Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Giáo trình hướng dẫn tìm hiểu về những thuật ngữ và cách lý giải của nó trong kinh doanh phần 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.84 KB, 6 trang )


7

Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngân
sách Nhà nớc không phản ánh đúng nguồn thu từ nớc ngoài và các khoản
cấp phát của ngân sách Nhà nớc cho nền kinh tế quốc dân và cho các hoạt
động khác có sử dụng ngoại tệ.
Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tởng là giữ giá trị đồng Việt Nam
so với ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhng thực chất là đẩy
xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt, không khuyến khích sản xuất hàng xuất
khẩu và đẩy mạnh hàng xuất khẩu, hệ quả là cán cân thơng mại bị nhập
siêu nghiêm trọng, ngân sách Nhà nớc phải gánh chịu thêm các thua thiệt.
Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã làm cho chi phí của các
doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế
lợi tức của các tổ chức kinh tế cho ngân sách Nhà nớc cũng bị ảnh hởng.
Mặt khác, các khoản chi tiêu cho các cơ quan và tổ chức đợc Nhà nớc
cấp cũng đợc tăng lên tơng ứng với mức mất giá của đồng nội tệ. Tình
hình đó đã tác động đến yếu tố làm tăng bội chi ngân.
Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà
nớc đã bỏ chế độ tỷ giá trớc đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm căn bản
bù lỗ cho hoạt động xuất - nhập khẩu và thực hiện chính sách giá sát với tỷ
giá thị trờng. Ngân hàng nhà nớc công bố tỷ giá chính thức của VNĐ với
các ngoại tệ mạnh, nhất là với USD trên cơ sở đó các ngân hàng thơng mại
xây dựng và công bố tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh lệch cho phép
(khoảng 5%) so với tỷ giá chính thức.
Về mặt ngân sách Nhà nớc, chính sách một tỷ giá hối đoái sát với
thị trờng khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nớc phản ánh
trung thực và chính xác hơn, không bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần làm
cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và trả nợ nớc ngoài từ ngân sách Nhà
nớc thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc hơn.
* Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và


quản lý ngoại tệ, nhng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hởng không
tốt đến quản lý, điều hành ngân sách, đó là
- Nguồn ngoại tệ không đợc quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã
khiến cho lực lợng ngoại tệ của Nhà nớc tăng chậm và cha tơng xứng
với mức độ tăng của cán cân thơng mại, một cơ sở của sự ổn định thu chi
ngân sách Nhà nớc là quĩ ngoại tệ cha đợc tăng cờng.
- Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trờng nếu không ổn
định thì không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngân
sách bằng ngoại tệ theo không kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị
trờng, điều hành Ngân sách Nhà nớc không tránh khỏi lúng túng, nhất là
trờng hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn đòi phải giải quyết.

8

1.2: Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nớc ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nớc ngoài và công tác quản lý
nợ. Trớc năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tơng đơng 92
triệu USD (tỷ giá 216 Yên = 1USD). Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật mở
lại tín dụng với Việt Nam và cho Việt Nam vay 20 tỷ Yên, tơng đơng 159
triệu USD (tỷ giá 126 Yên= 1USD). Ngoài ra, vào thời điểm 1987 trở về
trớc còn có các khoản vay các công ty của Nhật 20 tỷ Yên, tơng đơng
125 triệu USD ( tỷ giá 160 Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên lên giá,
1USD chỉ còn 90 Yên là nh vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời gian
qua sự tăng giá của đồng Yên Nhật, đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc qui
ra USD, làm thiệt thòi cho ngời đi vay.
Tơng tự nh tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh
nghiệp ở nớc ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác động
mạnh đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Trong các năm 1989-
1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ nớc ngoài theo phơng thức tự vay tự trả
với doanh số vay là 5722 triệu Yên là 10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130

