Tải bản đầy đủ (.ppt) (140 trang)

Giới thiệu về internet và sự ra đời của tin sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.93 MB, 140 trang )


Bộ GIáO DụC Và Đào tạo
Bộ GIáO DụC Và Đào tạo
trường đại học nông nghiệp hà nội
trường đại học nông nghiệp hà nội
Bài giảng Tin sinh họC
Bài giảng Tin sinh họC
T
T
hS. Phan Trọng Nhật
hS. Phan Trọng Nhật
Bộ môn Công nghệ sinh học
Bộ môn Công nghệ sinh học

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ INTERNET VÀ
SỰ RA ĐỜI CỦA TIN SINH HỌC
1.1. Giới thiệu về Internet
Khái niệm

Internet là mạng máy tính toàn cầu để liên kết các tổ
chức, trung tâm, viện nghiên cứu, trường học....

Để máy tính hoạt động hiệu quả thì chúng phải cùng chia
sẻ một phương tiện truyền thông được gọi chung là
TCP/IP.

Các máy tính giao tiếp với nhau bằng cách nào?
TCP/IP
(
Transmission Control Protocol/ Internet Protocol
)


gọi là giao thức truyền dữ liệu/ giao thức Internet. Giao
thức này cho phép các máy tính trên mạng trao đổi dữ
liệu với nhau một cách thống nhất, tương tự như một
ngôn ngữ quốc tế được mọi người cùng sử dụng để có
thể hiểu nhau.
Mỗi máy tính trên internet được đặt một tên duy nhất đó là
địa chỉ IP
Ví dụ: IP: 203.162.8.82 hay IP: http:// www.hau1.edu.vn

1.1.1. Lịch sử ra đời của Internet

Năm 1969: Mạng ARPANET được ra đời dưới sự tài trợ
của cơ quan quản lý các dự án nghiên cứu phát triển
ARPA (
American Research Projects Agency
) thuộc Bộ
Quốc phòng Mỹ (US Department of Defence).

Khởi điểm là 4 nút mạng đặt tại 4 trường đại học của
Mỹ:

Đại học California Los Angeles (UCLA)

Học viện nghiên cứu Standford (SRI)

Đại học California Santa Barbara (UCSB)

Đại học Utah



Đó là mạng liên khu vực (WAN:
Wide Area Network
)
đầu tiên được xây dựng, đánh dấu sự ra đời của internet
ngày nay.

Trung tâm nghiên cứu Xeroc Corporation Palo Alto phát
triển chuẩn kết nối Ethernet. Những năm 1980, giao thức
TCP/IP trên Ethernet trở thành giao thức thông dụng trên
mạng cục bộ.

Năm 1983, Bộ Quốc phòng Mỹ đã tách ARPANET làm
hai mạng con:

MILNET: dành cho các hoạt động quân sự.

ARPANET mới: dành cho các hoạt động phi quân sự,
trường đại học, viện nghiên cứu.


Năm 1986, Tổ chức quỹ khoa học quốc gia NSF (National
Science Foudation) thành lập mạng NSFNET. Nhiều doanh
nghiệp chuyển từ ARPANET sang NSFNET.

Năm 1990, ARPANET ngừng hoạt động sau gần 20 năm.

Năm 1995, NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu
còn Internet thì vẫn tiếp tục phát triển.

Năm 1991, WWW (World Wide Web) ra đời đặt nền

móng cho việc chuyển tải thông tin đa phương tiện
(multimedia) thông qua các siêu liên kết (hyperlink) rất tiện
dụng cho việc khai thác internet. Tổ chức W3C (World
Wide Web Consorticum) ra đời: nghiên cứu các chuẩn
chung cho Web.


Cuối năm 1992, xuất hiện nhà cung cấp thông tin thương
mại đầu tiên là Delphi.

Tháng 6/1993: có khoảng 130 website.

Năm 1994: có khoảng 3.000 website.

