ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN ĐỨC THỊNH
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA XÃ HỘI ĐẾN CÔNG
TÁC QUẢN LÝ RỪNG TẠI CÔNG TY TRÁCH NHIỆM
HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN LÂM NGHIỆP BẢO
YÊN, TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60 62 02 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Võ Đại Hải
Thái Nguyên, năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực, đầy đủ, rõ nguồn gốc và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Các thông tin, tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn này đều đã được ghi rõ
nguồn gốc. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện cho luận văn này đã được cảm ơn.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng bảo vệ luận văn, trước phòng quản lý
sau đại học và nhà trường về các thông tin, số liệu trong đề tài.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Người viết cam đoan
Nguyễn Đức Thịnh
LỜI CÁM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên
theo chương trình đào tạo Cao học chuyên ngành Lâm học khoá 19 (2011 - 2013).
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được sự quan tâm,
tận tình giúp đỡ của các thầy, cô giáo; các cán bộ công nhân viên Trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên, nhân dịp này tác giả xin chân thành cám ơn về sự giúp đỡ đó.
Trước hết, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS TS. Võ Đại Hải
- người hướng dẫn khoa học, đã dành nhiều thời gian hướng dẫn, tận tình giúp đỡ,
truyền đạt những kiến thức quí báu và dành cho tác giả những tình cảm tốt đẹp
trong suốt thời gian công tác, học tập cũng như trong thời gian thực hiện luận văn.
Tấm gương lao động và các ý tưởng khoa học mới của thầy giáo là bài học quí giá
đối với bản thân tác giả.
Tác giả xin chân thành cám ơn các cán bộ Phòng đào tạo Sau đại học, đặc
biệt là PGS. TS. Lê Sỹ Trung đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tác giả trong suốt thời
gian học tập và làm luận văn.
Tác giả xin cám ơn các đồng chí lãnh đạo Sở NN&PTNT, chi cục Kiểm lâm
tỉnh Lào Cai, Lãnh đạo và cán bộ công nhân viên các phòng nghiệp vụ của hai cơ
quan nói trên, Lãnh đạo Hạt Kiểm lâm huyện Bảo Yên, Công ty TNHH MTV LN
Bảo Yên, UBND huyện Bảo Yên, UBND, cán bộ Kiểm lâm địa bàn, các hộ gia đình
5 xã Long Khánh, Long Phúc, Yên Sơn, Thượng Hà, Vĩnh Yên đã cung cấp thông
tin và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tác giả triển khai thu thập số liệu ngoại nghiệp
phục vụ cho luận văn.
Cuối cùng tác giả xin chân thành cám ơn các đồng nghiệp, bạn bè và người
thân trong gia đình đã giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt thời gian học tập và
hoàn thành luận văn.
Lào Cai, tháng 9 năm 2013
Tác giả
Nguyễn Đức Thịnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Đặ ấ đề
ụ ứ
ĩ ọ à ự ễ ủ đề à
ĩ ọ
ĩ ự ễ
Đố ượ à ạ ứ
Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 4
ổ ấ đề ứ
ế ớ
Ở ệ
ậ à đ
ổ ự ứ
Đề ệ ự
!" Đề ệ ế ộ ự ứ
# !" Đ ềđề ệ ự ế ộ ự
ứ $
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27
% ộ ứ &
' ươ ứ
( để ứ à ế ậ
' ) ươ ướ ả ế ấ đề
' ươ ứ ụ ể*
+ , " ổ ợ ố ệ đ ậ ụ ụđề à
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 35
-- + % (./0 Đ ạ độ ả ấ à ạ
12)$
(-- 12)à à ơ ấ ổ ứ ủ $
) à ừ
3 + %ạ độ ả ấ
-- ,45 ả ả ệ ừ *
--+ -" 5 12ả ấ à ế ộ đ đị à
)
1 + % ơ ấ ử ụ đấ
--+ 2 " 5 12)ả ấ ệ đị à $
--+ % ) ử ụ à ừ $
ồ ố đầ ư$
$'6, ạ ế ộ$
71 ơ ấ ậ à $
-- ,6 #(./0 12)Đ đấ ệ ạ
33./ 8ả 7
-- ,6 5 Đ đấ ệ đị à 7
--(./0Đ 7
-+ Đ ơ ộ ạ ậ ộ đ ố ầ ừ
,4 12)ừ ạ độ ả ừ ủ 7
, 12) Đ độ ạ ữ à đị ươ 7$
1 + % 12) ạ độ ả ấ ủ đố ớ đị
ươ 7$
+ 12)ữ ạ độ ả ấ ủ đị ươ đố ớ 7
9 " (.0/ 12Đ ứ độ ợ ẩ ộ ở
)&*
(.0/ : " ẩ ố ề à ữ ề ộ&*
9 :" 12)Đ ứ độ ợ ộ ở &
+ 2 ; )Đề ấ ộ ố ả à ệ ư ằ đẩ
(.0/ 5 " 12)33./ 8à ề ữ ề ặ ộ ở ả &$
'6: # ) # để ạ để ế ơ ộ à ứ ề độ
" 12)33./ 8ộ ở ả &$
+ % 5ộ ố ự &&
+ ; ) ,4 5 Đề ấ ộ ố ả ằ đẩ ả ừ ề ữ ề
" 12)33./ 8ặ ộ ạ ả *
2 Đề ấ ệ ư $
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT
TT Ký hiệu Giải thích
1 BVR Bảo vệ rừng
2 BHXH Bảo hiểm xã hội
3 BHYT Bảo hiểm y tế
4 CBCNV Cán bộ công nhân viên
5 CCR Chứng chỉ rừng
6 ĐKTN, KT-XH Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
7 ESIA Đánh giá tác động môi trường và xã hội
8 FAO Tổ chức nông lương thực thế giới
9 FSC Hội đồng quản trị rừng Quốc tế
10 GTZ
Chương trình lâm nghiệp VN - Cộng hoà liên bang
Đức
11 KHCN Khoa học công nghệ
12 KHHGĐ Kế hoạch hoá gia đình
13 KHKT Khoa học kỹ thuật
14 KNTS Khoanh nuôi tái sinh
15 NN & PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