Yên=1USD, do đó tổng vay nợ bằng đồng Yên quy ra USD là 44 triệu USD.
Đến năm 1995, do cha trả đợc nợ mà đồng yên lại tăng giá, nên nợ gốc
vay tăng từ 44 triệu USD lên 58 triệu USD (cha tính đến yếu tố lãi suất
tiền vay và tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD). Do tổng hợp nhiều yếu tố,
rong đó có yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh nghiệp vay
vốn theo phơng thức này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá.
- Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của các doanh
nghiệp kể trên là vay đồng Yên cuả các công ty Nhật trong khi đó đồng
Yên tăng giá).
- Tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD (trong khi đó đồng Việt nam bị
giảm giá).
Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhng nó có ý
nghĩa đặc biệt riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu chi ngân sách nhà nớc, ổn định kinh tế và xã
hội. Ngợc lại, vực nợ nớc ngoài nếu không quản lý tốt và không sử dụng
có hiệu quả sẽ trở thành gánh năngk đối với nền kinh tế hiện tại và tơng
lai, có khi còn ảnh hởng đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia.
Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định đợc vay về
trách nhệm,nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế và pháp nhân
công quyền trớc các khỏan vay và khỏan trả nợ. Hiện nay chúng ta có qui
định Nhà nớc vay Nhà nớc trả, doanh nghiệp vay doanh nghiệp trả, Nhà
nớc không gánh hộ nợ doanh nghiệp.

9

Thiếu vốn phải vay, nhng không phải ai cho vay với điều kiện nào
cũng chấp nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam hạ,
đồng ngoại tệ tăng, thì khoản trả nợ của Ngân sách Nhà nớc của doanh
nghiệp sẽ phải tăng , nhng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là
một bài toán khó, phải tính xem lợi ích do xuất khẩu mang lại cho phát

triển kinh tế có bù lại đợc thiệt hại của số tiền Ngân sách Nhà nớc và
doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn không?
Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay,
không thể chấp nhận bất cứ điều kiện nào và không thể không nghĩ đến việc
trả giá, đặc biệt phải chú trọng đến các vấn đề chính trị của các khoản vay.
Phải thấy đợc rằng các chủ nợ cho vay là để lấy lãi chứ không phải làm
việc nghĩa. Vấn đề là ơe chỗ làm thế nào để giải quyết hài hoà giữa lợi ích
của bên cho vay và bên vay. Việc quảnlý nợ khônghcỉ quy định trách nhệm
mà còn phải luôn chú ý tới hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy quản lý đầu
t sử dụng các khoản vay cho các công trình, mục tiêu là một việc có tầm
quan trọng đặc biệt. Các cơ quan tài chính và ngân hàng phải đặc biệt chú ý
tới vấn đề này-vay cho mục tiêu nào đợc quản lý theo mục tiêu đó.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhng cũng phải
đợc quản lý chặt chẽ. Những khoản viện trợ cuả nớc ngoài cho chính phủ
và các cấp chính quyền phải đợc đa vào ngân sách nhà nớc để cân đối
và sử dụng, không hình thành quỹ riêng. Tuy các khoản này ngân sách
không phải trả lại nhng là một nguồn khá quan trọng góp phần giải quyết
các vấn đè của đất nớc.
Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự án
ngoài ngân sách và các tổ chức xã hội cũng phải đợc chuyển vào ngân
sách để quản lý và chỉ cấp phát bằng tiền Việt nam theo tỷ giá chính thức ở
thời điểm sử dụng, không cấp phát bằng ngoại tệ.
Để đáp ứng yêu cầu trên, chính phủ cần thành lập một tổ chức trực
tiếp quản lý nợ, viện trợ. Cơ quan này không những nắm các khoản nợ, viện
trợ, tài trợ của chính phủ, các cấp chính quyền, mà cả các khoản nợ của các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện yêu cầu quản lý
vĩ mô của nhà nớc trong điều kiện kinh tế mở. Chỉ xét riêng trong cán cân
vay lãi, cán cân thanh toán quốc tế, thì không phải chỉ có nợ chính phủ mới
nằm trong đó mà ngay cả nợ của các doanh nghiệp t nhân các của nớc
cũng phải đa vào. Bởi vì, vốn đa vào dù ai sử dụng thì vẫn là cho cả nền

kinh tế và khi trả, dù ai trả cũng phải lấy một phần GDP để trả nợ mà việc
đó liên quan đến lợi ích quốc gia, trực tiếp tác dộng đến sự cân bằng của
cán cân thanh toán. là quốc gia có số nợ nớc ngoài lớn nếu so với GDP,
trong tơng lai còn phải vay và đồng thời phải trả nợ đến hạn vì vậy với việc
hình thành chiến lợc vay và trả nợ có ý nghĩa chiến lợc to lớn.


