Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ mô HÌNH TRỒNG THẢO QUẢ (AMOMUM AROMATICUM ROXB) dưới tán RỪNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.87 MB, 95 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu 2
2.1. Mục tiêu chung 2
3. Giới hạn của đề tài 2
4. Ý nghĩa đề tài 2
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 3
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 3
1.1.1.Trên thế giới 3
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam 9
1.1.3. Thảo quả và những nghiên cứu phát triển 17
1.2. Tổng quan khu vực nghiên cứu 21
1.2.1. Điều kiện tự nhiên 21
1.2.2. Tài nguyên rừng 25
1.2.3. Điều kiện kinh tế xã hội 26
Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 29
2.1. Nội dung nghiên cứu 29
2.2. Phương pháp nghiên cứu 29
2.2.1. Quan điểm và cách tiếp cận của đề tài 29
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 29
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 34
3.1. Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên đến quá trình sinh trưởng,
phát triển và hiệu quả mô hình trồng thảo quả tại xã Quan Thần Sán 34
3.1.1. Đặc điểm cấu trúc rừng nơi trồng thảo quả 34
3.1.2. Đặc điểm đất nơi trồng thảo quả 38
3.1.3. Đặc điểm hình thái và sinh trưởng của thảo quả ở khu vực nghiên
cứu 39


3.1.3.3. Quan hệ giữa sinh trưởng và năng suất của thảo quả 45
3.1.3.4. Ảnh hưởng của một số yếu tố hoàn cảnh đến sinh trưởng và năng
suất của thảo quả 49
3.2. Đánh giá hiệu quả mô hình trồng thảo quả dưới tán rừng tại xã Quan
Thần Sán 62
3.2.1. Năng suất, sản lượng thảo quả 62
3.2.2. Chất lượng thảo quả 63
3.2.3. Thị trường tiêu thụ 64
i
3.2.4. Chính sách khuyến khích phát triển thảo quả 64
3.2.5. Đánh giá hiệu quả của mô hình trồng Thảo quả tại xã Quan Thần
Sán 65
3.3. Phân tích SWOT và các bên liên quan trong việc tham gia công tác
trồng thảo quả tại xã Quan Thần Sán 67
3.4. Một số giải pháp nâng cao sinh trưởng và năng suất của thảo quả ở
Quan Thần Sán 67
3.4.1. Lựa chọn lập địa trồng thảo quả 68
3.4.2. Điều chỉnh độ tàn che nâng cao sinh trưởng và năng suất thảo quả
75
3.4.3. Cải thiện độ ẩm đất bằng biện pháp dẫn nước truyền thống 76
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 78
1. Kết luận 78
2. Tồn tại 79
3. Khuyến nghị 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
D1.3 Đường kính ở vị trí 1 mét 3
D Đường kính
Dla Đường kính lá

Ds Chỉ số đa dạng thực vật
H Chiều cao cây
ha Đơn vị tính diện tích
Hdc Chiều cao dưới cành
Hvn Chiều cao vút ngọn
HĐBT Hội đồng bộ trưởng
G Tiết diện ngang
DC Độ cao so với mặt nước biển
N Số cây
NS Năng suất
MT Môi trường
TC Độ tàn che
TB Trung bình
MUN Mùn
M Trữ lượng
T Tồn tại
t
o
Nhiệt độ
Rla Chiều rộng lá
pH Độ chua
UBND Uỷ ban nhân dân
SWOT Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức
Ws Độ ẩm
SPSS Phần mềm
X Độ xốp

iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Số liệu khí hậu của khu vực Bắc Hà - Si Ma Cai 23

