ thấp hơn nhiều so với
những vùng thuận lợi .
HQGD cho HSDT thiểu số cũng rất thấp, nhất là ở bậc trung học .Vấn đề này
được thể hiện ở tỉ lệ lưu ban bỏ học ở các bậc học chiếm tỉ lệ khá cao nhất là ở bậc
THPT.
Các GV được đào tạo trước năm 1993 được tuyển chọn từ các vùng sâu nên có

nhiều mặt hạn chế về kiến thức ngữ văn Khmer cũng như phổ thông , do đó chất lượng
giảng dạy và học tập còn rất thấp . Việc giảng dạy song ngữ chưa tổ chức đều khắp ở
các lớp CMC – PCGDTH vùng DT .
Nguyên nhân của những hạn chế trên gồm nhiều vấn đề cả về nhận thức cả về
điều kiện KT-XH của đồng bào DT về chủ trương đầu tư, giải pháp và biện pháp tổ
chức thực hiện của ngành chức năng và các địa phương.
5/ Một số bài học kinh nghiệm :
Tăng cường tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức chung trong xã hội và
trong đồng bào DT thiểu số để nhận thức rõ công tác GDĐT là cần thiết, là quốc sách
hàng đầu. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, duy trì các chính sách hiện hành đang
thực hiện đồng thời tiếp tục nghiên cứu bổ sung một số chính sách cụ thể khác cho GV
và HS là con em DT ,cần có nguồn lực và biện pháp triển khai tốt những định hướng
đã đề ra và cần có bước đột phá thì mới có thể thu hẹp chênh lệch giữa các vùng và các
DT.

20
Phối hợp là phương thức hoạt động nhằm huy động các nguồn nhân lực ( kinh
phí, con người…) để duy trì phát triển. Do vậy để củng cố và phát triển phải có sự kiên
trì động viên hướng dẫn giúp đỡ của các cấp quản lý để GV, tiếp cận nhanh thực tiễn
qua đó có giải pháp phù hợp giúp đồng chí đồng nghiệp và phụ huynh nhận thức tốt
hơn về CLvà HQĐT. Từ ấy ở góc độ quản lý sẽ phát hiện , hệ thống hoá vấn đề một
cách có chọn lọc , tinh tế phù hợp với quy luật khách quan trong tổ chức thực hiện và
đẩy mạnh quá trình phát triển.Giữa PGD và địa phương xã (TT) phải thật sự có quyết
tâm cao gắn bó chặt chẽ trong việc tổ chức chỉ đạo và phát triển GDDT đáp ứng nhu
cầu KT-XH,được các ngành hưởng ứng, được các cấp hổ trợ, nội bộ ngành nhận thức
đúng và tích cực thực hiện, góp phần phân phối nguồn nhân lực cho địa phương,đây là
vấn đề mấu chốt của quản lý Nhà nước, quản lý XH.Để một chủ trương đúng có thể đi
vào cuộc sống cần có sự đồng lòng nhất trí, có quyết tâm cao của những người có liên
quan trước hết là CB chủ chốt, CB lãnh đạo.
Trong thời gian dài tâm lý ý thức GDDT chưa được cộng đồng am hiểu

nhiều,bên cạnh ý thức cho con em đến trường phổ thông hạn hẹp vì vậy việc huy động
các cháu trong độ tuổi đến trường là một việc hết sức khó khăn phức tạp và gian khổ
đối với vùng nông thôn , vùng núi , vùng biên giới và DT, KT-XH chưa phát triển
mạnh trong khi đó phần lớn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của đời sống xã
hội,của cộng đồng dân cư vào mức sống và thu nhập của dân chúng . Do vậy phải kiên
trì làm chuyển đổi nhận thức của bộ phận không ít CBCC và cộng đồng dân cư là một
việc không dễ trong một thời gian ngắn có được để đạt được mục tiêu trong đó có
mục tiêu phổ cập .