10

1.3 Thực trạng tác động cuả tỷ giá đến lãi suất và trái phiếu chính
phủ.
Tỷ giá ngoại hối có liên quan chặt chẽ đến lãi suất và có tác dụng
điều chỉnh lãi suất. Trong nền kinh tế thị trờng khi đồng nội tệ mất giá
khối lợng nội tệ cung ứng ngoài thị trờng lớn đòi hỏi phải điều chỉnh tăng
lãi suất, trong trờng hợp này làm tăng chi ngân sách về thanh toán lãi suất
huy động nội tệ. Khi đồng nội tệ lên giá nhà nớc phải điều chỉnh giảm
mức lãi suất, điều này sẽ giảm chi ngân sách về thanh toán lãi suất huy
động nội tệ, nếu không điều chỉnh mức lãi suất thì những nhà sản xuất kihn
doanh sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng lấy nội tệ gửi vào ngân hàng hoặc mua
trái phiếu chính phủ để hởng lãi suất cao. Điều này sẽ tác động xấu đến
sản xuất-kinh doanh trong khi đó ngân sách phải tiếp tụcthanh toán lãi suất
về huy động tiền gửi. Kinh nghiệm của một số nớc châu á (nh Malaixia,
Thái lan, Indonexia) cho thấy việc sử lý hài hoà phối hợp điều hành lãi suất
và tỷ giá ngoại hối đã làm cho tỷ giá giữ đợc biên độ ổn định và tiền tệ
không có biến động mạnh.
Do đồng USD mất giá ở mức cao, nên hiện nay Mỹ đang đẩy mạnh
xu hớng nâng cao lãi suất. Việc làm này sẽ làm tăng lãi suất tiền vay bằng
ngoại tệ USD, và do đó sẽ tác động trực tiếp đến các khoản vay nợ của Việt
nam. Với diễn biến này đòi hỏi chúng ta cần có sách lợc chọn đồng tiền
với mức lái suất thích hợp, nhằm đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay đạt

hiệu quả.
Tóm lại: từ những vấn đề phân tích trên đây và thực trạng Việt nam
cho thấy, tình hình taì chính quốc gia (đặc biệt là ngân sách nhà nớc) và
chế độ ngoại tệ, tỷ giá có quan hệ biện chứng qua lại hết sức chặt chẽ, một
mặt tình hình tài chính (mà biểu hiện tập trung là ngân sách nhà nớc) là
một nhân tố hàng đầu quyết định đến sự lựa chọn tỷ giá, phơng án điều
chỉnh tỷ giá, mặt khác chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá cũng có ảnh hởng
hết sức mạnh mẽ, toàn diện đến quản lý. Nền tài chính quốc gia thông qua
nhiều kênh, dới nhiều hình thức và góc độ khác nhau, chính vì vậy khi đặt
vấn đề lựa cọn chính sách, phơng án điều chỉnh tỷ giá sẽ là sai lầm nghiêm
trọng nếu nh không đề cập, phân tích thực trạng tài chính hiện hành của
quốc gia.
1.4 Tỷ giá hối đoái đối với điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các nớc đang phát triển thờng thiết ké chính sách tỷ giá hối đoái
nhằm duy trì sức cạnh tranh quốc tế ở mức phù hợp với vị thế cán cân thanh
toán quốc tế lâu bền. Bằng cách tăng giá các hàng thơng mại hoá đợc so
với các hàng hoá không thơng mại hoá đợc; sự phá giá đồng thời chuyển
dịch cầu tổng thể có lợi cho các cho các hàng hoá không thơng mại hoá
đợc, và cung tổng thể có lợi cho các hàng hoá thơng mại hoá đợc, và do
đó giảm bội d cầu đối với hàng hoá thơng mại hoá đợc (tức là cải thiện