Bảng 3.1. Các chỉ tiêu điều tra rừng ở nơi trồng thảo quả 34
Bảng 3.2. Chỉ tiêu điều tra rừng ở nơi trồng thảo quả dưới rừng tự
nhiên 35
Bảng 3.3. Thành phần loài thực vật tại Quan Thần Sán 37
Bảng 3.4. Một số tính chất lý hoá học của đất ở các khu vực trồng thảo
quả thuộc xã Quan Thần Sán huyện Si Ma Cai 38
Bảng 3.5. Các chỉ tiêu sinh trưởng của thảo quả tại Quan Thần sán 41
Bảng 3.6. Phương trình liên hệ giữa chiều cao với đường kính, số lá,
chiều rộng lá, chiều dài lá của thảo quả 45
Bảng 3.7. Sinh trưởng và năng suất thảo quả của 40 bụi cây mẫu 46
Hình 3.17: Biều đồ liên hệ giữa chiều cao thảo quả và độ xốp đất 59
Hình 3.18: Biểu đồ liên hệ giữa chiều cao thảo quả và độ dày tầng đất
61
Bảng 3.8. Thu nhập bình quân của nhóm hộ tham gia trồng Thảo quả
65
Bảng 3.9. Bảng tổng hợp thu nhập từ trồng cây Thảo quả xã Quan
Thần Sán 65
Bảng 3.10: Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức 67
Bảng 3.11. Phân cấp độ cao địa hình cho trồng thảo quả 69
Bảng 3.12. Phân cấp độ xốp lớp đất mặt cho trồng thảo quả 70
Bảng 3.13. Phân cấp hàm lượng mùn của lớp đất mặt cho trồng thảo
quả 71
Bảng 3.14. Phân cấp độ dày tầng đất cho trồng thảo quả 72
Bảng 3.15. Phân cấp độ ẩm đất cho trồng thảo quả 72
Bảng 3.16. Phân cấp độ chua đất cho trồng thảo quả 73
Bảng 3.17. Phân cấp lập địa cho trồng thảo quả Quan Thần Sán 74
Bảng 3.18. Phân cấp độ tàn che tầng cây cao cho trồng thảo quả 75
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Biểu đồ vũ nhiệt Gaussen Walter 24

Bảng 1.2. Các loại đất đai trong xã Quan Thần sán 26
Hình 3.1. Ảnh thảo quả trồng tại ô tiêu chuẩn số 1, Quan Thần Sán
35
Hình 3.2. Ảnh thảo quả trồng tại ô tiêu chuẩn số 2, Quan Thần Sán
36
Hình 3.3. Ảnh cây thảo quả ( Amomum aromaticum Robx.) 40
Hình 3.4. Ảnh rễ và mầm thảo quả 40
Hình 3.5: Biểu đồ liên hệ giữa chiều cao và đường kính thảo quả. .43
Hình 3.6: Biểu đồ liên hệ giữa chiều cao và số lá thảo quả 44
Hình 3.7: Biểu đồ liên hệ giữa chiều cao và chiều rộng lá thảo quả44
Hình 3.8: Biểu đồ liên hệ giữa chiều cao và chiều dài phiến lá 45
Hình 3.9: Biểu đồ liên hệ giữa năng suất và chiều cao thảo quả 47
Hình 3.10: Biểu đồ liên hệ giữa năng suất và đường kính thảo quả 48
Hình 3.11: Biểu đồ liên hệ giữa chiều cao của thảo quả với độ cao
địa hình 50
Hình 3.12: Biểu đồ liên hệ giữa chiều cao thảo quả và độ tàn che
tầng cây cao 51
Hình 3.13: Biều đồ liên hệ giữa chiều cao thảo quả và độ ẩm đất 53
Hình 3.14: Biểu đồ liên hệ giữa chiều cao thảo quả và hàm lượng
mùn đất 55
Hình 3.15: Ảnh đo, đếm chỉ tiêu cây thảo quả 57
Hình 3.16: Biểu đồ liên hệ giữa chiều cao thảo quả và độ pH đất 57
v
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, vai trò của rừng ngày càng được nhận thức rõ hơn bao
giờ hết. Rừng cung cấp gỗ và lâm đặc sản quý phục vụ cho nhu cầu cuộc sống
của hàng triệu đồng bào miền núi. Rừng là nơi nuôi dưỡng nguồn nước, bảo vệ
đất, chống xói mòn, làm sạch môi trường và mang giá trị văn hoá, tinh thần. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của xã hội, sự bùng nổ của dân số thế giới, rừng ngày càng bị thu

