Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

DẠY TỐT THƠ LÃNG MẠN 1932– 1945 Ở KHỐI 11 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.46 KB, 17 trang )



DẠY TỐT THƠ LÃNG MẠN 1932– 1945
Ở KHỐI 11


I/. THựC TRạNG BAN ĐầU CủA VấN Đề :
+ Khi giảng dạy chương trình văn 11 phần văn học Việt nam đầu
thế kỉ XX đến Cách mạng tháng tám 1945, giáo viên phải dạy Thơ Mới. Thơ
Mới được dạy trong 6 tiết ( không kể 2 tiết dạy về tác giả Xuân Diệu)
+ Dạy Thơ Mới đôi lúc giáo viên không khỏi trăn trở. Trước hết
là vì đây là những bài thơ có thể gọi là những hạt ngọc trong kho tàng châu
ngọc thơ Việt Nam. Tiếp theo trăn trở là vì đã có biết bao bài nghiên cứu hay
với nhiều ý kiến mới mẻ nên phải dạy theo hướng nào để có thể chuyển tải cho
hết những cái hay, cái đẹp của các tác phẩm Thơ Mới đến với học sinh.
+ Làm sao để có một hướng khai thác, hướng dạy-học tốt nhất
trước tình hình sách tham khảo tràn lan như hiện nay là điều làm cho không ít
giáo viên suy nghĩ.



II/. ĐặT VấN Đề:
+ Những năm gần đây đổi mới phương pháp giảng dạy đã trở
thành một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho ngành giáo dục, cho mỗi giáo viên, phải
làm sao phát huy tính tích cực của học sinh để các em chủ động trong việc tìm
hiểu cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương.
+ Sáu bài thơ được giảng dạy ở khối 11 đều là những bài thơ
hay. Thậm chí có bài được xem là đỉnh cao của thơ trữ tình Việt Nam. Làm sao
có thể cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản nhất về bài thơ đồng thời
cũng giúp học sinh tự khám phá cái hay cái đẹp của bài thơ. Muốn vậy giáo
viên phải là người hướng dẫn gợi ý để học sinh tìm hiểu bài thơ theo hướng tốt


nhất với sự vận dụng phương pháp giảng dạy hiệu quả nhất.
+ Để thực hiện giáo viên phải có một phương pháp khai thác
chung đối với nhiều thi phẩm Thơ Mới và từng thi phẩm cụ thể.


III/. NỘI DUNG THỰC HIỆN:
 Những lưu ý chung khi dạy phần Thơ Mới:


Qua tham khảo một số ý kiến và qua thực tế giảng dạy của bản
thân, tôi thấy khi giảng dạy Thơ Mới ta thường gặp những trở ngại sau:
a/. Khó khăn mà giáo viên thường gặp khi dạy các tác
phẩm Thơ Mới là tính đa nghĩa. Tính đa nghĩa là một đặc trưng của thơ
nói chung và Thơ Mới nói riêng bởi đặc điểm thể loại và cấu trúc ngôn từ đặc
biệt của thơ . Ở thơ lãng mạn tính đa nghĩa được thể hiện rõ trên nhiều cấp độ
khác nhau.
– Ở cấp độ hình tượng: mỗi bài thơ do cách xây dựng hình
tượng riêng sẽ được hiểu và khai thác theo nhiều cách khác nhau.
+ Bài “ Tống biệt hành” (Thâm Tâm): về hình ảnh
người ra đi (ly khách) có người cho rằng đó chính là hình ảnh một trang nam
nhi ôm chí lớn ra đi mang đậm màu sắc lãng mạn. Nhiều người lại cho rằng đây
là một chiến sĩ cách mạng giã nhà lên chiến khu.
+ Bài “ Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) lại càng
phức tạp hơn. Có người chỉ khai thác bài thơ như một bức tranh đẹp về phong
cảnh và con người xứ Huế . Có người lại xuất phát từ mối tình Hàn Mặc Tử –
Hoàng Cúc để khai thác bài thơ như một tiếng lòng xót xa tuyệt vọng trước một
tình yêu đơn phương.


