Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Thơ lãng mạn Trung Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.5 KB, 10 trang )

Thơ lãng mạn Trung Hoa - Từ Khuất Nguyên đến Lý Bạch và Lý Hạ
ThS. Lê Từ Hiển
Đại học Quy Nhơn
1. Mở đầu Đặc tính văn học Trung Quốc, Lâm Ngữ Đường nhận xét: “Văn học Trung
Quốc gồm hai loại khác nhau. Một loại có tính chất giáo huấn và một loại có vẻ hoa mỹ khiến
người ta ưa thích, loại văn trên là công cụ truyền đạt những chân lý, tức là lối văn “Văn dĩ tải
đạo”, loại sau phát xuất do tâm tính tức là “Văn trữ tình”. Hai loại văn này khác nhau rất rõ.
Loại trên thuộc về khách quan, thuyết minh các vấn đề, loại sau thuộc về chủ quan, tỏ tình
cảm riêng tư”
(1)
.
Với cái nhìn phương Tây, Will Durant nhận xét về thơ cổ điển Trung Hoa: “Nó không
ưa tỉ dụ, so sánh, nói bóng bẩy mà chỉ gợi cho ta về đề tài thôi. Nó tránh sự phóng đại, những
cảm xúc nồng nàn; người nào có óc già dặn cũng thích giọng kín đáo của nó, thích những ý
tại ngôn ngoại của nó, hiếm thấy giọng lãng mạn lắm…”
(2)
.
Trong văn học phương Đông, thơ ca lãng mạn chưa bao giờ hình thành một trào lưu
riêng với một hệ thống quan niệm sáng tác đầy đủ. Nhưng tính lãng mạn gần với chất trữ tình
của thơ (thuật ngữ thơ trữ tình có khi được dùng để chỉ thơ lãng mạn), lãng mạn vẫn là một
dòng chảy ẩn sâu nuôi xanh hồn thơ muôn thuở. Dưới lớp đất rắn chắc của chủ nghĩa cổ điển,
nhiều khi dòng chảy ấy quá dào dạt mà trào tuôn mang dạng thức cầu vồng lấp lánh. Khuất
Nguyên (340-278 trước CN), Lý Bạch (701-762), Lý Hạ (790-816) là những lần dòng chảy
ấy hiển lộ trên mặt đất. Khuất Nguyên là sự khởi đầu vĩ đại mà “những thi nhân đời sau có cá
tính và xúc cảm mạnh mẽ… đều nhận được sự gợi mở từ Khuất Nguyên”
(3)
. Lý Bạch hướng
về Khuất Nguyên với những lời ca tụng tót vời “Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt”, Lý
Hạ thì “Sở từ đeo sau khuỷu, Đau lòng học Sở ngâm…”, “Người tài đời Đường đều theo
Kinh Thi mà chỉ riêng có Lý Bạch, Lý Hạ theo Ly tao” (Diêu Văn Tiếp). Tuy vậy, tùy theo
dấu ấn thời đại, tài năng, cá tính… mà chiếc bóng của Khuất Nguyên in vào thơ mỗi người


không giống nhau.
2. Chủ nghĩa lãng mạn phương Tây hình thành trên nền sản xuất tư bản với ý thức dân
chủ. Một điều tương tự như vậy không xuất hiện ở phương Đông nói chung và Trung Hoa
nói riêng. Chủ nghĩa cổ điển ngự trị ở đây hàng ngàn năm với hệ thống điển chế, quy phạm
chặt chẽ gắn liền với ý thức hệ Nho giáo. Quan niệm Nho gia “khắc kỷ phục lễ” không chỉ
chi phối cách hành xử trong xã hội mà còn để vết di trong thơ. Không phải thơ ca không có
cái tôi – “làm thơ không thể không có cái tôi” (Viên Mai) – mà cái tôi bị chế ước theo khuôn
mẫu không tiện trực tiếp phô bày, chỉ lặng lẽ ẩn mình trong cách nhìn nhận, ứng xử, thái độ…
của nhà thơ đối với thế giới. Chính vì điều này, một thời gian dài thơ cổ điển đã bị ngộ nhận
là không có cái tôi.
Nếu Nho giáo chủ yếu góp phần hình thành cái tôi xã hội thì Đạo giáo tạo điều kiện rộng
rãi hơn cho cái tôi cá nhân cá tính phát triển. Quan niệm thuận theo tự nhiên, chủ trương giải
phóng con người khỏi những ràng buộc để đạt đến tự do như trời đất – Đạo giáo phù hợp cho
cái tôi cá nhân. Góp phần làm nên cái tôi cá nhân trong thơ còn phải kể đến huyền thoại tôn
giáo cổ sơ .