hẹp về diện tích, giảm sút về chất lượng. Nguyên nhân chủ yếu của mất rừng là sự can
thiệp thiếu hiểu biết của con người. Với điều kiện sống nghèo đói người ta đã khai thác
rừng một cách quá khả năng phục hồi của nó.
Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng một trong những giải pháp tốt nhất
cho bảo vệ và phát triển rừng là kinh doanh lâm sản ngoài gỗ. Nó cho phép tạo
được nguồn thu nhập kinh tế ổn định cho người dân miền núi trong khi vẫn bảo vệ
và phát triển được rừng. Kinh doanh lâm sản ngoài gỗ đang nhận được sự hưởng
ứng tích cực của người dân miền núi.
Thảo quả là loài cây cho lâm sản ngoài gỗ có thân thảo, sống lâu năm dưới tán
rừng. Chiều cao trung bình có thể đạt đến 2-3m. Hạt thảo quả được dùng làm dược
liệu và thực phẩm có giá trị. Trong những năm gần đây thảo quả đã được xuất khẩu ra
nước ngoài với sản lượng hàng trăm tấn mỗi năm. Nó đã trở thành nguồn thu nhập
quan trọng của nhiều hộ gia đình vùng cao ở các tỉnh Yên Bái, Hà Giang, Lào Cai.
Thảo quả cũng là loài cây chỉ có thể sinh trưởng, phát triển và cho năng suất
cao khi sống dưới tán rừng. Do đó, để trồng và phát triển thảo quả đòi hỏi người
dân phải bảo vệ và phát triển rừng. Vì vậy, thảo quả đã được đánh giá như một yếu
tố quan trọng vừa góp phần phát triển kinh tế xã hội vùng cao, vừa góp phần bảo vệ,
phát triển bền vững tài nguyên rừng.
Với nhận thức trên, Nhà nước đã có chủ trương khuyến khích các địa
phương gây trồng thảo quả. Nhà nước không chỉ tuyên truyền về giá trị kinh tế
và sinh thái của thảo quả, mà còn quy hoạch vùng sản xuất thảo quả, xây dựng các
mô hình trình diễn, cho vay vốn gây trồng và cho phép xuất khẩu thảo quả v.v
1
Tuy nhiên, do chưa hiểu biết đầy đủ về đặc điểm sinh thái của thảo quả mà
việc gây trồng và phát triển loài cây này đang gặp không ít khó khăn. Trong một số
trường hợp, do gây trồng trên điều kiện lập địa không thích hợp người ta đã làm
giảm sinh trưởng và năng suất của thảo quả. Mặt khác do người dân khai thác gỗ và
mở rộng tán rừng một cách quá mức. Để góp phần giải quyết tồn tại trên tôi thực hiện
đề tài: "Đánh giá hiệu quả hiệu quả mô hình trồng thảo quả (Amomum aromaticum
Roxb.) dưới tán rừng tại xã Quan Thần Sán – huyện Si Ma Cai – Lào Cai làm cơ

sở đề xuất các giải pháp phát triển bền vững".
2. Mục tiêu
2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của đề tài là tìm hiểu ảnh hưởng của một số yếu tố hoàn cảnh đến
sinh trưởng và năng suất của thảo quả góp phần xây dựng cơ sở khoa học đề xuất các
giải pháp phát triển bền vững ở xã Quan Thần Sán, huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Xác định được quan hệ định lượng giữa sinh trưởng và năng suất của thảo quả
với một số yếu tố hoàn cảnh. Đề xuất được một số giải pháp kỹ thuật chủ yếu
góp phần nâng cao sinh trưởng và năng suất của thảo quả ở khu vực nghiên cứu.
3. Giới hạn của đề tài
Về đối tượng: đối tượng nghiên cứu của đề tài là loài cây thảo quả 7 tuổi
được trồng phổ biến tại xã Quan Thần Sán huỵên Si Ma Cai.
Về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố hoàn
cảnh dễ xác định, có ảnh hưởng đến nhiều yếu tố hoàn cảnh khác như: (đặc điểm
cấu trúc rừng, độ cao so với mặt biển, độ dốc, độ ẩm đất, độ xốp, độ dày tầng đất,
độ pH, hàm lượng mùn trong đất) và đánh giá hiệu quả mô hình trồng thảo quả dưới
tán rừng (Hiệu quả kinh tế, hiệu quả môi trường và hiệu quả xã hội).
4. Ý nghĩa đề tài
Thông qua kết quả nghiên cứu giúp cho tác giả có một phương pháp nghiên
cứu, tổng hợp và viết báo cáo. Kết quả đề tài là nguồn tư liệu quan trọng để người
dân trồng thảo quả tham khảo, nhằm nâng cao năng xuất hiệu quả Thảo quả dưới
tán rừng trên địa bàn nghiên cứu.
2