16 QLR Quản lý rừng
17 QLBVR Quản lý bảo vệ rừng
18 QLRBV Quản lý rừng bền vững
19 PCCCR Phòng cháy chữa cháy rừng
20 TNHH MTV LN Trách nhiệm hữu hạn một thành viên lâm nghiệp
21 SXKD Sản xuất kinh doanh
22 UBND Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
/ <. #, %12)33./ ả ạ đấ ạ ừ ả
8 ,4ả
/ <--%6+ $" 5 ả ố đị à ứ
/ 1 5 2)ả ơ ấ ổ ứ àđộ ũ ộ ủ &
/ < % : 2)33.ả ổ ợ ệ đấ ủ
/ 8ả
/ <-- + % ả ạ độ ả ấ đ ạ
**!*
/ <1 :'1110 12)ả ạ độ à ủ
*ă
/ $<= ) 5 ) / 8ả ố ụ ừ đị à ệ ả
**!*đ ạ
/ 7<= ,6, 5 ) / 8ả ố ụ ạ ậ đị à ệ ả
**!*
/ &<1 + % $" 5 12) ả ơ ấ ử ụ đấ đị à ă
*
/ <> : + + , 6) :ả ệ à ă ấ ộ ố à ồ
5 $"đị à $
/ <. + 2 " ả ị ờ ụ ả ấ ệ đị
5 à &
/ *<-- 2 5 $" *ả ă đị à ă
/ <> :6)2 ,6 $"ả ệ ệ à ệ ủ
$?*đế $*
/ < + % # ả Đ ầ ử ụ ỗ ủ ạ ỗ đị
5 $"à $
/ <= @$" 5 12) *ả ố ộ đị à ă $
/ <A 5 ) ả ế ả đấ đị à ệ 7
/ $< + 12)ả ộ ố ạ độ ỗ ợđị ươ ủ 77
/ 7<A 9 + " ả ế ảđ ứ độ ợ ỉ ố ộ
12)ủ &
/ &<'6: # ) # ả để ạ để ế ơ ộ à
" 12)33./ 8ứ ề độ ộ ở ả
&$
' , 7<1 #: + " ụ ụ ẩ à ỉ ố ề ặ ộ*
DANH MỤC CÁC HÌNH
3-<' ) ươ ướ ả ế ấ đề*
3-<15 ướ ự ệ ứ
3-<= 5 )12)33.ơđồ ổ ứ ộ
/ 8ả 7
3-<1 + % " 12),6ơ ấ ử ụ đấ ủ
ệ $
3-<1 26 2ă ả
3-<( , ế ạ ồ đ ể$
3-$<A , ỗ à à ớ$
3-7< %6@àở ủ ườ $
3-&<1 B ơ ấ ậ ộ ậ ồ
@$
3-&5<1 B 2ơ ấ ậ ộ ậ
@ồ $$
3- <1 B 5-ơ ấ ậ ộ ậ
@ồ $$
3- 5<1 B 5-2ơ ấ ậ ộ
@ồ $$
3-<1 B ơ ấ ậ ộ ậ ấ ồ
@$7
3-5<1 B 2ơ ấ ậ ộ ậ ấ
@ồ $7
3-*<1@, , + à ồ ớ ộ ố ộ$&
3-<1 -".Aơ ấ ậ ộ đ $
3-<1 -".';ơ ấ ậ ộ đ $
3-<1 -" 3ơ ấ ậ ộ đ ượ à$
3-<1 -" 8ơ ấ ậ ộ đ ĩ 7*
3-$<1 -"8= ơ ấ ậ ộ đ ơ 7*
3-7<1 -"C ơ ấ ậ ộ đ ồ
ậ 7*
3-&<3 )) 25 '1110ộ ị ề ả ệ à
7
3- <. 4 5 ễ ế ả ệ ừ 7
3-<3 % %6+ ,4 5-ướ ẫ ườ ử ự 7
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Rừng là một hệ sinh thái mà quần xã cây rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối
quan hệ tương tác giữa sinh vật với môi trường. Rừng có vai trò rất quan trọng trong
đời sống con người, cũng như môi trường. Tuy nhiên, tài nguyên rừng đang ngày càng
bị suy giảm. Theo FAO, trong mấy chục năm qua trên thế giới đã mất đi trên 200 triệu
ha rừng tự nhiên, trong khi đó phần lớn diện tích rừng còn lại bị thoái hoá nghiêm
trọng cả về đa dạng sinh học và chức năng sinh thái. Nguyên nhân chủ yếu là do công
tác quản lý, sử dụng tài nguyên rừng không hợp lý, không đảm bảo phát triển bền
vững, đặc biệt là về mặt xã hội và môi trường.
Trong giai đoạn hiện nay quản lý rừng bền vững (QLRBV) được đặt ra như
là một yêu cầu cấp thiết đối với mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế. Đầu thập kỷ 90
của thế kỷ XX, nhờ sáng kiến của những người sử dụng và kinh doanh gỗ về việc
chỉ buôn bán và sử dụng gỗ có nguồn gốc từ các khu rừng đã được quản lý bền
vững, từ đó một loạt các tổ chức QLRBV đã ra đời và có phạm vi hoạt động khác
nhau trên thế giới như Montreal, ITTO, Pan - European, Africal Timber
Organization Initiative, CIFOR và FSC, trong đó chứng chỉ FSC là có uy tín và có
phạm vi áp dụng rộng rãi nhất.
Ở Việt Nam, từ năm 1945 đến 1990 diện tích rừng liên tục giảm từ 14,3 triệu
ha xuống 9,2 triệu ha, độ che phủ còn 27,2% mà lý do chính là do quản lý và sử dụng
rừng không bền vững. Từ sau năm 1992 thông qua các chương trình lớn như Chương
trình 327 và Dự án 661,… gần 3 triệu ha rừng đã được phục hồi, góp phần thúc đẩy
ngành lâm nghiệp phát triển và cân bằng môi trường cho đất nước. Theo Quyết định
số 2089/QĐ-BNN-TCLN, ngày 30/8/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn về việc công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2011 thì đến hết 31/12/2011 diện
tích đất có rừng trên toàn quốc là 13.515.064 ha trong đó diện tích rừng tự nhiên là
10.285.383 ha, rừng trồng là 3.229.681 ha với độ che phủ là 39,7%. Để giữ được diện
tích rừng hiện có và phát triển thêm vốn rừng thì QLRBV là một yêu cầu rất cần thiết
ở nước ta.
Trong Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 ghi
rõ: Thiết lập, quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững 3 loại rừng; đẩy mạnh xây dựng
thương hiệu và cấp chứng chỉ rừng cho các mặt hàng xuất khẩu; Nâng cấp năng lực
quản lý cho chủ rừng, xây dựng các tiêu chuẩn và cấp chứng chỉ rừng, mục tiêu đến
năm 2020 ít nhất 30% diện tích rừng sản xuất được cấp chứng chỉ rừng. Chương
trình Quản lý và phát triển bền vững - là một trong 5 chương trình trọng điểm quốc
gia về lâm nghiệp, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc lần đầu tiên xác định cho
đất nước một lâm phận ổn định 15,6 triệu ha, với 7,8 triệu ha rừng sản xuất, có 30%
được cấp chứng chỉ QLRBV, cung cấp 22,2 triệu m
3
gỗ/năm đạt kim ngạch xuất
khẩu 7,8 tỷ USD vào năm 2020.