11

đợc vị thế của cán cân vãng lai). Ngoài tác dộng của chính sách chuyển
đổi chi tiêu, phá giá cũng giảm cầu tổng thể thông qua ảnh hởng của khối
lợng tài sản, một sự tăng giá nội địa sẽ làm cho sự phá giá đồng tiền nội
địa tháp hơn giá trị thực của tài sản tài chính và giảm hấp thụ.
Do vai trò cốt yếu của tỷ giá hối đoái đói với việc duy trì sức cạnh
tranh đối với bên ngoài tỷ giá có thể làm thay đổi vợt ra khỏi điểm cân
bằng của nó. Bởi vì điểm cân bằng này đợc xác địng nội sinh, chính sách

tỷ giá hối đoái cần lu ý đến các tác động của các cơn sốc khác nhau lên
điểm cân bằng của tỷ giá thực. Phần này đề cập đến các tiếp cận khác nhau
trong việc xác định điểm cân bằng tỷ giá thực và nghiên cứu tác dộng của
các cơn sốc bên trong và bên ngoaig lên điểm cân bằng đó, sau đó sẽ tập
trung vào chính sách cụ thể nhằm duy trì sức cạnh tranh trong quá trình
điều chỉnh.
Xác định tỷ giá hối đoái cân bằng:
Nói chung có hai tiếp cận để xác định tỷ giá hối đoái thực "cân
bằng". Tiếp cận đơn giản và phổ biến nhất là dựa vào khái niệm tỷ giá theo
sức mua so sánh. Nguyên lý trung tâm của tỷ giá so sánh sức mua là tỷ thực
cân bằng tỷ lệ với các mức giá tơng đối giữa một nớc với đối tác ngoại
thơng của mình, tức là đối với sức mua so sánh giữa các đồng tiền các
quốc gia. Nh vậy tỷ giá sức mua so sánh đợc coi là chỉ số thích hợp cho
cân bằng tỷ giá giã các đồng tiền với tỷ lệ lạm phát quy định tỷ lệ thay đổi
của tỷ giá danh nghĩa theo thời gian. Việc áp dụng tỷ giá so sánh sức mua
bao gồm việc sử dụng tỷ giá hối đoái hiện hữu để tính mặt bằng giá tơng
đối theo các đại lợng tiền tệ thông dụng. Bất cứ sự sai lệch nào của tỷ giá
thực so với giá trị gốc của nó sẽ đợc coi là dấu hiệu tỷ giá đã đi lệch ra
khỏi giá trị tỷ giá so sánh sức mua cân bằng.
Tiếp cận khác, có sức hấp dẫn hơn là định nghĩa tỷ giá hối đoái thực
nh là giá so sánh tơng đối giữa hàng hoá mậu dịch và hàng hoá không
mậu dịch hoá đợc, nó đa ra thớc đo các động lực quyết định sự phân
phối nguồn lực giữa hai khu vực trọng yếu này của nền kinh tế: nếu giá nội
địa của hàng hoá thơng mại hoa so với hàng hoá không thơng mại hoá
đợc thì nguồn lực sẽ đợc phân phối lại sang khu vực hàng hoá thơng mại
hoá và cán cân ngoại thơng sẽ đợc cải thiện. Theo nghĩa đó, thì điểm cân
bằng của tỷ giá thực sẽ tơng ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thơng mại
hoá và hàng hoá không thơng mại hoá đem lại đồng thời sự cân bằng nội
và cân bằng ngoại. Cân bằng nội có nghĩa là thị trờng hàng hoá không
thơng mại hoá đợc thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm

hụt cán cân vãng lai đợc tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nớc
ngoài vào.
Ngoài chỉ số giá thực tế thì vẫn còn có các vấn đề tiềm tànglên quan
đến biến động chỉ số và sức cạnh tranh với bên ngoài. Một số nghiên cứu