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1.Trên thế giới
1.1.1.1. Khái niệm về lâm sản ngoài gỗ

Trước đây, người ta coi gỗ là sản phẩm chính của rừng, còn các lâm sản khác
như song, mây, dầu, nhựa, sợi, lương thực, thực phẩm, dược liệu v.v do có khối
lượng nhỏ lại ít được khai thác, nên thường coi là sản phẩm phụ của rừng. Người ta
gọi chúng là lâm sản phụ (minor forest products) hoặc đặc sản rừng (special forest
products). Trong những thập kỷ gần đây, rừng bị tàn phá mạnh, gỗ trở nên hiếm và
sử dụng ít dần, nhiều nguyên liệu khác như kim loại và các chất tổng hợp dần dần
thay thế gỗ trong công nghiệp và các ngành khác. Trong khi đó các "Lâm sản phụ"
được sử dụng ngày càng nhiều hơn và với những chức năng đa dạng hơn. Một số
nghiên cứu gần đây đó cho thấy nếu được quản lý tốt thì nguồn lợi từ “Lâm sản
phụ” hoàn toàn không nhỏ, đôi khi còn lớn hơn cả gỗ. Vì vậy, để khẳng định vai trò
của các "Lâm sản phụ" người ta đó sử dụng một thuật ngữ mới thay cho nó là "Lâm
sản ngoài gỗ" ("Non- timber forest products" hay "Non-wood forest products").
Các nhà khoa học đã đưa ra những khái niệm khác nhau về lâm sản ngoài gỗ.
Theo Jenne.H. de Beer (1992)[39] “Lâm sản ngoài gỗ được hiểu là toàn bộ động
vật, thực vật và những sản phẩm khác ngoài gỗ của rừng được con người khai thác
và sử dụng”. Năm (1994)[48], trong hội nghị các chuyên gia lâm sản ngoài gỗ của
các nước vùng Châu Á - Thái Bình Dương họp tại Bangkok, Thái Lan đã thông qua
khái niệm về lâm sản ngoài gỗ như sau:
"Lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các sản phẩm cụ thể, có thể tái tạo, ngoài
gỗ, củi và than. Lâm sản ngoài gỗ được khai thác từ rừng, đất rừng hoặc từ các cây
thân gỗ. Vì vậy, các sản phẩm như cát, đá, nước, du lịch sinh thái không phải là các
lâm sản ngoài gỗ". Để có một khái niệm chung và thống nhất, hội nghị do tổ chức
Nông lương thế giới tổ chức vào tháng 6/1999 đã đưa ra khái niệm về lâm sản ngoài
3

gỗ như sau: "Lâm sản ngoài gỗ bao gồm những sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác
gỗ, được khai thác từ rừng, đất có rừng và các cây thân gỗ".
Sau nhiều năm nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ Jenne.H. de Beer (1992)[39]
đó bổ sung khái niệm lâm sản ngoài gỗ. Theo ông "Lâm sản ngoài gỗ bao gồm các
nguyên liệu có nguồn gốc sinh vật, không phải là gỗ, được khai thác từ rừng để