QLRBV đòi hỏi phải đáp ứng bền vững trên cả 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội
và môi trường, trong đó hiện nay ở Việt Nam yếu tố xã hội được đặc biệt quan tâm
vì nó gắn liền với đời sống của hàng chục triệu người dân miền núi, gắn với chủ
trương xóa đói giảm nghèo và chính sách đầu tư của Chính phủ.
Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Bảo Yên, tỉnh Lào Cai là doanh
nghiệp Nhà nước trực thuộc UBND tỉnh Lào Cai hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh lâm nghiệp xã hội. Trong tiến trình xây dựng mô hình kinh doanh lâm nghiệp
bền vững, theo các cách tiếp cận với chứng chỉ rừng FSC do Hội đồng quản trị rừng
thế giới cấp, với sự quan tâm, hỗ trợ của Chi cục Lâm nghiệp Lào Cai và Quỹ rừng
nhiệt đới - The Forest Trust, Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Bảo Yên
đã được lựa chọn thí điểm trong mục tiêu QLRBV, gắn kết kinh doanh có hiệu quả
với trách nhiệm về môi trường, xã hội.
Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài “Đánh giá ảnh hưởng của xã hội đến công
tác quản lý rừng tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Lâm nghiệp
Bảo Yên, tỉnh Lào Cai” đặt ra là hết sức cần thiết nhằm giúp Công ty nói riêng và
các lâm trường, công ty lâm nghiệp khác nói chung có điều kiện tương tự, nhìn
nhận và đánh giá được những tác động xã hội trong quản lý rừng, mối quan hệ qua
lại giữa địa phương và công ty để tiếp cận và dần đáp ứng được các tiêu chí của Bộ
Tiêu chuẩn quốc gia về QLRBV mà trước hết là các tiêu chí xã hội trong các điều
kiện và bối cảnh mới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được ảnh hưởng của xã hội đến công tác quản lý rừng tại Công ty
TNHH Một thành viên Lâm nghiệp Bảo Yên.
- Đánh giá được mức độ phù hợp của các tiêu chuẩn xã hội trong Bộ tiêu
chuẩn quốc gia về QLRBV đối với công tác quản lý rừng ở Công ty TNHH một
thành viên Lâm nghiệp Bảo Yên.
- Đề xuất được một số giải pháp và các công việc ưu tiên nhằm thúc đẩy tiến
trình QLRBV ở Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Bảo Yên.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Làm rõ được thực trạng mối quan hệ qua lại giữa Công ty lâm nghiệp Bảo
Yên với các yếu tố xã hội, trong đó xác định được mức độ phù hợp của các tiêu
chuẩn về xã hội (tiêu chuẩn 2, 3 và 4) về quản lý rừng bền vững.
- Xác định được các luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp đáp ứng
các yêu cầu quản lý rừng bền vững về mặt xã hội.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Xác định được các giải pháp cụ thể và các hoạt động ưu tiên nhằm duy trì
những chỉ số đã phù hợp, khắc phục những chỉ số chưa phù hợp hoặc phù hợp một
phần để đạt được mục đích quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các hoạt động sản xuất kinh doanh
của Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Bảo Yên, của người dân và mối
quan hệ qua lại về mặt xã hội giữa công ty với người dân địa phương.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong việc đánh giá những ảnh
hưởng về mặt xã hội của công ty đến người dân trên địa bàn 5 xã (Long Khánh,
Long Phúc, Yên Sơn, Thượng Hà, Vĩnh Yên); đối chiếu với các chỉ số, tiêu chí và
tiêu chuẩn về mặt xã hội (tiêu chuẩn 2, 3 và 4) trong Bộ tiêu chuẩn QLRBV của
Việt Nam (phiên bản 9C) để đề xuất một số giải pháp và các công việc ưu tiên
nhằm QLRBV và tiến tới cấp chứng chỉ rừng tại Công ty TNHH một thành viên
Lâm nghiệp Bảo Yên. Đề tài không đánh giá các tác động về kinh tế và môi trường
của các hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty.
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Đánh giá tác động xã hội của các hoạt động sản xuất lâm nghiệp
Trước những năm 1990, thuật ngữ “đánh giá dự án” mới chỉ giới hạn ở đánh
giá hiệu quả bao gồm hiệu lực thực thi (efficiency) và hiệu quả (effectiveness). Từ
sau năm 1990 các hoạt động đánh giá được thực hiện đã bao gồm cả đánh giá tác
động (impact assessment), tức là xem xét các hoạt động của dự án đó có bền vững
sau khi dự án kết thúc không (John et al, 2000). Hiện nay, việc đánh giá tác động
được coi như bắt buộc đối với tất cả các hoạt động đánh giá, bao gồm tất cả các
thay đổi về sinh thái, văn hoá - xã hội, kinh tế, kỹ thuật, thể chế và chính sách đem
lại bởi các hoạt động của một chương trình, dự án.
Đánh giá tác động môi trường và xã hội (ESIA) đang ngày càng được tăng
cường và áp dụng ở nhiều ngành với mục tiêu nhằm đảm bảo cho các vấn đề môi
trường và xã hội được quan tâm thoả đáng trước khi đưa ra những lựa chọn đầu tư
quan trọng, là phương tiện phù hợp để hỗ trợ quá trình ra quyết định [5].
Đánh giá và giám sát tác động nhằm để trả lời câu hỏi: những thay đổi được
mong đợi có thực sự xảy ra không? và có hay không những tác động không được
mong đợi nhằm điều chỉnh việc quản lý chương trình, dự án; cung cấp thông tin cần
thiết cho quá trình ra quyết định từ cấp dự án tới cấp ra chính sách nhằm xác định
mức độ bền vững của các hoạt động cũng như khâu thiết kế dự án; Giải trình cho
các thành viên dự án về các mục tiêu đã được đề ra và vấn đề sử dụng các nguồn tài
nguyên đã được cung cấp [5].
Năm 1996 trong báo cáo đánh giá của Winconsin Woodland, Micheal
Luedeke và Jeff Martin (1996) đã khuyến nghị rằng hoạt động đánh giá tài chính
đơn thuần chỉ nên sử dụng cho các công ty kinh doanh mà lợi nhuận kinh tế là yếu
tố hàng đầu, còn đối với các dự án đầu tư mang nhiều yếu tố xã hội thì nên cân nhắc
việc đánh giá hiệu quả xã hội và môi trường.
Theo Renard R. [54] việc đánh giá hiệu quả kinh tế (áp dụng giá bóng - tính
đến lạm phát, chi phí cơ hội) nên đồng thời là các đánh giá hiệu quả xã hội, hiệu
quả môi trường trong đánh giá các chương trình, dự án lâm nghiệp.