Hiện nay: Vài trăm triệu website.

Không có bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào có toàn quyền
kiểm soát internet mà mỗi nhà quản trị chỉ quản lý phần
mạng của tổ chức mình.

Để internet hoạt động theo một chiều hướng thống nhất
thì hiệp hội internet và W3C có nhiệm vụ phát triển các
giao thức truyền thông tin chung trên internet và theo dõi
các chuẩn về web.


Số lượng máy chủ:
Năm 1981: khoảng 200 máy
Năm 1985: khoảng 2000 máy
Nay: > 9.000.000 máy


Internet trở thành mạng lớn nhất thế giới: mạng của các
mạng và xuất hiện trong mọi lĩnh vực: Chính trị, quân sự,
thương mại, nghiên cứu, giáo dục, văn hoá, xã hội...

1.1.2. Sự hình thành Internet ở Việt Nam

Năm 1993 mạng VARENET (
Vietnam Academic Research
Education Network
) được thành lập, tạo tiền đề cho việc
hình thành mạng lưới internet Việt Nam. VARENET ra đời từ
Chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học, triển khai công
nghệ mạng tại Viện Công nghệ Thông tin thuộc Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam với sự hợp tác khoa học của
Đại học Quốc gia Australia (ANU). Máy chủ của mạng
VARENET đặt tại ANU.

Năm 1993: VARENET chỉ có một chức năng duy nhất là
phục vụ thư điện tử (E-mail) cho các văn phòng đại diện
nước ngoài, các Cty liên doanh hay 100% vốn nước ngoài
do tính chất mới và chi phí tài chính cao tại Việt Nam.


Ngày 19 – 11 - 1997, khi Chính phủ Việt Nam quyết định
chính thức kết nối internet thì tên miền (.vn) được phía
Australia bàn giao cho Tổng cục Bưu điện Việt Nam. Sự
hình thành của hàng loạt các nhà cung cấp dịch vụ internet
sau đó đã làm mờ nhạt vai trò của VARENET.


Sau VARENET, mạng diện rộng thứ hai là VINANET
(
Vietnam Network
) ra đời ở Việt Nam của Trung tâm Thông
tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại. VINANET cung cấp
thông tin giá cả thị trường trong nước và quốc tế, địa chỉ
doanh nghiệp, văn bản tư pháp.... Tốc độ truy cập thời kỳ
này là
2,4kbps
qua đường dây điện thoại.


Năm 1997, hàng loạt các nhà cung cấp dịch vụ internet
(ISP) và các nhà cung cấp thông tin lên internet (ICP)
như: VNN, FPT, Saigonnet, Netnam và CINET.

VNN (
Vietnam Network
) là mạng máy tính của Công ty
Điện toán và truyền số liệu VDC

(
Vietnam
Datacommunication Company
) thuộc Tổng công ty Bưu
chính viễn thông Việt Nam, hình thành năm 1997.

FPT (
Company for Financing and Promoting Technology
)

là Công ty Tài chính và Kỹ thuật Quảng cáo, thành lập
năm 1997.


Saigonnet thuộc Công ty Cổ phần Bưu chính viễn thông
Sài gòn SPT (
Saigon Post and Telecommunication
Service Corporation
), thành lập năm 1997.

Netnam thuộc Viện Công nghệ thông tin, thành lập năm
1998.

CINET (
Culture and Information Net
) thuộc Bộ Văn hoá
và Thông tin, thành lập năm 1997.

Trong số các ISP kể trên, VNN dẫn đầu danh sách với ưu
thế vừa là IAP (cung cấp cổng truy cập internet) vừa là
cung cấp dịch vụ internet ISP (
Internet Service Provider
)
và ICP (cung cấp nội dung trên internet).