phục vụ con người. Chúng bao gồm thực phẩm, thuốc, gia vị, tinh dầu, nhựa, nhựa
mủ, ta nanh, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã (động vật sống hay các sản
phẩm của chúng), củi và các nguyên liệu thô như tre, nứa, mây, song, gỗ nhỏ và
sợi". Theo khái niệm này của Jenne.H. de Beer là đơn giản, dễ sử dụng nhưng khác
với hầu hết các khái niệm trước đây là ông đã đưa củi vào nhóm lâm sản ngoài gỗ.
1.1.1.2. Nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ
- Về tính đa dạng của lâm sản ngoài gỗ:
Các nghiên cứu chỉ ra rằng rừng nhiệt đới không chỉ phong phú về tài nguyên
gỗ mà còn đa dạng về các loài thực vật cho sản phẩm ngoài gỗ. Khi nghiên cứu sự
đa dạng lâm sản ngoài gỗ trong phạm vi một bản ở Thakek, Khammouan, Lào người ta
đã thống kê được 306 loài lâm sản ngoài gỗ trong đó có 223 loài làm thức ăn. Để thuận
tiện cho việc nghiên cứu một chuyên gia lâm sản ngoài gỗ của FAO, đã chia lâm
sản ngoài gỗ thành 4 nhóm chính như sau:
A. Cây sống và các bộ phận của cây
B. Động vật và các sản phẩm của động vật
C. Các sản phẩm được chế biến (các gia vị, dầu nhựa thực vật )
D. Các dịch vụ từ rừng, Mendelsohn (1989) [38] đã căn cứ vào giá trị sử dụng
của lâm sản ngoài gỗ để phân thành 5 nhóm: Các sản phẩm thực vật ăn được, keo
dán và nhựa, thuốc nhuộm và ta nanh, cây cho sợi, cây làm thuốc. Ông cũng căn cứ
vào thị trường tiêu thụ để phân lâm sản ngoài gỗ thành 3 nhóm: Nhóm bán trên thị
trường, nhóm bán ở địa phương và nhóm được sử dụng trực tiếp bởi người thu hoạch.
Nhóm thứ ba thường chiếm tỷ trọng rất cao nhưng lại chưa tính được giá trị. Theo
Mendelsohn chính điều này đã làm cho lâm sản ngoài gỗ trước đây bị lu mờ và ít
được chú ý đến.
4

Các kết quả nghiên cứu đã phác thảo một bức tranh về lâm sản ngoài gỗ trên
thế giới với số lượng khổng lồ các giống loài. Chúng có dạng sống, đặc điểm sinh
thái và giá trị sử dụng vô cùng đa dạng. Tính phong phú của lâm sản ngoài gỗ có ý
nghĩa lớn trong giai đoạn hiện nay. Nó chứng tỏ một tiềm năng lớn không chỉ cho

phát triển kinh tế, mà còn cho việc xây dựng những hệ sinh thái có tính ổn định và
bền vững cao. Đây cũng là cơ sở cho các nhà khoa học tiến hành những nghiên cứu
đầy đủ hơn về lâm sản ngoài gỗ ở mỗi khu vực.
- Về giá trị của lâm sản ngoài gỗ:
Hầu hết mọi người đều thừa nhận lâm sản ngoài gỗ như một yếu tố quan trọng
cho phát triển kinh tế xã hội miền núi. Ở Ghana, lâm sản ngoài gỗ có vai trò cung
cấp thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng,v.v đồng thời cũng chiếm gần
90% nguồn thu nhập của các hộ gia đình Falconer, (1989) [43]. Lâm sản ngoài gỗ
cũng là một bộ phận của rừng, nếu lâm sản ngoài gỗ được sử dụng một cách hợp lý
thì nó đóng vai trò to lớn trong quá trình phục hồi và phát triển rừng ở các nước
đang phát triển. Lâm sản ngoài gỗ được các nhà nghiên cứu coi như một yếu tố góp
phần bảo tồn rừng và phát triển bền vững ở miền núi nhiệt đới Clark, (1997) [40];
Mendelsohn, (1989) [38]. Khi nghiên cứu ở lưu vực sông Công gô ở Cameroon,
L.Clark kết luận:" Sự phát triển của lâm sản ngoài gỗ là một yếu tố đóng góp vào sự
bảo tồn của hệ sinh thái rừng". Trong nghiên cứu của mình, Mendelsohn (1989)
[38] đó cho thấy người ta có thể gặp một đám sản phẩm có giá trị rất cao. Peter
(1989) [56] đã tìm thấy những khu rừng với 5 loài cây có giá trị kinh tế cao ở vùng
Amazon của Peru. Hàng năm chúng cho thu nhập từ 200- 6000 USD/ha. Myers
(1986) [53] ước lượng khoảng 60% tổng sản phẩm phi gỗ được tiêu thụ bởi người
địa phương và không bao giờ tính ra tiền mặt. Rõ ràng là người dân địa phương đã
đạt được lợi ích cơ bản của họ từ những khu rừng kế cận. Đối với nền kinh tế của
một số nước vai trò của lâm sản ngoài gỗ đó được khẳng định chẳng hạn ở Thái Lan
trong năm 1987 đó xuất khẩu lâm sản ngoài gỗ đạt giá trị 23 triệu USD, ở Indonesia
cũng trong năm đó đạt 238 triệu USD và ở Malaysia trong năm 1986 xuất khẩu
hàng hóa sản xuất từ lâm sản ngoài gỗ đạt xấp xỉ 11 triệu USD (Jenne.H.de
Beer,1992[39]). Ở ấn Độ (1982) lâm sản ngoài gỗ chiếm gần 40% giá trị lâm sản và
5