FAO [56], [57] nhấn mạnh việc đánh giá hiệu quả xã hội và môi trường khi
đưa ra các báo cáo tham luận về lâm nghiệp xã hội, lâm nghiệp cộng đồng. Cũng theo
FAO [50], một dự án trong lâm nghiệp dù có đạt được hiệu quả tài chính cao (NPV,
IRR, B/C, ) nhưng chưa đạt được hiệu quả xã hội (tạo việc làm, tăng thu nhập cho
cộng đồng, ) và hiệu quả môi trường thì không được coi là một dự án bền vững.
Nghị định thư Kyoto ra đời và việc thành lập Quĩ môi trường toàn cầu (GEF)
càng đề cao vai trò của việc đánh giá hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường.
Đứng về phương diện các phương thức canh tác, hay sử dụng các phương án
sử dụng đất khác nhau, Walfredo [55] đã cho rằng: Phương thức canh tác sẽ có
những tác động tới kinh tế, sinh thái và xã hội từ đó sẽ có ảnh hưởng tới tăng trưởng
kinh tế, cân bằng sinh thái và phát triển xã hội. Tất cả các mối quan hệ ảnh hưởng
này sẽ tác động toàn diện về kinh tế - xã hội - bảo vệ môi trường sinh thái.
1.1.1.2. Nghiên cứu về quản lý rừng bền vững
Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà khoa học trên thế giới có sự quan tâm đặc
biệt về vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững. Sự khác biệt về điều kiện
tự nhiên, kinh tế - xã hội và các nhu cầu của con người ở các quốc gia, vùng lãnh
thổ khác nhau dẫn đến sự đa dạng, phức tạp và những quan điểm khác nhau của
công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên,
điểm giống nhau cơ bản khi nói đến quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững
đều được thể hiện ở ba vấn đề: kinh tế, xã hội và môi trường. Cuối cùng người ta cũng
đã cố gắng đưa ra một định nghĩa về QLRBV nhằm diễn đạt bản chất của nó, đồng thời
để từ đó xây dựng nên những nguyên tắc cơ bản trong công tác QLRBV.
Khái niệm về QLRBV hình thành từ đầu thế kỷ XVIII, ban đầu chỉ chú trọng
đến khai thác, sử dụng gỗ được lâu dài, liên tục. Cùng với sự tiến bộ của khoa học,
kỹ thuật và phát triển kinh tế - xã hội, QLRBV đã chuyển từ quản lý kinh doanh gỗ
sang quản lý kinh doanh nhiều mặt tài nguyên rừng, quản lý hệ thống sinh thái rừng
và cuối cùng là QLRBV trên cơ sở các tiêu chuẩn, tiêu chí được xác lập chặt chẽ,
$
toàn diện về các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. QLRBV là việc đóng góp
của công tác lâm nghiệp đối với sự phát triển, sự phát triển đó phải mang lại lợi ích
kinh tế, môi trường và xã hội, có thể cân bằng giữa nhu cầu hiện tại và tương lai.
Vào đầu thế kỷ 18, các Nhà lâm học Đức như Harting, GL [59], Heyer, F
[60],… đã đề xuất ra nguyên tắc sử dụng lâu bền đối với rừng thuần loài đều tuổi.
Vào thời điểm này các nhà khoa học người Pháp (Gournand, 1922) và người Thụy
Sỹ (H. Biolley) cũng đã đề ra phương pháp kiểm tra, điều chỉnh sản lượng đối với
rừng đồng tuổi khai thác chọn [58].
Hiện nay đã có nhiều tổ chức đưa ra khái niệm QLRBV như Tổ chức Gỗ
nhiệt đới (ITTO), Hiệp ước Helsinki, Ủy ban Quốc tế về môi trường và phát triển,
Các định nghĩa trên có cách diễn đạt khác nhau nhưng bao gồm hai vấn đề chính là
quản lý rừng ổn định bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra và
đảm bảo sự bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường (Nguyễn Ngọc Lung, 2007)
[31].
Vấn đề đặt ra với QLRBV là như thế nào? đó là công tác quản lý sử dụng đất
đai, tài nguyên rừng nhằm ngăn chặn tình trạng mất rừng do khai thác sử dụng quá
mức mà trong đó việc khai thác lợi dụng tài nguyên rừng không mâu thuẫn với việc
đảm bảo vốn rừng, đảm bảo chức năng tái sản xuất của rừng, đồng thời phát huy
được vai trò chức năng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái bền vững của rừng
đối với con người và thiên nhiên.
Trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, hệ thống quản lý rừng đã tập trung ở nhiều
quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển. Vai trò sự tham gia của cộng
đồng trong quản lý rừng không được chú ý. Mặc dù trong các quy định pháp luật thì
rừng là tài sản của toàn dân nhưng trên thực tế người dân không hề được hưởng lợi từ
rừng, vì vậy họ chỉ biết khai thác rừng để lấy lâm sản và lấy đất canh tác phục vụ cho
nhu cầu sống của chính họ mà cũng không hề quan tâm đến vấn đề xây dựng và bảo
vệ vốn rừng. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp, nhu cầu
lâm sản ngày càng tăng nên trong giai đoạn này tình trạng khai thác quá mức trở
thành nguyên nhân quan trọng của suy thoái nghiêm trọng tài nguyên rừng [43].
7
Từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc gia đã bị giảm
sút nghiêm trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng bào miền núi bị đe dọa
thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích hợp nữa. Người ta
đã tìm mọi cách cứu vãn tình trạng suy thoái rừng thông qua việc ban bố một số
chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng tài
nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất
hiện đầu tiên ở Ấn Độ và dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác nhau
như lâm nghiệp trang trại, lâm nghiệp xã hội (Nêpan, Thái Lan, Philippin, ) (R,
Chambers (1991) [38].
Do diện tích rừng bị suy thoái và canh tác nông nghiệp không bền vững,
FAO (1967 - 1969) đã quan tâm đến phát triển nông lâm kết hợp và trong các
nghiên cứu của mình đã đi đến thống nhất: áp dụng biện pháp nông lâm kết hợp là
phương thức tốt nhất để sử dụng đất rừng nhiệt đới một cách hợp lý, tổng hợp và
nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm và sử dụng lao động dư thừa đồng
thời thiết lập cân bằng sinh thái [50].
1.1.1.3. Các chính sách thu hút người dân tham gia vào công tác quản lý rừng
Nghiên cứu của Ianuskơ K. (1996) cho thấy để duy trì được hiệu quả, tính ổn
định và bền vững của rừng cần phải giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm
cho các khu rừng trồng kinh tế, trong đó cần có kế hoạch xây dựng và phát triển các
nhà máy chế biến lâm sản với các quy mô khác nhau trên cơ sở áp dụng các công cụ
chính sách đòn bẩy để thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào phát triển rừng,
phương thức canh tác phải gắn với kiến thức bản địa và được người dân áp dụng.