Từ Kinh Thi đến Ly tao, thơ ca Trung Hoa đã có bước tiến dài từ “dàn đồng ca” đến
tiếng nói trữ tình cá nhân đầu tiên, từ tiếng thơ có sự “khắc chế”, “ôn hòa” đến chỗ “giải
phóng về mặt tình cảm”. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có lý do Kinh Thi nằm trong vùng
văn hóa phương Bắc chịu ảnh hưởng của Nho gia, trong khi Ly tao thuộc về vùng văn hóa
phương Nam chịu ảnh hưởng của Lão giáo và tôn giáo dân gian. “Thế kỷ thứ IV trước CN,
nước Sở thời Chiến Quốc với nền tảng văn hóa độc đáo của mình, cộng thêm ảnh hưởng của
văn hóa phương Bắc, đã hun đúc cho ra đời nhà thơ vĩ đại Khuất Nguyên”
(4)
. Tinh thần lãng
mạn chủ nghĩa của thần thoại đã được Khuất Nguyên tiếp thu, đặt nền tảng cho những sáng
tác văn học lãng mạn sau này. Đỉnh cao văn hóa Thịnh Đường với sự lên ngôi của cả Nho –
Phật – Đạo đã hình thành nên thi tài Lý Bạch, trong đó vai trò nổi bật vẫn thuộc về Đạo giáo.
Lí Bạch cũng từ phương Bắc đến, sông nước Giang Nam xinh đẹp đã tạo nên hiệu ứng thẩm
mỹ “khác lạ” với ông. Từ những đóa phù dung của Khuất Nguyên – đại biểu của nền văn hóa
đất Sở, người khai sáng truyền thống tỷ hứng “chim đẹp hoa thơm ví cho sự trung trinh”

(Thiện điểu hoa hương dĩ tỷ trung trinh) – đến những cô gái hái sen xinh tươi, hoạt bát, e
thẹn, dần trọn vẹn đáng yêu trong Thái liên khúc của Thanh Liên cư sĩ là cả một quá trình mà
Du Hương Thuận gọi là sự “tự chuộc mình” (Hái sen từ dân ca – cung đình hóa – lấy lại bản
sắc vốn có mà bay lên sắc thái mới)
(5)
. Qua thời cực thịnh, hồn thơ Lý Hạ lại tìm về nương
nhờ mảnh đất thần thoại hồn nhiên muôn đời mang tinh thần thơ ca.
Dễ dàng nhận ra thế giới thần thoại buổi đầu ngự trị trong thơ Khuất Nguyên, đậm nhạt
trong thơ Lý Bạch và trở về đậm đặc trong thơ Lý Hạ. Thần thoại gặp gỡ thơ ca trong tính trẻ
thơ – nếu tư duy thần thoại gần với tư duy trẻ thơ thì mỗi nhà thơ lại có một đứa trẻ (anh nhi)
trong tâm hồn. Tư duy thần thoại mang tính trực giác – hình tượng – tích hợp và đó cũng là
đặc điểm của thơ không thể chia cắt Ai đi phân chất một mùi hương (Xuân Diệu). Đặc biệt,
trí tưởng tượng bay bổng – “ảo tưởng thần thoại” (Enghen) rất gần với tính chất thơ lãng mạn
muốn xây dựng một thế giới thứ hai – song song tồn tại bên ngoài đời thực “Khi thi hứng của
thi nhân sôi sục thì không thể dung nạp được những hình tượng tầm thường; thi nhân sẽ cho
trí tưởng tượng và ảo giác của mình bay bổng lên trời xanh”
(6)
.
2.1. Cuộc hành trình tìm về cái tôi
Khác với văn học hiện thực lấy việc phản ánh, tái hiện cuộc sống làm trung tâm, nơi
xuất phát và đích đến của văn học lãng mạn lại là thế giới nội tâm của con người. Thơ – với
tư cách chủ yếu là thể loại trữ tình – có khả năng phô diễn phong phú thế giới nội tâm – vì
vậy mà gần gũi với tính chất lãng mạn. Tuy vậy, ghìm mình theo chế ước của chủ nghĩa cổ
điển, cái tôi trữ tình ít khi được thể hiện trực tiếp.