60% giá trị lâm sản xuất khẩu. Indonesia (1989) thu 436 triệu USD từ lâm sản ngoài
gỗ (Lê Quý An, 1999[1]). Ở Lào cũng đề ra mục tiêu đến năm 2000 có thể thu hời

50% nguồn lợi của rừng không phải là gỗ (Cứu lấy trái đất, 1993[31]). Trong một
số trường hợp lợi ích thu được từ lâm sản ngoài gỗ lớn hơn nhiều so với thu nhập từ
các sản phẩm khác.
Nghiên cứu về tiềm năng kinh tế của lâm sản ngoài gỗ ở Đông Nam Á cho
thấy có ít nhất 30 triệu người chủ yếu dựa vào các sản phẩm ngoài gỗ, đóng góp cho
thị trường thế giới khoảng 3 tỷ USD từ các đồ gia dụng làm từ song mây. Nhiều nước
trên thế giới như Brazil, Colombia, Equado, Bolivia, Thái Lan, Indonesia, Maylaysia,
Ấn Độ, Trung Quốc đã và đang nghiên cứu sử dụng hợp lý các sản phẩm ngoài gỗ
nhằm nâng cao đời sống của người dân bản địa nhằm bảo vệ đa dạng sinh học của
các hệ sinh thái rừng địa phương.
Rừng như một nhà máy quan trọng đối với xã hội và lâm sản ngoài gỗ là một
trong những sản phẩm quan trọng nhất của nhà máy này (Mendelsohn, 1992). Phân
tích vai trò của lâm sản ngoài gỗ ở vùng nhiệt đới tác giả còn nhận thấy ý nghĩa đặc
biệt của nó với việc bảo tồn rừng. Bởi vì việc khai thác lâm sản ngoài gỗ có thể luôn
được thực hiện với sự tổn hại ít nhất đến rừng, đảm bảo cho rừng ở trạng thái nguyên
vẹn tự nhiên. Bằng việc phát triển kinh doanh sản phẩm ngoài gỗ, rừng tự nhiên có
thể được giữ gìn nguyên vẹn, trong khi người dân địa phương vẫn có thể thu được lợi
ích từ các khu rừng này. Tác giả khẳng định rằng, việc kinh doanh lâm sản ngoài gỗ
sẽ ngày càng được phát triển như một yếu tố triển vọng nhất cho quản lý rừng bền
vững, cho giải quyết vấn đề môi trường và phát triển ở vùng núi nhiệt đới.
Như vậy, các nghiên cứu đều đưa ra nhận định lâm sản ngoài gỗ có một vai trò
to lớn, nó không phải là sản phẩm "Phụ", mà là một trong những sản phẩm chính
của rừng, có ý nghĩa đến quá trình phát triển kinh tế xã hội miền núi và góp phần
vào bảo tồn và phát triển rừng. Gần đây, những phát hiện mới về tiềm năng của lâm
sản ngoài gỗ như khả năng phục hồi nhanh, cho thu hoạch sớm với năng suất kinh
tế cao và ổn định, có khả năng kinh doanh liên tục, phù hợp với quy mô hộ gia đình
và đặc biệt là việc khai thác chúng gần như không tổn hại đến rừng đó thúc đẩy
nhiều nhà khoa học tham gia vào nghiên cứu phát triển lâm sản ngoài gỗ. Phần lớn
6