Theo Thom R Waggener (2000) để phát triển trồng rừng theo hướng sản xuất
hàng hoá với hiệu quả kinh tế cao không chỉ đòi hỏi phải có sự đầu tư tập trung về
kinh tế và kỹ thuật mà còn phải nghiên cứu làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề có liên
quan đến chính sách và thị trường. Chính vì vậy ở các nước phát triển như Mỹ,
Nhật, Canada, nghiên cứu về kinh tế lâm nghiệp ở cấp quốc gia hiện nay được tập
trung vào 2 vấn đề lớn là thị trường và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Liu Jinlong (2004) [52] dựa trên việc phân tích và đánh giá thực tế đã đưa ra
một số công cụ chủ đạo khuyến khích tư nhân phát triển trồng rừng ở Trung Quốc là:
&
i) Rừng và đất rừng cần được tư nhân hoá.
ii) Ký hợp đồng hoặc cho tư nhân thuê đất lâm nghiệp của Nhà nước.
iii) Giảm thuế đánh vào các lâm sản.
iv) Đầu tư tài chính cho tư nhân trồng rừng.
v) Phát triển hợp tác giữa các công ty lâm nghiệp với người dân để phát triển
trồng rừng.
Những công cụ mà tác giả đề xuất tương đối toàn diện từ quan điểm chung
về quản lý lâm nghiệp, vấn đề đất đai, thuế,… cho tới mối quan hệ giữa các công ty
lâm nghiệp và người dân. Đây có thể nói là những đòn bẩy thúc đẩy tư nhân tham
gia trồng rừng ở Trung Quốc và là những định hướng cho các quốc gia khác, trong
đó có Việt Nam.
Các hình thức khuyến khích trồng rừng cũng được nhiều tác giả trên thế giới
quan tâm nghiên cứu như Narong Mahannop (2004) [53] ở Thái Lan, Ashadi and
Nina Mindawati (2004) [51] ở Indonesia, Cho thấy hiện nay ở các nước Đông Nam
Á, 3 vấn đề được xem là quan trọng, khuyến khích người dân tham gia trồng rừng là:
i) Quy định rõ ràng về quyền sử dụng đất.
ii) Quy định rõ đối tượng hưởng lợi rừng trồng.
iii) Nâng cao hiểu biết và nắm bắt kỹ thuật của người dân.
Đây là những vấn đề mà các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam đã
và đang giải quyết để thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào trồng rừng.
1.1.1.4. Các giải pháp tăng cường quản lý rừng bền vững
Theo thống kê của FAO (2003), trong giai đoạn 1990 - 1995 ở các nước
đang phát triển đã có hơn 65 triệu ha rừng bị mất. Tính đến năm 2000, diện tích
rừng của toàn thế giới, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng chỉ còn 3.869,455 triệu ha,
tỷ lệ che phủ chỉ chiếm 29,6% lãnh thổ.
Đối phó với tình trạng trên, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ chức, đề
xuất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng như: Chiến lược bảo tồn
quốc tế (1980, 1991); Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO năm 1983); Chương trình
hành động của tổ chức Nông lương thực (FAO,1985); Hội nghị của Liên hợp quốc
về môi trường và phát triển (UNCED, Rio de Janeiro, 1992); Công ước về buôn bán
động thực vật quý hiếm (CITES); Công ước về đa dạng sinh học (CBD, 1992); Công
ước về thay đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994); Công ước về chống sa mạc hóa (CCD,
1996); Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTA, 1997) (Phạm Hoài Đức. 1998) [17].
Hiện nay, trên thế giới nhiều nước đã có các bộ tiêu chuẩn QLRBV cấp quốc
gia (Canada, Thụy Điển, Malaysia, Indonesia, ) và cấp quốc tế như tiến trình
Helsinki, tiến trình Montreal. Hội đồng quản trị rừng (FSC) và Tổ chức gỗ nhiệt đới
với bộ tiêu chuẩn QLR của (C&I) được vận dụng ở nhiều nước trên thế giới [18].
Hội nghị lần thứ 18 tháng 9/1998 tại Hà Nội, Các nước trong khu vực Đông
Nam Á đã thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số vùng
ASEAN về QLRBV (viết tắt là C&I ASEAN). Thực chất C&I ASEAN cũng giống
như C&I của ITTO, bao gồm 7 tiêu chí và cũng chia làm 2 cấp quản lý là cấp quốc
gia và cấp đơn vị quản (Phạm Hoài Đức, 1999) [16]. Theo FSC Newsletter số 4
ngày 04/6/2007, đã có 818 chứng chỉ QLRBV được cấp cho 81 quốc gia với tổng
diện tích 90.784.799 ha và 5.646 chứng chỉ chuỗi hành trình (CoC) cấp cho các
doanh nghiệp chế biến gỗ tại 78 nước [31], trong đó những cánh rừng đầu tiên ở
Đông Dương được nhận chứng chỉ FSC vào ngày 29/02/2006 là hai khu rừng tự
nhiên ở Trung Lào [1].
1.1.2. Ở Việt Nam
1.1.2.1. Đánh giá tác động xã hội của các hoạt động sản xuất lâm nghiệp
QLRBV chỉ đạt được khi dung hoà được 3 yếu tố: kinh tế, môi trường và xã
hội. Trong một chừng mực nào đó, yếu tố xã hội chính là yếu tố quyết định, tác
động trực tiếp lên các yếu tố khác, đặc biệt ở nước ta khi cơ chế, chính sách về
QLRBV vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện.
Tiêu biểu là chương trình Lâm nghiệp Việt Nam - Cộng hòa Liên bang Đức
(2007), trong chương trình hoạt động đã tiến hành lập các báo cáo tư vấn đánh giá
tác động ở một số lâm trường tại Việt Nam [12], [13], [14], [15].
Trên thực tế rất nhiều lâm trường, các công ty lâm nghiệp hoạt động yếu kém
đối với các vấn đề xã hội, không giải quyết triệt để những bất đồng giữa lợi ích đơn
vị với lợi ích cộng đồng. Người dân sống tại khu vực rừng phải chịu ảnh hưởng bởi
những tác động tiêu cực trong khi các hoạt động quản lý rừng không thể mang lại
lợi ích và đảm bảo những nhu cầu tối thiểu của họ. Do vậy, việc tiến hành đánh giá
tác động xã hội nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra của hoạt động quản lý rừng là vấn
đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay đối với mỗi lâm trường (Nguyễn Minh Hằng,
Vũ Năm, 2006)[22].