21
Phải xem XHH GD là nhân tố tích cực của quá trình GDDT là động lực thúc
đẩy quá trình năng động sáng tạo , tự khẳng định mình và tự vươn lên của các địa
phương. Đây là kinh nghiệm quý trong chiến lược GD và phát triển con người, khai
thác phát huy tối đa tiềm năng và sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội .
Nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng của Trưởng phòng là tổ chức kiểm tra, đôn
đốc, nhắc nhở quy trình kế hoạch phát triển mạng lưới trên địa bàn huyện theo đúng
tiến độ đề án. Kiểm tra quá trình chuẩn bị của các cơ sở GD. Mặt khác phải luôn đổi
mới năng động trước các tình huống quản lý, trước yêu cầu bức thiết mà thực tiễn
đang đặt ra tại cơ sở phải giải quyết . Một đội ngũ tâm quyết tự nguyện đảm bảo
phương pháp truyền thụ là điều kiên để nâng cao chất lượng. Do đó công tác tham
mưu phải kiên trì, tranh thủ các điều kiện có thể có để đạt mục đích.
Phải tiếp tục duy trì và bồi dưỡng đội ngũ GV hiện có,đào tạo thêm GV phục vụ
cho các địa phương khó khăn,kém thu hút , nhằm giữ vững thế đi của việc giảng dạy
song ngữ cho HSDT .Trước mắt , quan tâm đến việc triển khai tủ sách dùng chung ,
gồm sách giáo khoa DT lẫn phổ thông góp phần giảm những khó khăn của HS, củng
cố công tác duy trì sỉ số ở những nơi có nguy cơ bỏ học cao do HS không có tiền mua
đầy đủ học cụ , sách giáo khoa.
Tóm lại, hai nguyên tắc cơ bản đó là hiệu quả hoạt động và huy động sự tham gia
đông đảo của nhân dân là yếu tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chính trị, của Đảng bộ
các cấp trong việc GD vùng DT .

6./ Đề xuất giải pháp :

22
Để khắc phục những hạn chế tồn tại đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực DT thiểu số công tác GDĐT phải tập trung giải quyết những vấn đề
sau đây:
Về tài liệu giáo khoa tiếng DT Khmer gấp rút cho hiệu chỉnh lại những nội
dung – được biên sọan từ khá lâu – nay không còn phù hợp với tình hình lớp , nhằm
trang bị cho HS những kiến thức phù hợp , hấp dẫn , cập nhật , tạo thuận lợi rất căn
bản cho việc dạy và học tiếng DT.
Phát triển nguồn nhân lực Khơmer phải được coi là chiến lược quốc gia, là sự
nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Điều đó cũng có nghĩa là chiến lược của từng vùng
miền, nơi có đông đồng bào DT thiểu số, nơi có vùng núi khó khăn. Nên thành lập một
hệ thống chỉ đạo tập trung, thống nhất từ trung ương đến địa phương và các bộ ngành
để kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo nhân lực, sử dụng nhân lực và sắp sếp việc làm hợp
lý. Cần hình thành một tổ chức về đào tạo và sử dụng nhân lực có quyền lực và thuận
tiện trong việc điều phối hoạt động chung,
Có chính sách tăng tỉ lệ ngân sách đầu tư cho đào tạo nhân lực nói chung, cho
vùng có đông DT thiểu số, miền núi . Có lẻ đối với miền núi không nên tính theo đầu
người vì số lượng dân cư ít mà khó khăn thì lớn .
Coi GDĐT là khâu đột phá cho việc phát triển nguồn nhân lực ở miền núi và
vùng đông đồng bào DT thiểu số, điều này có liên quan đến hàng loạt chính sách về
GDĐT cần được bổ sung , điều chỉnh: chính sách cử tuyển :tạo điều kiện cho HS được
vào đại học cao đẳng nhiều hơn.

23
Tiếp tục bồi dưỡng , nâng cao trình độ cả đội ngũ CBQL hiện có , nhất là lớp
trẻ , người DT thiểu số ; tạo điều kiên cho việc cán bộ ở khu vực này tiếp cận nhanh
với tri thức mới . Vấn đề là phải đào tạo cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ hiện nay để
có thể quản lý tốt các dự án , các kế hoạch đã ban hành . Đào tạo cán bộ chính là chìa

khoá để nâng cao trình độ,nâng cao dân trí ở miền núi,biên giới,DT.
Có chính sách đặc biệt ưu đãi để thu hút cán bộ thuộc ngành GD , nhận công tác
tại vùng có đông đồng bào DT thiểu số . Những cán bộ này cần phải am hiểu văn hoá
các DT và cần biết cả tiếng của đồng bào thì hiệu quả công tác sẽ tốt hơn.
Bộ, Sở GDĐT cần tăng cường cơ quan bộ phận chuyên môn thống nhất về chỉ
đạo và quản lý về GD DT. Cần nghiên cứu,biên sọan, hệ thống lại các tài liệu đã được
sử dụng để bồi dưỡng cho GV người DT qua các năm nhằm bồi dưỡng chuyên môn
cho những năm sau .
7/ Đề xuất kiến nghị :
Bộ , Sở nên có công văn hướng dẫn cụ thể về chế độ chính sách ưu đãi cho GV
vùng DT, vùng núi và biên giới.Tiếp tục hỗ trợ SGK , tập , cặp HS , trang thiết bị
cho GV và HS trong chương trình, hỗ trợ kinh phí đào tạo và bồi dưỡng GV hàng
năm.Nên hình thành Vụ GDDT để chỉ đạo cho công tác dân tộc hướng tới PC
THCS.Cần có chỉ tiêu đào tạo sau đại học và ngoài nước dành cho người DT thiểu số,
trong đó có DT Khmer. Kèm theo chính sách ưu đãi đặc thù kể cả CBCC công tác
trong vùng DT.