1.2. Kết cấu mạng Internet
1.2.1. Các kiểu mạng:

Mạng cục bộ LAN
(Local Area Network)


Mạng vùng trung tâm MAN
(Metropolitan Area
Network)

Mạng diện rộng WAN
(Wide Area Network)

Mạng cục bộ LAN: là mạng nhỏ nhất, trong vòng vài km,
ngoại trừ trường hợp máy tính đơn kết nối trực tiếp với
internet, tất cả các máy tính có nối mạng đều nối vào
mạng LAN. Mạng LAN được dùng cho một toà nhà,
trường học, thư viện, bệnh viện…


Một đặc điểm của mạng LAN là khi một máy tính truyền
dữ liệu thì tất cả các máy tính trong mạng đều có thể
nhận dữ liệu đó, đặc tính này gọi là broadcasting.

Máy tính trong mạng LAN sử dụng kỹ thuật gọi là Carrier
Sense Multiple Access/ Collision Detect (CSMA/CD) nghĩa
là không gửi khi máy tính khác đang gửi và kiểm tra
những gì gửi đi có xung đột với các máy tính khác.

Công nghệ LAN mới nhất hiện nay là mạng không dây sử
dụng tia hồng ngoại hay sóng radio thay cho cáp để
truyền tín hiệu mạng. Tốc độ truyền từ 1 đến 11 Mbps,
nó thích hợp cho những người di chuyển thường xuyên
hay những nơi mà không thể đặt dây cáp.



Mạng vùng trung tâm MAN
Khác với mạng LAN là dùng chung một thiết bị truyền trong
mạng nên cho phép nhiều máy tính kết nối vào cùng một
sợi dây, mạng MAN sử dụng các kết nối điểm đến điểm
(point to point) với chỉ một máy tính tại cuối mỗi liên kết.
Các máy tính tại cuối mỗi liên kết của MAN cũng có thể
kết nối với các mạng LAN, MAN và WAN.


Mạng diện rộng WAN
Phạm vi của mạng có thể là một quốc gia hay thậm chí cả
lục địa. Cũng giống như đa số MAN, mạng WAN dùng các
kết nối vật lý điểm đến điểm nhưng dùng cáp xoắn. Công
nghệ WAN thường có nguồn gốc từ các hệ thống xây
dựng để phục vụ cho các công ty điện thoại.

1.2.2. Kết nối Internet

Kết nối vật lý: kết nối các thiết bị phần cứng như modem,
dây cáp để thực hiện việc nối từ một máy tính đến mạng
internet thông qua các nhà cung cấp mạng.

Sau khi kết nối vật lý, việc kết nối internet có thể thực hiện
theo hai cách:

Kết nối trực tiếp: cần có modem tốc độ cao nối với cổng
V35 của thiết bị định tuyến (Router) để kết nối trực tiếp
vào internet thông qua kênh thuê bao riêng. Các loại dịch
vụ kết nối do các nhà cung cấp dịch vụ internet bao gồm:

Đường truyền thường trực (Leased Line)
Đường dây thuê bao số bất đối xứng ADSL
(Asymetrical Digital Subcribe Line)


Kết nối gián tiếp: chỉ cần một modem và một đường dây
điện thoại để quay số vào mạng. Dịch vụ này có:
Quay số kết nối qua mạng điện thoại Dial-Up
Mạng số tích hợp đa dịch vụ (Intergrated Service
Digital Network)

So với kết nối internet gián tiếp, kết nối internet trực tiếp
có nhiều ưu điểm như: băng thông rộng, tốc độ cao và ổn
định, hoạt động liên tục (online 24/24). Đương nhiên chi
phí cho việc kết nối trực cũng tốn kém hơn nhiều so với
loại gián tiếp.

Sau khi đã lựa chọn cách kết nối internet thì chúng ta quan
tâm đến dịch vụ nào cho phép chúng ta lướt trên
internet. Có 2 nhóm chính là:

Các dịch vụ trực tuyến (online service) như America
Online (AOL) và CompuServe thường cung cấp một lượng
lớn các dịch vụ Intergrative Digital bao gồm Information
retrieval, thư điện tử (e-mail), bảng tin (bulletin board) và
“chat room’’ nhờ đó người sử dụng trực tuyến đồng thời
có thể quan tâm đến một vài lĩnh vực cùng một lúc.