12

gần đây chỉ ra sự thay đổi chỉ số tỷ giá thực quan đợc có thể là biểu hiện
của sự thay đổi điểm cân bằng của tỷ giá thực do các loại cơn sốc trong
nớc và nớc ngoài gây ra (ví dụ: sự tác động cảu chênh lệch mức tăng
năng suất, thay đổi điều kiện ngoại thơng, cải cách thuế quan, thay đổi
trong điều hành ngân sách chính phủ, sự tăng lên của lãi suất thực quốc tế)
lên cân bằng của tỷ giá thực.
Chênh lệch về mức độ phát triển, tiến bộ trong công nghệ có tác động
quan trọng đến điểm cân bằng của tỷ giá thực, ví dụ: nếu năng suất lao
động tăng nhanh hơn trong khu vực hàng hoá thơng mại hoá so với khu
vực hàng hoá không thơng mại hoá, thì giá so sánh giữa hàng hoá không
thơng mại hoá sẽ tăng do sự tăng đồng nhất của tiền lơng trong cả hai
khu vực. Với giá hàng hoá thơng mại hoá thị trờng quốc tế quy định thì
tỷ giá hối đoái thực cân bằng sẽ giảm. vậy tỷ giá thực cân bằng ở các nớc
có tốc độ tăng năng suất thấp các nớc đang phát triển thờng chịu các cơn
sốc về điều kiện ngoại thơng. Giả sử điều kiện ngoại thơng xấu đi vì sự
giảm giá tơng đối của hàng xuất khẩu, sự xấu đi này tạo nên d thừa cung
đối với hàng hoá không thơng mại hoá và d thừa cầu đối với hàng hoá
thơng mại hoá, làm cho cán cân vãng lai xấu đi. Mất cân bằng cán cân
vãng lai đợc điều chỉnh lại qua việc giảm giá tơng đối của hàng hoá
không thơng mại hoá-tức là tăng tỷ giá thực và dịch chuyển cung nội địa
từ hàng hoá không thơng mại hoá sang hàng hoá xuất nhập khẩu.
Phân tích về tác động của cải cách thuế nhập khẩu cho thấy: giảm
thuế nhập khẩu thờng là tơng đơng với tăng tỷ giá thực cânbằng. về

phơng diện định tính thì tác động của tự do hoá nhập khẩu cũng giống nh
việc cải thiện điều kiện ngoại thơng (do giảm giá xuất khẩu). Thuế nhập
khẩu thấp hơn sẽ giảm giá tơng đối của hàng nhập khẩu, tạo nên sự d
thừa cầu đối với hàng hoá này, và d thừa cung đối với hàng hoá xuất khẩu.
để đa về cân bằng thì giá tơng đối của hàng hoá không thơng mại hoá sẽ
giảm. Nh vậy phản ứng đối với việc giảm thuế nhập khẩu là tỷ giá hối đoái
thực sẽ tăng lên.
Tỷ giá thực cân bằng cũng bị tác động của các biện pháp ngân sách,
ngay cả khi thiếu hụt ngân sách không thay đổi thì sự thay đổi trong cơ cấu
thu chi ngân sách cũng làm cho tỷ giá thực cân bằng thay đổi, Ví dụ: nếu
chính phủ cho hớng thành phần chi tiêu sang hàng hoá thơng mại hoá sẽ
giảm và tỷ giá thực sẽ tăng. Cũng nh vậy, một sự thay đổi cơ cấu thuế sẽ
tác dộng tới tỷ giá thực cân bằng bằng cách gây nên sự dịch chuyển của
hành vi đầu t-tiết kiệm của nền kinh tế. Về nguyên tắc, nhiều sự kết hợp
của biện pháp ngân sách sẽ cho cùng một kết quả cân banừg ngân sách tổng
thể, nhng với mỗi sự kết hợp sẽ cho một tỷ giá thực cân bằng. Vì vậy điểm
cân bằng của tỷ giá hối đoái thực không chỉ định do vị thế ngân sách quy
định, mà còn do cơ cấu chi và thu của chính phủ quy định.

×