Ở Việt Nam, “đánh giá tác động” được quan tâm chú ý nhiều từ khi đổi mới,
đặc biệt trong các dự án phát triển; đánh giá dự án không chỉ được đánh giá qua các
tiêu chí phân tích tài chính mà nó còn bao gồm cả những tiêu chí đánh giá về hiệu
quả xã hội và môi trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh chuyển đổi sang kinh tế thị
trường, đánh giá hiệu quả kinh tế thường được chú trọng hơn. Mặc dù vậy, môi
trường và xã hội cũng tác động không nhỏ đến quá trình sản xuất kinh doanh nhất là
trong kinh doanh lâm nghiệp, vì vậy giai đoạn hiện nay để QLRBV người ta tiến
hành đánh giá cả tác động về kinh tế, môi trường và xã hội.
Phạm Xuân Thịnh (2002) [47], Đàm Đình Hùng (2003) [26] đã đề cập đến một
số tác động của dự án về mặt kinh tế, xã hội và môi trường, đúc kết các kinh nghiệm,
rút ra những mặt làm được và những mặt còn tồn tại làm cơ sở định hướng phát triển ở
giai đoạn hậu dự án và cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy
nhiên, các báo cáo mới chỉ mô tả các hoạt động của dự án, còn đánh giá tác động của
dự án mang nhiều tính chất định tính cảm quan hơn là các số liệu định lượng.
Lại Thị Nhu (2004) khi nghiên cứu “Đánh giá tác động của dự án trồng
rừng nguyên liệu ván dăm giai đoạn 1999 - 2003 của Công ty Lâm nghiệp Thái
Nguyên”[34] đã đánh giá về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường, quá trình đánh
giá có sử dụng các chỉ tiêu chỉ báo, có sự so sánh các lĩnh vực trước và sau dự án.
Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại ở những tác động tích cực mà chưa đi sâu phân
tích những tác động tiêu cực của dự án.
Võ Đại Hải, (2005) [21] đã nghiên cứu về “Hình hưởng của giao đất, giao
rừng tới phát triển rừng trồng sản xuất ở các tỉnh miền núi phía Bắc”.
Nguyễn Minh Hằng, Vũ Nam (2006) [22] trong công trình đánh giá tác động
xã hội tại lâm trường Trường Sơn, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình đã xác định
được các nhóm liên quan đến hoạt động quản lý rừng, các hoạt động sử dụng rừng
chủ yếu của người dân bản địa và nhu cầu của các nhóm liên quan trong phạm vi
*
lâm trường. Tuy nhiên, nghiên cứu không chỉ ra những chỉ số, chỉ tiêu và tiêu chuẩn
cụ thể về mặt xã hội nào đã phù hợp và chưa phù hợp với bộ tiêu chuẩn QLRBV
của Hội đồng quản trị rừng quốc tế FSC làm cơ sở để đề xuất một số giải pháp
nhằm QLRBV và tiến tới cấp chứng chỉ rừng cho đơn vị.
Nguyễn Văn Sản, Lê Khắc Côi (2007) [41] đã thực hiện việc đánh giá tác
động kinh tế - xã hội tại công ty lâm sản xuất khẩu (Forexco) tỉnh Quảng Nam và
chỉ ra sự phù hợp và chưa phù hợp của từng tiêu chí, chỉ số và tiêu chuẩn trong bộ
tiêu chuẩn QLRBV của Hội đồng quản trị rừng quốc tế FSC từ đó đề xuất hệ thống
các giải pháp nhằm hoàn chỉnh các tiêu chí tiến tới QLRBV và cấp chứng chỉ rừng.
Tuy nhiên, những đánh giá tác động chỉ dựa theo các chỉ số của bộ tiêu chuẩn,
những giải pháp đề xuất chỉ đặt trong tình huống cụ thể ở hiện tại mà chưa có
những dự báo, phân tích xu hướng thay đổi các yếu tố xã hội nhằm đề xuất các giải
pháp và những công việc ưu tiên trong tiến trình QLRBV và cấp chứng chỉ rừng.
1.1.2.2. Nghiên cứu về quản lý rừng bền vững
Theo Nguyễn Ngọc Lung (1998) [31], thì công tác quản lý sử dụng tài nguyên
rừng ở Việt Nam từ trước tới nay được chia thành 3 thời kỳ theo quá trình phát triển
của lịch sử cũng như quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước như sau:
- Thời kỳ trước năm 1945: Toàn bộ rừng nước ta là rừng tự nhiên đã được
chia theo các chức năng để quản lý sử dụng:
Rừng chưa quản lý: Là những diện tích rừng ở những vùng núi hiểm trở, dân
cư thưa thớt. Nhà nước thực dân chưa có khả năng quản lý, người dân được
tự do sử dụng lâm sản, đốt nương làm rẫy. Việc khai thác lâm sản đang ở
mức tự cung tự cấp, lâm sản chưa trở thành hàng hóa.
Rừng mở để kinh doanh: Là những diện tích rừng ở vùng có dân cư và đường
giao thông thuận lợi cho vận chuyển lâm sản. Những diện tích này được chia
thành các đơn vị như khu, sau khu là các lô khai thác, việc khai thác được tiến
hành theo chu kỳ sản lượng.
Rừng cấm: Là những diện tích rừng sau khai thác, cần được bảo vệ để tái
sinh trong cả chu kỳ theo vòng quay điều chế.
Nhìn chung, trong thời kỳ trước 1945 tài nguyên rừng Việt Nam còn phong
phú, nhu cầu lâm sản nói chung của con người còn thấp, rừng bị khai thác lợi dụng
tự do. Mức độ tác động của con người vào rừng còn ít, tài nguyên rừng còn khá
phong phú, vấn đề QLRBV chưa được đặt ra (Nguyễn Ngọc Lung, 2007) [32].
- Thời kỳ từ năm 1946 - 1990: với sự ra đời của ngành Lâm nghiệp các hoạt
động của ngành đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Ngay sau hoà bình lập lại,
toàn bộ diện tích rừng và đất rừng ở miền Bắc được quy hoạch vào các lâm trường
quốc doanh. Nhiệm vụ chủ yếu là khai thác lâm sản để phục vụ cho nhu cầu phát
triển của các ngành kinh tế. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển vốn rừng tuy có đặt ra
nhưng chưa được các đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp quan tâm đúng mức.
Giai đoạn từ 1946 - 1960 công tác bảo vệ rừng chủ yếu là khoanh nuôi bảo
vệ, hướng dẫn nông dân miền núi sản xuất trên nương rẫy, ổn định công tác
định canh định cư, khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
Giai đoạn 1961 - 1975 QLBVR được đẩy mạnh, khoanh nuôi tái sinh rừng gắn
với công tác định canh định cư. Khai thác rừng đã chú ý đến thực hiện theo quy
trình, quy phạm, đảm bảo xúc tiến tái sinh tự nhiên.