Các nhà cung cấp dịch vụ internet ISP
(Internet Service

Provider)
bao gồm việc cấp tài khoản truy cập internet
cho người sử dụng đồng thời cung cấp các dịch vụ
internet.

1.3. Một số nét khái quát về WWW (World Wide Web)
và trình duyệt Web
1.3.1. WWW và nguyên lý hoạt động
WWW là gì?
:
WW là dịch vụ cung cấp thông tin trên hệ thống mạng
Internet/Intranet. Các thông tin này được lưu trữ dưới dạng
tập tin siêu văn bản (hypertext) và được truy xuất bởi trình
duyệt web (Web Browser).


Siêu văn bản là các tư liệu chứa văn bản, hình ảnh tĩnh,
hình ảnh động, âm thanh, video… được liên kết với nhau
qua các siêu liên kết (hyperlink). Thông qua các siêu liên
kết, người dùng có thể nhanh chóng tham khảo các tư
liệu liên quan một cách dễ dàng.

Để truy xuất các thông tin trên Web Server, các khách
hàng sử dụng web (Web Client) phải sử dụng chương
trình có chức năng duyệt các thông tin dạng siêu văn bản
gọi là trình duyệt web. Có nhiều loại trình duyệt web như:
Internet Explorer, Netscape Navigator, Opera,
Neoplanet… Trong số đó, 2 trình duyệt được sử dụng phổ
biến là Internet Explorer và Netscape Navigator.


1.3.2. Vài nét cơ bản của trình duyệt Web
Tiềm năng của Internet chỉ thực sự phát huy được khi có
các trình duyệt web ra đời. Chúng cho phép truy cập tới
nguồn thông tin ở các vị trí khác nhau. Các Browser là các
trạm công tác có khả năng xử lý hoặc yêu cầu lấy thông
tin hoặc các chương trình ứng dụng từ máy chủ của
mạng. Trong đó trang chủ là điểm trung gian giữa
browser và server. Hiện nay có một số Web browser đang
dùng phổ biến là Lynx cho hệ điều hành Unix hoặc VMS;
Mosaic cho các máy Apple Mac, X-Windows; Internet
Explorer và Netscape Navigator cho các máy Windows.

Ưu điểm:

Sử dụng dễ dàng, không cần phải hiểu biết nhiều về tin học
– máy tính.

Người sử dụng không cần biết vị trí chính xác của trang văn
bản, hình ảnh… trên mạng internet, mà chỉ cần chọn nó
bằng cách nhấp chuột vào các liên kết để có được nội dung
muốn tìm.

Các nguyên tắc duyệt Web:

Xác định rõ thông tin muốn tìm trên web.

Xác định được những Web site nào thích hợp cho việc
truy tìm thông tin.

Có thể mở nhiều của sổ cho mỗi website trong việc tìm

kiếm bằng cách chọn File/New Windows hoặc tổ hợp
phím Ctrl + N.

Muốn mở một liên kết trong một cửa sổ mới, nhấp phải
chuột và chọn Open link in new windows.

Chức năng của trình duyệt:

Cho phép xem trang web.

Lưu lại những địa chỉ URL của trang web.

Sử dụng dịch vụ FPT bằng trình duyệt web (Web FPT)

Sử dụng các chương trình E-mail trên web (Webmail)

Các trình duyệt đều sử dụng đĩa cứng để tạm ghi các địa
chỉ trang web (gọi là cache) mà người sử dụng vừa lướt
qua, có thể điều chỉnh tuỳ theo nhu cầu của mỗi người.

Các chức năng hỗ trợ khác bao gồm: Ngăn chặn những
trang web mang nội dung xấu, phản động và có thể thay
đổi phông chữ, kích thước.

×