Với thơ Khuất Nguyên, lần đầu tiên người ta gặp một nhân vật trữ tình với xuất thân, số
phận, tính cách,… rõ nét. Người đọc thấy một bức tranh hiện thực nước Sở, nhưng tất cả
được khúc xạ qua cái nhìn mang đậm dấu ấn chủ quan và thấm đẫm cảm xúc của nhân vật trữ
tình. Ly tao như một khúc nhạc đi vào lòng người bằng tất cả những cung bậc phẫn nộ, ai
oán, bi thương… tha thiết trong từng câu từng chữ. Hình tượng nhân vật hiện lên nổi bật trên
cơ sở đối lập với xã hội, thể hiện một ý thức mạnh mẽ về bản thân vượt ra khỏi mực thước

Nho gia. Nhà thơ tự xưng, miêu tả về bản thân bằng những hình ảnh đẹp đẽ, thơm ngát, tận
thiện tận mĩ từ ngoài vào trong. Sự táo bạo này của Khuất Nguyên khác xa với tính chất trung
dung, ôn hòa của người quân tử theo tiêu chuẩn thẩm mĩ Nho giáo, khiến không ít nhà Nho
khó chịu cho rằng Khuất Nguyên “lộ tài dương kỷ”, làm nổi bật tài năng để tự đề cao mình.
Tuy không ngần ngại phô bày bản thân, nhưng cái tôi cá thể cá tính của Khuất Nguyên
vẫn tồn tại song trùng với cái tôi xã hội. Ông giữ vững và trau dồi phẩm chất, cá tính với một
niềm tin vững vàng ở bản thân mình, nhưng vẫn trên tiêu chí của cái đẹp theo quy ước thẩm
mĩ của cộng đồng. Ông đối lập với xã hội nhưng vẫn muốn thay đổi xã hội theo chiều tốt đẹp,
được cống hiến, thừa nhận. Chính vì lý do này, khi xã hội quay lưng với Khuất Nguyên thì
ông không thể quay về thanh thản độc thiện kỳ thân, mà rơi vào bi kịch không lối thoát.
Con người tồn tại trong tự nhiên và trong xã hội – vì vậy mà không ít thì nhiều bị chế
ước bởi những khuôn khổ, giới hạn – điều khác biệt là cách ứng xử của mỗi người trước
những khuôn khổ, giới hạn ấy. Về phương diện này, con người trong thơ ca trung đại thường
có thái độ chấp nhận và hòa nhập với một tâm hồn an nhiên và khi đã chấp nhận, hầu như
không có sự quẫy đạp, cái tôi cá nhân cá tính ít có dịp bộc lộ. Phải đến Lý Bạch, cái tôi cá thể
cá tính mới được khẳng định một cách dứt khoát. Với một cá tính mạnh mẽ như Lý Bạch,
tầm vóc cao khoát của ông lúc nào cũng muốn vượt lên, vươn lên xô lệch những giới hạn kia.
Lý Bạch tự tạo cho mình một tiêu chuẩn thẩm mĩ riêng đầy hồn nhiên. Với xã hội, ông không
quan tâm mấy những quy tắc ứng xử, mực thước “khép mình theo lễ” của chế độ phong kiến.
Người quân tử hình dong chỉnh tề thì ông say khật khưỡng lệch cả mũ áo và khi thích thì vứt
bỏ, trần truồng như đứa trẻ. Dù bạn là thái thú nhưng khi uống say rồi thì cởi áo đắp cho tôi –
đùi anh tôi làm gối… Đạt được ý nguyện thì mạnh mẽ nhập cuộc, không thì quay về với
chính mình. Sức sống rào rạt của một cá tính trẻ trung khiến Lý Bạch muốn vượt lên khỏi giới
hạn không – thời gian của một kiếp người. Vì vậy mà chiều kích thế giới thơ ông thường quá
ngưỡng, vượt ngưỡng, thời gian mang tính chủ quan đậm nét. Cái tôi của Lý Bạch có thể nói
là đã được giải phóng mà đạt đến tự do đích thực, làm nên tầm vóc thơ ca Lý Bạch, ngàn năm
chỉ có riêng ông. “Thiên tải độc bộ, duy công nhất nhân” (Lý Dương Băng).
Lý Hạ lại khẳng định cái tôi cá nhân theo một hướng mới – cái tôi sáng tạo. Tìm về tận
cùng bản thể, giải phóng cá nhân cũng là giải phóng năng lực sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi con
người. Về phương diện này, Lý Hạ đã có đóng góp quan trọng trên con đường phát triển của

thơ cổ Trung Hoa. Có thể nói, chưa ở đâu, vai trò của nhà thơ – người sáng tạo lại được đề
cao đến vậy:
Điện tiền tác phú thanh ma không,
Bút bổ tạo hóa thiên vô công.