– Ở cấp độ hình ảnh, ngôn từ: Tình trạng phổ biến trong cảm

nhận thơ là nhiều hình ảnh, nhiều câu thơ lại có những cách hiểu khác nhau.
+ Bài “ Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) những hình
ảnh, từ ngữ: anh? Vườn ai? Mặt chữ điền? Thuyền ai? Khách đường xa? … rất
khó có thể xác định.
+ Bài “ Tống biệt hành” (Thâm Tâm): Sao đầy
hoàng hôn trong mắt ai? Ly khách? Con đường nhỏ?… cũng sẽ được hiểu theo
nhiều cách khác nhau.
b/. Do nhứng nét đặc biệt của thơ như vậy nên khi giảng dạy giáo
viên phải xuất phát từ đặc trưng thể loại và tính riêng biệt độc đáo của các bài
thơ, cùng với đặc điểm tiếp nhận của học sinh để có những biện pháp cụ thể
nhằm vừa phân tích tác phẩm một cách đúng hướng vừa phát huy tính năng
động tích cực học sinh. Muốn vậy giáo viên nên có những lưu ý sau:
– Khi dạy thơ lãng mạn cũng nên cố gắng trang bị thêm cho
học sinh những kiến thức cơ bản về đặc trưng của thể loại để các em hiểu được
nguyên tắc tổ chức của hình tượng và ngôn từ thơ.
– Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh những cách hiểu
khác nhau xung quanh bài thơ nhưng sau đó chỉ chọn một cách hiểu phù hợp
với trình độ nhận thức của học sinh để triển khai.


– Giáo viên thiết kế bài dạy theo hướng mở để gợi sự suy
luận của học sinh, phát huy tính độc lập sáng tạo trong tiếp nhận nhưng không
để học sinh thoát ly hình tượng.
c/. Khi phân tích Thơ Mới rất cần phải chú ý phân tích hoàn cảnh
ra đời của bài thơ. Bời vì tác phẩm nào cũng là sản phẩm của một hoàn cảnh
lịch sử xã hội nhất định. Hoàn cảnh này không tác động tới tác phẩm một cách
đơn giản và trực tiếp mà tác động tới nhà văn qua hoàn cảnh riêng, gắn liền với
cuộc đời, tư tưởng của nhà văn. Chính hoàn cảnh riêng này đã tạo nên một lăng
kính khiến ánh sáng của hoàn cảnh lịch sử lại chịu một độ khúc xạ nào đó trước
khi hiện lên trên tác phẩm.

Hoàn cảnh lịch sử xã hội, hoàn cảnh riêng của nhà văn cũng không tác
động thẳng tới sự ra đời của tác phẩm mà còn phải thông qua một hoàn cảnh cụ
thể trực tiếp tạo nên cảm hứng nghệ thuật để sáng tạo nên tác phẩm. Vì vậy khi
phân tích các bài thơ như “Tràng giang” của Huy Cận, “Đây thôn Vĩ Da” của
Hàn Mặc Tử và “Tống biệt hành” của Thâm Tâm ta cần chú ý đến hoàn cảnh
cảm hứng cụ thể đã khiến các bài thơ ra đời.

 Thực hiện cụ thể với dạy bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử:
Đễ làm rõ những điều đã nêu ở phần trên , người viết xin được
lấy vi dụ ở bài dạy “ Đây thôn vĩ Dạ” ( tiết 80 ) trong chương trình văn 11. Dù