Giai đoạn 1976 - 1989 bảo vệ rừng gắn liền với việc tu bổ, khoanh nuôi,
trồng rừng, gắn chặt công tác quản lý bảo vệ với việc đầu tư nghiên cứu ứng
dụng KHCN vào việc xây dựng hệ thống rừng đặc dụng, rừng phòng hộ,
rừng sản xuất (Nguyễn Ngọc Lung, 2007) [32].
- Thời kỳ từ năm 1991 đến nay: Ngành lâm nghiệp nước ta chuyển đổi cơ chế
quản lý lâm nghiệp Nhà nước sang Lâm nghiệp xã hội, gắn với định hướng phát
triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Hệ thống và tính
chất quản lý ngành cũng đã có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu quản lý tài
nguyên rừng tổng hợp, đa ngành, đa mục tiêu; Hàng loạt các chủ trương, chính sách
mới được ban hành, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của ngành Lâm nghiệp và
quản lý tài nguyên rừng bền vững.
Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 12/1998 hội thảo Quốc gia về QLRBV do Bộ
Nông nghiệp & PTNT, WWF Đông Dương, Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan tại Hà
Nội và Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC) đồng tài trợ đã được tổ chức tại thành phố
Hồ Chí Minh. Có nhiều báo cáo, thảo luận về khái niệm QLRBV, đánh giá hiện trạng
về rừng và quản lý sản xuất lâm nghiệp tại Việt Nam, Kết quả hội thảo đã thống nhất
thành lập Tổ công tác quốc gia về QLRBV và CCR (NWG) và đề xuất chương trình
hoạt động trong 5 năm đầu tiên [4]. Nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động
QLRBV và cấp chứng chỉ rừng ở nước ta, tháng 6/2006 Viện Quản lý rừng bền vững
và chứng chỉ rừng (trực thuộc Hội KHKT lâm nghiệp Việt Nam) được thành lập.
Vũ Nhâm (2001 - 2004) [33] đã thực hiện đề tài nghiên cứu và xây dựng được
“Hướng dẫn tổ chức đánh giá rừng theo tiêu chuẩn quản lý rừng bền vững quốc gia”
nhằm hỗ trợ cho 10 lâm trường thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT ký cam kết thực hiện
phương án QLRBV.
Hướng tới mục tiêu thực hiện QLRBV, Viện QLRBV và chứng chỉ rừng cùng
với các chuyên gia hàng đầu trong và ngoài nước đã nhóm họp nhằm xây dựng Bộ
tiêu chuẩn QLRBV cho Việt Nam, đến nay đã hoàn thành phiên bản 9C. Những tiêu
chuẩn, tiêu chí này dựa trên cơ sở điều chỉnh, bổ sung những tiêu chuẩn, tiêu chí của
FSC quốc tế, có sử dụng nhiều ý kiến đóng góp của các nhà quản lý và các nhà khoa
học lâm nghiệp trong nước và quốc tế để đảm bảo những tiêu chuẩn quốc tế vừa phù
hợp với điều kiện Việt Nam và được ban giám đốc FSC quốc tế phê duyệt [48]. Do
những tiêu chuẩn và tiêu chí áp dụng chung trong toàn quốc, đồng thời phải phù hợp
với tiêu chuẩn, tiêu chí quốc tế nên việc áp dụng không thể phù hợp với mọi trường
hợp và mọi điều kiện của từng địa phương. Vì vậy, khi áp dụng các tiêu chuẩn, tiêu
chí cần có sự mềm dẻo trong một phạm vi nhất định nào đó, vừa được các tổ chức
chứng chỉ rừng quốc tế FSC và FSC quốc gia chấp nhận.
1.1.2.3. Các chính sách thu hút người dân tham gia vào công tác quản lý rừng
Từ sau khi đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp Nhà nước đã ban hành
hàng loạt chính sách về đất đai, đầu tư, tín dụng,… đã có tác động mạnh tới phát
triển sản xuất lâm nghiệp ở Việt Nam.
- Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (1998), Quyết định 661/QĐ - TTg
ngày 29 tháng 07 năm 1998 về mục tiêu nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện
dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. [9]
- Nghị định 01/CP; 02/CP; 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về giao đất,
cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài vào mục đích lâm nghiệp [10].
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng sửa đổi (2004).
- Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2020 [3].
- Luật khuyến khích đầu tư trong nước, nghị định 43/1999/NĐ - CP, nghị
định 50/1999/NĐ-CP,
- Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 bổ sung Luật Đất đai năm (1998, 2001).
- Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 02/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản [6].
- Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 [6] của Chính phủ về việc quản
lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
- Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng [8]. Quyết định số 34/2011/QĐ-
TTg ngày 24/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi bổ xung một số điều
quy chế quản lý rừng ban hành kèm theo Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14
tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ.
- Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg, ngày 10/9/2007 của Thủ tướng Chính
phủ về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007 - 2015. Quyết
định số 167/2008/QĐ-TTg, ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính
sách hộ trợ hộ nghèo về nhà ở [11]. Nghị định số 200/2004/NĐ-CP của Chính phủ: về
sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh [7].
Song song với việc ban hành các văn bản pháp quy trên, ngành lâm nghiệp
nước ta cũng tham gia nhiều hoạt động hướng tới QLRBV như:
- Hưởng ứng phong trào Quốc tế “Rừng vì con người”, tháng 6/1997 Bộ
NN&PTNT đã ký cam kết bảo tồn ít nhất 10% diện tích rừng gồm các hệ sinh thái
rừng hiện có và cùng cộng động đồng Quốc tế, Việt Nam sẽ tham gia thị trường lâm
sản bằng các sản phẩm được dán nhãn là khai thác hợp pháp trong các khu rừng đã
được cấp chứng chỉ trong khối AFTA và WTO [5].
- Ngay sau khi Việt Nam gia nhập khối ASEAN (1995), nhu cầu hợp tác về
QLRBV trong khối đã trở thành một trong các nội dung chính trong các cuộc họp
thường niên. Qua nhiều cuộc thảo luận nhằm xây dựng hệ thống tiêu chuẩn QLRBV
cho ASEAN và đẩy mạnh việc thực hiện QLRBV trong mỗi nước thành viên. Việt
Nam nổi lên là nước có nhu cầu cấp thiết phải quản lý rừng bền vững khi nguồn tài
nguyên rừng trong nước đã trở nên cạn kiệt.
Nhà nước đã tiến hành quy hoạch lâm phận trong phạm vi cả nước và từng địa
phương, phân chia rừng theo mục đích sử dụng. Đã tiến hành giao đất, giao rừng cho
các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Từng bước thực hiện mỗi mảnh đất, khu rừng đều có chủ cụ thể và hướng tới xã hội
hoá nghề rừng. Chính sách giao khoán rừng và đất lâm nghiệp đã thu hút mọi nguồn
nhân lực, vật lực cùng kinh doanh có hiệu quả rừng và đất rừng được giao.