(Trước nhà làm thơ thanh âm chạm vào bầu trời
Ngòi bút bổ sung chỗ khiếm khuyết của tạo hóa
không tốn chút công sức – Cao hiên quá)
Trong cái nhìn của Lý Hạ, vai trò sáng tạo của nhà thơ cũng giống như một “ông trời
con”. Và cũng chỉ nhà thơ mới lắng nghe được những lời âm thầm sâu thẳm của tạo vật:
Phi quân ngâm nhạc phủ,
Thùy thức oán thu thâm.
(Nếu chẳng là anh ngâm nhạc phủ,
Ai biết mùa thu nỗi oán sâu – Ba Đồng đáp)
Sáng tạo cái lạ ở Thi Quỷ được xem như một dấu ấn đột biến trong tiến trình phát triển
văn học Trung Quốc. Hình tượng, ý cảnh, phương pháp so sánh trong thơ ca của Lý Hạ
không đi con đường người xưa đã đi mà ông xây dựng cho mình một phong cách riêng độc
đáo, mở ra những chân trời mới cho những sáng tác theo tinh thần chủ nghĩa lãng mạn, thê
lương diễm lệ. Tô Tiểu Tiểu mộ và Mộng thiên là những tác phẩm thể hiện rõ nét nhất cho
phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Thu về bản ngã, lấy tâm hồn làm điểm quy chiếu ngoại vật, nên thơ Khuất Nguyên – Lý
Bạch – Lý Hạ đều mang nặng tâm tình cô độc. Khuất Nguyên tự ý thức rằng loài chim cao
quý “vốn xưa nay là giống không đàn”, Lý Bạch đơn độc ngàn năm bị người đời ghét “ai
cũng muốn giết” (Đỗ Phủ), còn Lý Hạ đã mang thân phận cô đơn trong sinh mệnh Thi Quỷ.
Lý Bạch kế thừa được khát vọng mạnh mẽ của Khuất Nguyên, trong khi Lý Hạ nghiêng về
phần tối, trầm uất, cô độc của tác giả Ly tao. Nằm trong loại hình thơ ca cổ điển phương
Đông với sự chế ước của cái ta siêu ngã nhưng dòng mạch ngầm lãng mạn ấy vẫn tạo nên ba
đỉnh sóng của cảm xúc, tâm trạng độc đáo phi phàm: một Khuất Nguyên “ngã độc tỉnh” của
kẻ “Cất mình khoảng trời mây rộng rãi”… một Lý Bạch “Độc tọa Kính Đình” của “Kình ngư
nằm vắt ngang biển”, của “đại bàng gãy cánh tầng không”; một Lý Hạ “Đề điểu bị đàn quy”
(Con chim bị đạn cất tiếng kêu khi quay về) lặng lẽ “khổ ngâm”… Cuộc đời, thời đại, cá tính

khác nhau nên sắc thái cái tôi cũng khác. Nhưng cả ba đều có vẻ bề ngoài khoáng đạt “đạt tắc
kiêm tế thiên hạ, cùng tắc độc thiện kỳ thân” (đạt thì cứu thiên hạ, cùng thì giữ thiện một
mình) của cái tôi “lội ngược” trên mặt đất bất như ý vọng tiếng thở dài lên trời xanh của kiếp
người. Đó là khát vọng xanh tìm về lại mình, nhận ra mình là ai trong thế giới.
2.2. “Tìm cái phi thường, cái ước mơ”
Khuất Nguyên – Lý Bạch – Lý Hạ đều kiến tạo một thế giới thơ của riêng mình. Khát
vọng muôn đời của người nghệ sĩ là đi tìm cái đẹp. “Cái tầm thường là cái chết của nghệ
thuật”, người thơ lãng mạn đi ra ngoài sự thực mà tìm kiếm cái đẹp lý tưởng, hướng đến cái
tuyệt đích, không cùng.