ra đời cách đây gần 70 năm nhưng đến nay bài thơ vẫn mang nhiều lớp nghĩa
mà chúng ta chưa hiểu hết được. Đây là bài thơ hay nhưng khó dạy. Để đạt kết
quả giáo viên có thể thực hiện các bước sau:
a/. Bước 1:
– Khi bắt đầu dạy phần Thơ Mới, giáo viên nên tranh thủ
cung cấp cho học sinh những kiến thức chung về đặc điểm thể loại của thơ và
cấu trúc ngôn từ trong thơ làm cơ sở để các em hiểu các thi phẩm thơ sẽ học .
– Giáo viên phải cố gắng tìm hiểu thật kĩ về tác giả Hàn
Mặc Tử và bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” ( Từ SGK, tài liệu hướng dẫn giảng dạy
và các tài liệu đáng tin cậy…) để lựa chọn những chi tiết liên quan đến bài dạy
làm cơ sở định hướng cho việc soạn giáo án và giảng dạy ở lớp.
+ Về tác giả Hàn Mặc Tử cần chú ý những điểm
sau:
· Là một trong những nhà thơ lớn của phong
trào Thơ Mới.
· Có học ở Huế khoảng hai năm ở trường
Pèlerin Huế (1928 – 1930) .
· Năm 1936 ông mắc bệnh phong.



· Bên cạnh những vần thơ điên lọan, Hàn Mặc
Tử nhiều khi sáng tạo những bài thơ hay với những hình ảnh tuyệt mỹ và hồn
nhiên trong trẻo lạ thường.
· Tìm hiểu thế giới trữ tình trong bài thơ
không thể không tìm hiểu quan niệm đặc biệt của Hàn Mặc Tử đối với cuộc
đời. Nghịch lý thay, chặng đường thơ của Hàn Mặc Tử bắt đầu rực rở nhất lại
là lúc nhà thơ mắc bệnh nan y. Từ đó nhà thơ mặc cảm xa lánh mọi người, cách
ly với thế giới bên ngoài. Nhưng một người thơ như Hàn Mặc Tử dù cách ly
mà lại yêu cuộc sống đến đắm đuối. Nhưng càng đắm đuối thì càng vô vọng,
chính vì vậy, thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử đã hình thành hai miền
không gian trái ngược nhau đó là thế giới riêng của thi sĩ và thế giới của cuộc
đời.
+ Về bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” cũng cần chú ý:
· Thôn Vĩ Dạ…. (SGK11)
· Mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với
Hoàng Thị Kim Cúc … (SGK 11)
· Chi tiết về bức bưu ảnh của Hoàng Cúc gửi
cho Hàn Mặc Tử… (Tài liệu hướng dẫn giảng dạy 11)


· Cũng cần hiểu thêm Hoàng Cúc khi ấy là
một thiếu nữ mới lớn sống ở Qui nhơn là con nhà quan, có học, thùy mị nết na.
Nhà cô chung lối với Hàn Mặc Tử ( Lúc ấy đang làm việc ở sở đạc điền). Giữa
hai người chắc cũng đã có những mối giao tiếp của những người ở gần nhà
nhau. Nhà thơ cũng đã viết những vần thơ về Hoàng Cúc trong tập “Gái quê”.
Đây là tình cảm đơn phương vô vọng từ phía Hàn Mặc Tử. Khoảng năm 1935
sau khi Hàn Mặc Tử từ giã Qui Nhơn vào Sài Gòn thì Hoàng Cúc cũng chuyển
từ Qui Nhơn ra Huế sống ở thôn Vĩ Dạ. Cuối năm 1936, lúc chớm có hiên

tượng sức khỏe không bình thường tuy chưa khẳng định là bệnh phong. Hàn
Mặc Tử từ Sài Gòn trở lại Qui Nhơn thì không gặp Hoàng Cúc . Khoảng năm
1937 nghe tin Hàn Mắc Tử mắc bệnh phong, Hoàng Cúc đã gữi vào Qui Nhơn
cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu ảnh phong cảnh có kèm theo lời thăm hỏi sức
khỏe và trách Hàn Mặc Tử sau lâu nay không về thôn Vĩ Dạ? Không thăm lại
đất cũ người xưa? ( Hàn Mặc Tử đã từng học ở Huế)
Sau khi nhận được dòng tình cảm chân thành quí giá của người
thiếu nữ vốn có nếp sống kín đáo ấy, Hàn Mặc Tử xúc động mạnh và bài thơ
có thể ra đời ngay năm ấy (1937). Bài thơ được gởi ra Hoàng Cúc ở Huế. Thời
gian lặng lẽ trôi cô rồi bà Hoàng Cúc đã giữ kĩ vật ấy cho đến lúc từ trần ( có
tài liệu cho rằng sau khi về Huế Hoàng Cúc từ chối mọi lời cầu hôn , sống và
hoạt động về phật giáo đến khi mất).
Biết được nguồn gốc, hoàn cảnh ra đời của bài thơ là điều rất
quan trọng có thể giúp giáo viên hiểu được ý tứ sâu xa của bài thơ.


· Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ khi đã biết
mình mắc bệnh hiểm nghèo. Ý thức về sự sống đang mất dần đã nung nấu khát
vọng sống cháy bỏng trong tác gia, nên khi khai thác bài thơ cũng cần chú ý
đến khát vọng sống của tác giả thông qua những hình ảnh đẹp, hài hòa, trong
trẻo, nên thơ của cảnh vật trong bài thơ.
· Khi phân tích khổ 1 cũng cần chú ý: trong
thơ trữ tình thế giới khách quan sẽ tồn tại trong tâm cảm của tác giả. Vì vậy khi
tìm hiểu cũng không nên nhìn thôn Vĩ được miêu tả tái hiện trong bài thơ như
một thôn Vĩ địa lý xã hội, một thôn Vĩ khách quan như nóvẫn tồn tại ở ngoài
đời mà là một thôn Vĩ tồn tại bên trong chủ thể trữ tình, một thôn Vĩ đã được
khúc xạ qua một tâm hồn lãng
mạn đang khắc khoải tuyệt vọng buồn đau.
· Hình ảnh thơ “ lá trúc che nghiêng mặt chữ
điền” có thể xuất phát từ sự thực nhưng cũng có thể hiểu là một nét vẽ tạo hình

khỏe khoắn bên cạnh sự mềm mại tươi xanh của thiên nhiên chứ không phải là
một gương mặt cá thể nào. Ý nghĩa mà tác giả muốn mang lại từ chi tiết này là
sự khỏe khoắn của hồn người, sự cao đẹp của tình người xa xôi cách trở.
b/. Bước 2:
– Sau khi đã tìm hiểu kĩ những chi tiết của tác phẩm kết
hợp với những yêu cầu trong tài liệu hướng dẫn giảng dạy và chọn cho mình


một hướng tốt nhất phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh từng lớp, giáo
viên tiến hành soạn giáo án đồng thời cũng định hướng những phương pháp sẽ
được vận dụng để khai thác bài thơ.
– Giáo viên nên dựa vào bài giảng, thiết kế hệ thống câu
hỏi để dẩn dắt học sinh theo định hướng bài dạy của mình. Ngoài câu hỏi chính
nên có những câu hỏi phụ để hướng dẫn học sinh đi vào vấn đề.
– Qua thực tế giảng dạy ta thấy không có phương
pháp nào là tối ưu và không có bài dạy nào chỉ sử dụng một phương pháp. Các
phương pháp sẽ hỗ trợ gắn kết nhau để giúp giáo viên hướng học sinh chủ động
tìm kiến thức. Da dạng hóa phương pháp giảng dạy trong một tác phẩm là biện
pháp tốt nhất, hiệu quả nhất và sinh động nhất, gây hứng thú học tập cho học
sinh. Vì thế giáo viên cũng nên chuẩn bị trước đồ dùng dạy học hoặc tư liệu
minh họa….cần cho bài giảng.
c/. Bước 3: Thực hiện giảng dạy trên lớp với sự phối hợp của
nhiều phương pháp.
 Tùy theo sáng tạo của từng giáo viên và tùy tình hình lớp, giáo viên
có thể phối hợp thực hiện các phương pháp sau:
– Nêu vấn đề gợi suy luận trong học sinh và định
hướng giảng giải vấn đề.