Nghiên cứu về kinh tế và chính sách phát triển trồng rừng kinh tế ở Việt
Nam trong thời gian gần đây cũng đã được quan tâm nhiều hơn, song cũng chỉ tập
trung vào một số vấn đề như: phân tích và đánh giá hiệu quả kinh tế của cây trồng,
sử dụng đất lâm nghiệp và một số nghiên cứu nhỏ về thị trường. Các công trình
quan trọng có thể kể đến là:
- Đỗ Doãn Triệu (1997) [44] đã nghiên cứu xây dựng một số luận cứ khoa
học và thực tiễn góp phần hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư nước
ngoài vào trồng rừng nguyên liệu công nghiệp.
- Võ Nguyên Huân (1997) [24] “Đánh giá hiệu quả giao đất giao rừng ở
Thanh Hoá”, nghiên cứu các loại hình chủ rừng sản xuất và khuyến nghị các giải
pháp chủ yếu nhằm phát huy nội lực của chủ rừng trong quản lý và sử dụng bền
vững. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra những khó khăn và hạn chế của chính sách giao
đất khoán rừng và đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giao đất lâm
nghiệp và khoán bảo vệ rừng.
- Vũ Long (2000) [30] “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sau khi giao và khoán
đất lâm nghiệp ở các tỉnh miền núi phía Bắc”;
- Đỗ Đình Sâm, Lê Quang Trung (2003) [40]. “Đánh giá hiệu quả trồng rừng
công nghiệp ở Việt Nam”. Viện Khoa học Lâm Nghiệp Việt Nam.
$
Phạm Xuân Phương (2003) [35] đã rà soát các chính sách liên quan đến rừng
như chính sách về đất đai, đầu tư tín dụng tuy nhiên cũng chỉ rõ các chủ trương,
chính sách là rất kịp thời, có ý nghĩa, nhưng trong quá trình triển khai thực hiện còn
gặp nhiều bất cập. Tác giả cũng định hướng hoàn thiện các chính sách để có quy
hoạch tổng thể cho vùng trồng rừng nguyên liệu, chủ rừng có thể vay vốn trồng
rừng đảm bảo có lợi nhuận, đảm bảo rừng được trồng với tập đoàn giống tốt.
Nguyễn Xuân Quát, Nguyễn Hồng Quân và Phạm Quang Minh, (2003) [36]
Cho thấy thực trạng trồng rừng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến gỗ và
lâm sản trong thời gian qua đã thu được một số kết quả đáng kể nhưng cũng còn
nhiều vấn đề cần giải quyết như: diện tích rừng trồng sản xuất hàng năm chỉ đạt
50% kế hoạch, các cơ sở chế biến còn ở xa vùng nguyên liệu, chính sách còn chưa
đồng bộ.
Đỗ Kim Chung (2003) [37], đã tiến hành đề tài, Nghiên cứu đề xuất chính
sách và phương thức thúc đẩy chuyển giao kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp
vùng miền núi và trung du phía Bắc, Việt Nam giai đoạn 2002-2005. Lê Quang
Trung, Cao Lâm Anh, Trần Việt Trung (2000), qua quá trình nghiên cứu và phân
tích các chính sách khuyến khích trồng rừng Thông nhựa đã đưa ra 10 khuyến nghị
rất sát thực định hướng phát triển loại rừng này [45].
Nhìn chung, các nghiên cứu đã tập trung vào các vấn đề bức xúc nhất của
kinh tế - chính sách phát triển lâm nghiệp hiện nay và bước đầu đã giải quyết được
những vấn đề thực tế đặt ra. Tuy nhiên, do quy mô và phạm vi nghiên cứu nhỏ, các
khía cạnh được quan tâm hẹp, vấn đề thị trường ít được chú ý nên giá trị vận dụng
của các giải pháp và đề xuất thấp. Việc xây dựng hệ thống chính sách phù hợp để
thu hút người dân tham gia vào công tác phát triển rừng, xoá đói giảm nghèo bằng
nghề rừng trên chính mảnh đất họ được giao vẫn còn là những thách thức nhằm giải
quyết yêu cầu của sản xuất lâm nghiệp là hiệu quả và bền vững.
1.1.2.4. Các giải pháp nhằm tăng cường quản lý rừng bền vững
Mặc dù còn khá mới mẻ song QLRBV và chứng chỉ rừng cũng rất được quan
tâm. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau::
7
- Phạm Đức Lân và Lê Huy Cường (1998): Quản lý sử dụng tài nguyên rừng
trên lưu vực sông Sê San [29].
- Hồ Viết Sắc (1998): Quản lý bảo vệ rừng khộp ở Easup - Đắc Lắc [42].
- Đỗ Đình Sâm (1998): Du canh với vấn đề QLRBV ở Việt Nam [39].
- Lại Hữu Hoàn (2003): Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý sử
dụng tài nguyên rừng bền vững tại xã Hương Lộc, huyện Nam Động, tỉnh Thừa
Thiên - Huế [23].
- Lê Văn Hùng (2004): Nghiên cứu cơ sở và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các
giải pháp quy hoạch quản lý rừng bền vững tại lâm trường Ba Rền - công ty lâm
nghiệp Long Đại - tỉnh Quảng Bình [25].
- Nhữ Văn Kỳ (2005): Nghiên cứu một số giải pháp quản lý sử dụng tài
nguyên rừng bền vững tại khu vực rừng phòng hộ hồ Cấm Sơn, huyện Lục Ngạn,
tỉnh Bắc Giang [27].
- Nguyễn Tiến Thành (2007): Quy hoạch kinh doanh rừng theo tiêu chuẩn
QLRBV tại lâm trường Yên Sơn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang [43].
- Phương án quản lý rừng của công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp Bảo
Yên tỉnh Lào Cai [49]
Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ và Bộ NN&PTNT cũng đã có nhiều
tổ chức và dự án quốc tế hỗ trợ quá trình hướng tới QLRBV ở Việt Nam. Tiêu biểu
là Chương trình Hỗ trợ Quản lý và Sử dụng rừng bền vững (GTZ) với các hoạt
động: Lập bản đồ và phân vùng chức năng rừng trong môi trường quy hoạch quản
lý rừng tự nhiên của các lâm trường quốc doanh (tháng 11 năm 2006) với hoạt
động; Tổ chức hội thảo xây dựng kế hoạch và thực hiện QLRBV (tháng 5 năm
2007) [20]; Hướng dẫn xây dựng Phương án QLR tại các Lâm trường điểm [19].
Những nghiên cứu trên có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần hướng tới
QLRBV của các địa phương và thể hiện được sự cam kết của Việt Nam với cộng
đồng quốc tế trong vấn đề QLRBV. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những nghiên cứu
mang tính chất về cơ sở lý luận chưa phân tích được các yếu tố ảnh hưởng đến quản
&