2.2.1. Ly tao – thế giới của thiện mĩ (cái đẹp hoàn hảo)
Cái đẹp – theo quan niệm của Khuất Nguyên – phải là cái đẹp lý tưởng, tuyệt đối, hoàn
toàn, trọn vẹn (thiện mĩ) và ông xây dựng thế giới thơ của mình theo quan niệm ấy. Trong thế
giới ấy, nền chính trị cũng phải được tạo ra trên tiêu chí cái đẹp (mỹ chính) với vua sáng, tôi
hiền, con người biết trau chuốt, hoàn thiện mình trọn vẹn từ thể xác đến tâm hồn. Lối vào Ly
tao tràn ngập các loài hoa thơm cỏ lạ như là một biểu trưng cho cái đẹp toàn thiện toàn mĩ ấy.
Dòng mạch cảm hứng quyết không bỏ chính theo tà, bỏ trong theo đục… cũng được thể hiện
theo diễn biến tâm trạng của “người đẹp” đi tìm “bạn lòng”. Vì mang đậm chất lý tưởng nên
cái đẹp của Ly tao nghiêng về tinh thần, ở đó người ta trồng hoa, chăm hoa, mặc hoa, và thức
ăn cũng là tinh túy của các loài hoa cỏ Ăn hoa rụng bên nhành thu cúc – Uống sương sa dưới
gốc mộc lan, Hoa quỳnh bẻ lấy phòng khi – Nhành thì làm bánh, cánh thì làm cơm… Chính
vì đòi hỏi cao với quan niệm cái đẹp lý tưởng như vậy nên va đập với hiện thực là điều tất
yếu. Khuất Nguyên không thể xây dựng hiện thực theo lý tưởng của ông về cái đẹp, cũng
không thể từ bỏ lý tưởng của mình, vì vậy mà rơi vào bi kịch. Ly tao là đóa hoa kết tinh trữ
tình lãng mạn trên nền tảng hiện thực của thời đại “trăm hoa đua nở” hào hùng mà bi kịch
thông qua tiếng lòng của một cái tôi cô độc nên xanh mãi trên dòng Tương giang.
2.2.2. Thơ Lý Bạch – thế giới của kỳ mĩ (vẻ đẹp lạ lùng)
Theo đuổi cái đẹp cũng là thiên chân của thi tiên Lý Bạch. Cá tính mạnh mẽ được phát
huy nhờ thời đại cực thịnh, Lý Bạch không bằng lòng với cái đẹp bình thường. Nhiều nhà
nghiên cứu nhận ra tính chất kỳ của thơ Lý Bạch. Trong thơ của mình, Lý Bạch kiến tạo nên
một thế giới của những vẻ đẹp phi thường, lạ lùng – vẻ đẹp kỳ mĩ. Tầm vóc cao khoát của

người thơ “thiên tải độc bộ” giống như cái vươn vai của vị thần trong thần thoại, phút chốc xô
lệch những khuôn khổ chật hẹp để tìm về cái cao rộng của bầu trời. Cái đẹp trong thơ ông
thường đi về hai thái cực. Một cực tìm về những cái vô cùng to lớn, dữ dội, hào hùng “Cảnh
dữ dội, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ”. Núi phải vô cùng cao giữa trời xanh nở đóa sen
vàng, sông phải chảy từ trời thiên thượng lai, thác phải tuột thẳng từ trên mây xuống lạc cửu
thiên… Ngay cả chiều kích của nỗi sầu trong thơ ông cũng lạ Tóc bạc ba nghìn trượng – Vì
sầu nên hóa dài. Ở thái cực kia là cái đẹp tuyệt vời trong sáng, tinh tế của “Nét mong manh,
thấp thoáng cánh hoa bay”. Với ngòi bút lấp lánh, nhà thơ vẽ cảnh cá trắng nhảy tung rong,
vượn uống trăng dưới nước, hay mặt nước xanh biếc cộng hưởng vầng trăng thu cùng
sáng… Đôi mắt đầy mộng của người thơ có năng lực xuyên thấu lớp vỏ bình thường của sự
vật mà cảm ngộ bản chất kỳ ảo được giấu kỹ bên trong. Với năng lực phi thường, tự nhiên
không tốn chút công sức, Lý Bạch đã dựng nên một thế giới thơ đẹp tráng lệ không tiền
khoáng hậu trong thi ca. Cho nên, đặc điểm tổng quát trong thơ Lý Bạch chính là tính phân
cực chiếu ứng phức tạp trong hệ thống. Hai đối cực rất siêu phàm và rất thực, lạ mà quen với
những “nghi thị…” rất Lý Bạch… được dung hợp qua đôi mắt nhìn của riêng ông nên hình
ảnh trong thơ ông thường gây ấn tượng mạnh cho người đọc: sửng sốt bất ngờ mà chân thực
cao độ.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×