Ví dụ:

Có nhiều cách khác nhau xoay quanh hướng tìm hiểu bài thơ. Có
thể hiểu bài thơ đã viết về cảnh và người xứ Huế, cũng có thể hiểu bài thơ đã
thể hiện tình yêu thầm kín và sâu nặng của Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc – người
con gái thôn Vĩ, gắn với bức bưu ảnh, và cũng không thể phủ nhận bài thơ đã
thể hiện một tình yêu tuyệt vọng đối với cuộc đời của hồn thơ Hàn Mặc Tử.
Khi bám vào văn bản của bài thơ gắn với hoàn cảnh cảm hứng cụ thể khiến bài
thơ ra đời, ta có thể thấy được ngọn nguồn cảm xúc chính của bài thơ xuất phát
từ một tình yêu tuyệt vọng đối với cuộc sống của hồn thơ Hàn Mặc Tử khi biết
mình mắc bệnh.
Cuộc sống trong thơ Hàn Mặc Tử hiện lên ở cảnh sắc thiên nhiên, con
người và tình yêu lứa đôi. Khi biết mình mắc bệnh hiểm nghèo thì hơn lúc nào
hết Hàn Mặc Tử lại rất yêu cuộc sống. Như vậy niềm đau tuyệt vọng trước
cuộc sống chính là biểu hiện của tình yêu cuộc sống đến độ đam mê trong Hàn
Mặc Tử. Chính vì vậy nhà thơ cảm thấy cuộc sống và cái đẹp đang lùi dần và
mất đi. Hiểu được tâm trạng này khi khai thác bài thơ là điều rất quan trọng.
– Đặt câu hỏi để gợi mở dẫn dắt vấn đề.
Ví dụ: Khi phân tích khổ 1 của bài thơ, có thể đặt những câu hỏi để
gợi mở dẫn dắt vấn đề:


Câu hỏi
+ Dựa vào văn bản, em hãy cho
biết hình ảnh nổi bật hiện lên trong
khổ thơ?
+ Câu mở đầu khổ thơ có gì đặc
biệt ? An chứa tình cảm gì của tác giả?


+ Cảnh thôn vĩ trong khổ thơ hiện
lên như thế nào?

+ Hình ảnh nổi bật nào của Thôn
Vĩ được tác giả miêu tả .
+ Cách miêu tả cảnh vật có gì đặc
biệt?
(Giáo viên cho học sinh xem bức tranh
thôn Vĩ)

Ý cần khai thác
+ … là bức tranh thiên nhiên về
cảnh vật và con người thôn Vĩ
+ Câu thơ là một câu hỏi giống
như một lời trách, lời mời mọc nhưng
thực ra nhà thơ tự hỏi mình vừa như
thầm trách chính mình. Thể hiện niềm
khao khát muốn được về thăm thôn
Vĩ.
+ Cảnh thôn Vĩ hiện lên rất đẹp,
trong trẻo, tinh khiết và tươi sáng.
+ …vườn cây, hàng cau.
+ …tinh tế, cách dùng từ gợi hình,
gợi cảm
. Nắng hàng cau… : vẻ đẹp tinh
tế của vườn cau dưới ánh nắng buổi
sáng tinh khiết.



+ Qua cách miêu tả, em thấy tình
cảm của Hàn Mặc Tử đối với thôn Vĩ
Dạ thế nào?

+ Hàn Mặc Tử quê ở Qui Nhơn sao
lại viết rất hay về Huế?

+ Hình ảnh gì hiện lên ở câu cuối?
(có nhiều cách trả lời, giáo viên nên
chọn ý theo hướng khai thác của
mình)
+ Theo em “mặt chữ điền” là mặt
của ai?
(Giáo viên cho học sinh tranh luận và
chọn ý theo hướng khai thác của
mình)
. Mướt – xanh như ngọc: vẽ
đẹp ngời bóng nõn nà của vườn cây.
+ …là người rất yêu và gắn bó với
Huế.