24
Việc tổ chức học chương trình tiếng Khmer, tiếng pali và các lớp bổ túc văn
hoá cho các vị sư và con em đồng bào DT tại các chùa Khmer là một đặc thù về GD
trong vùng DT Khmer, cần được quan tâm chỉ đạo; thống nhất quản lý về mặt chuyên
môn, hổ trợ về GV , sách giáo khoa , bồi dưỡng nghiệp vụ và có chính sách lương
bổng cho GV, kể cả các vị sư đứng lớp.
Số lượng HS là người DT Khmer tốt nghiệp THCS,THPT ngày càng tăng.
Trong đó, chỉ có một ít được tuyển vào các trường đại học, cao đẳng và trung học
chuyên nghiệp, số còn lại khó tìm được việc làm, nếu có việc làm cũng là lao động
giản đơn, lao động phổ thông vì thiếu trình độ chuyên môn, không có tay nghề.Việc đi
xuất khẩu lao động cũng gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, còn một lực lượng đông đảo
các gia đình nghèo chỉ được học hết bậc tiểu học,THCS,không có điều kiện học
tiếp.Do HS nghỉ nhiều khi học xong bậc tiểu học và THCS.Vì vậy, việc tăng chỉ tiêu

cho con em đồng bào Khmer vào các trường DT nội trú,trường dạy nghề, đại học hiện
có và duy trì chính sách miễn học phí ở các cấp học, hỗ trợ chổ ở cho con em DT là
cần thiết.
Cho phép mở rộng địa bàn và tăng chỉ tiêu cử tuyển vào các trường cao
đẳng,dạy nghề,dự bị đại học,đối với con em đồng bào DT thiểu số ngoài xã thuộc
chương trình 135;tăng chỉ tiêu HS THPT DT nội trú cấp tỉnh,hình thành trường THCS
nội trú cấp huyện,khoa sư phạm song ngữ tại Đại học An giang.
Chính phủ nên tiếp tục tăng đầu tư cho GDDT thiểu số và miền núi phải tìm
giải pháp buộc con em các DT phải học để đạt trình độ phổ cập một cách có chất
lượng đích thực có trình độ. Đầu tư ở đây cần chú ý không chỉ đơn thuần là cơ sở vật

25
chất, mà phải là đào tạo con người, đào tạo nguồn nhân lực để đảm bảo tính lâu dài và
nhằm đáp ứng nhu cầu xoá đói giảm nghèo rất bức xúc hiện nay, trong điều kiện
không có đất sản xuất nông nghiệp để trang trãi cho hộ nghèo, việc chuyển dịch cơ
cấu ngành nghề trong DT là rất cần. Trong lúc nhu cầu lao động có tay nghề trong
ngoài khu vực kể cả xuất khẩu lao động ngày càng lớn; đề nghị chính phủ cho hình
thành một trường dạy nghề dành cho con em đồng bào DT thiểu số .
Để giải quyết những bất cập cần sự chỉ đạo quyết đoán sắc bén,phù hợp với
thực tiễn của ngành,cần đào tạo GV ở vùng sâu, vùng xa DT thiểu số có trình độ ngôn
ngữ DT, để dạy cho HS, có thế mới nâng cao CLGD vùng DT thiểu số. Một trong
những giải pháp cho CLGD vùng DT thiểu số không thể khác, trường sư phạm cần có
khoa đào tạo GV dạy tiếng Việt cho HSDT thiểu số một cách bài bản. GV tốt nghiệp
sư phạm dạy ở vùng sâu,vùng DT thiểu số kể cả CBCC các ngành rất cần được học
ngôn ngữ DT .
Các địa phương quan tâm hơn nữa trong việc quản lý và có kế hoạch cụ thể
trong việc tuyển dụng số sinh viên DT thiểu số đã tốt nghiệp ra trường

III/ Kết luận :
Có thể nói GDDT là nhân tố tích cực, là động lực thúc đẩy quá trình phát triển

GD vùng nông thôn, vùng sâu xa , biên giới , vùng núi và DT, một trong những giải
pháp góp phần nâng cao dân trí của huyện.

×