+ Có học ở Huế hai năm, ở bài thơ
Huế hiện lên trong hoài niệm của tác
giả.
+ Hình ảnh con người xứ Huế thấp
thoáng sau rặng tre trúc.


+… là hình ảnh con người xứ Huế
đôn hậu hiền hòa qua hoài niệm của
tác giả –> nhằm khẳng định sự cao
đẹp của tình người.



+ Em hãy nhận xét về khổ thơ? + Qua tâm hồn đau buồn tuyệt vọng
của tác giả khi ý thức được sự sống
đang mất dần, thôn Vĩ Dạ hiện lên như
một bức tranh đẹp tươi sáng, nhiều
màu sắc, gợi cảm và gần gũi. Đấy
chính là tình cảm của một người yêu
và gắn bó với Huế. Qua đó người đọc
cảm nhận được khát vọng sống mảnh
liệt của hồn thơ Hàn Mặc Tử.
– Cho học sinh xem ảnh Hàn Mặc Tử.
– Cho học sinh đọc diễn cảm, nghe băng ngâm bài
thơ (hoặc giáo viên hay học sinh ngâm bài thơ)
– Đọc một vài ý kiến hoặc đánh giá hay về Hàn Mặc Tử ,
đọc một đọan bình hay về câu thơ ý thơ( hoặc giáo viên xen những ý đó vào lời
giảng của rmình ).
– Gia tăng những câu hỏi mở rộng suy nghĩ của học
sinh.


Ví dụ: . “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” theo em, ở đây là ở
đâu?
. Có người cho rằng bài thơ là tiếng lòng tuyệt vọng
của Hàn Mặc Tử trước một tình yêu đơn phương, em có đồng ý như vậy
không?
……
 Ở khâu củng cố dặn dò, cần nhắc học sinh về đọc thêm một sốbài
phân tích, bài bình giảng về bài thơ và có ghi chép cẩn thận ( giáo viên phải
kiểm tra tình hình đọc của các em).
 Dù phải sử dụng nhiều phương pháp nhưng nếu sắp xếp khoa học
giáo viên sẽ không tốn nhiều thời gian. Và cũng tùy điều kiện hoàn cảnh cũng

như trình độ của học sinh từng lớp mà giáo viên có thể lựa chọn thực hiện chứ
không phải thực hiện hết các phương pháp đã nêu trên.
 Như đã nêu ở tiêu đề, phần này người viết chỉ muốn đưa ra những
nguyên tắc chung khi khai thác phần Thơ Mới và nêu một ví dụ cụ thể để
chứng minh chứ không phải thiết kế bài dạy “Đây thôn Vĩ Dạ” một cách hoàn
chỉnh.
IV/. KếT QUả :


- Giáo viên sẽ có một phương pháp tốt khi giảng dạy Thơ Mới. Học sinh
sẽ có định hướng khi học và tìm hiểu Thơ Mới trước tình trạng sách
tham khảo tràn lan như hiện nay.
- Thực hiện được đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy được tính tích
cực của học sinh.
- Giúp học sinh phát hiện và tìm hiểu vẻ đẹp của bài thơ nói trên và Thơ
Mới nói chung.
- Tạo được một tiết học vui, sinh động và đậm chất văn chương.
- Làm phong phú thêm hình thức giảng dạy, gợi hứng thú học tập bộ
môn cho học sinh.
V/. BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
- Phải sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy đối với môt bài thơ hay
nhưng không dể hiểu nên giáo viên cần chú ý đến việc phân bố thời gian
hợp lý .
- Các phương pháp giảng dạy phải kết hợp đồng bộ, hệ thống và khoa học
.


- Cần chú ý khâu soạn bài định hướng giảng dạy và thiết kế hệ thống các
câu hỏi .
- Tùy tình hình lớp mà lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy thích

hợp.
- Giáo viên phải có hướng chuẩn bị trước về tranh ảnh và chọn học sinh
có giọng ngâm tốt.

xXx

×