các nghiên cứu đều tập trung ở các nước nhiệt đới, nơi mà tiềm năng về lâm sản
ngoài gỗ phong phú nhất, còn việc khai thác gỗ lại thường gây tổn hại nhiều nhất
đối với hệ sinh thái rừng.
- Về kiến thức bản địa:
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về kiến thức bản địa liên quan đến
lâm sản ngoài gỗ. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, kiến thức bản địa về gây trồng, phát
triển và sử dụng lâm sản ngoài gỗ của người dân là rất quan trọng trong quá trình
quản lý và sử dụng lâm sản ngoài gỗ một cách hợp lý. Bởi vì kiến thức bản địa là
những kết quả nghiên cứu đã được đúc kết và thử nghiệm lâu ngày của người dân
trên thực địa.
Khi nghiên cứu về kiến thức bản địa ở Ghana của Facolner (1997) [43], tác giả đã
khẳng định: kiến thức bản địa là những kiến thức quí báu, có giá trị trong quá trình gây
trồng phát triển và sử dụng hợp lý tài nguyên lâm sản ngoài gỗ. Tuy nhiên, để nâng cao
năng suất và tính bền vững trong quy trình sử dụng lâm sản ngoài gỗ đòi hỏi cần có sự
kết hợp giữa kết quả nghiên cứu khoa học thực sự với kiến thức bản địa.
Cách tiếp cận có hiệu quả nhất để đánh giá nguồn tài nguyên lâm sản ngoài gỗ
là thu nhận kiến thức bản địa. Tuy nhiên, khi sử dụng kiến thức bản địa có 3 khó khăn
để cung cấp thông tin đạt mức độ tin cậy trong khoa học, đó là: Các thông tin thường
chung chung, không cụ thể; Khái niệm loài lâm sản ngoài gỗ ở địa phương thường
khác với khái niệm trong sinh vật học; Kiến thức bản địa ở mỗi địa phương có khác
nhau và mức độ áp dụng khác nhau. Vì vậy, tác giả kết luận “Trong nghiên cứu lâm
sản ngoài gỗ kiến thức bản địa rất quan trọng tuy nhiên, cần kết hợp nghiên cứu kiến
thức bản địa với nghiên cứu thực địa. Kết quả các công trình nghiên cứu về kiến thức
bản địa là đã chỉ ra tầm quan trọng của nó trong quá trình sử dụng bền vững lâm sản
ngoài gỗ. Tuy nhiên, các kiến thức bản địa này có một số hạn chế, đặc biệt là mức độ
tin cậy trong khoa học. Vì vậy, để phát triển các mô hình lâm sản ngoài gỗ cần kết
hợp áp dụng kiến thức bản địa với kiến thức hiện đại của các lĩnh vực liên quan”.
- Về nghiên cứu kỹ thuật trồng, khai thác và chế biến lâm sản ngoài gỗ
Nhận thức được tầm quan trọng của lâm sản ngoài gỗ trong chương trình phát
triển lâm nghiệp, nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đã đầu tư nghiên cứu, hoàn thiện

7

về hệ thống biện pháp kỹ thuật nhằm phát triển một số loài lâm sản ngoài gỗ nào đã
cho năng suất cao. Có nhiều công trình nghiên cứu về gây trồng quế, sa nhân, cọ
dầu v.v Các công trình nghiên cứu đều khẳng định, trên thế giới đã có nhiều loài
lâm sản ngoài gỗ được nghiên cứu đầy đủ và hệ thống.
- Về thị trường và các yếu tố xã hội khác liên quan đến phát triển lâm sản
ngoài gỗ
Thị trường là một yếu tố cần thiết đảm bảo tính bền vững kinh tế của một sản
phẩm lâm sản ngoài gỗ. Đây là một trong yếu tố đảm bảo hiệu quả, bền vững trong
quá trình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ. Nghiên cứu về thị trường luôn đồng nghĩa
với phát triển lâm sản ngoài gỗ, là một mắt xích trong quá trình kinh doanh lâm sản
ngoài gỗ. Kết quả nghiên cứu về thị trường làm cơ sở để xác định quy mô, cơ cấu
cây trồng và tính ổn định của mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ phù hợp với
từng không gian và thời gian cụ thể.
Nhìn chung, trong thời gian qua những nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ trên
thế giới đó cho thấy được tiềm năng lớn lao của lâm sản ngoài gỗ ở các nước nhiệt
đới, đã khẳng định vai trò quan trọng của lâm sản ngoài gỗ trong đời sống kinh tế -
xã hội nông thôn miền núi, coi đây là một trong những yếu tố triển vọng nhất cho
bảo tồn và phát triển rừng, góp phần giải quyết mục tiêu quản lý rừng bền vững của
các nước nhiệt đới. Các nghiên cứu cũng chỉ ra những nguyên nhân cản trở, những
rào cản chính đối với việc quản lý hiệu quả tài nguyên lâm sản ngoài gỗ ở nhiều
nước là tính chất tự do tiếp cận của lâm sản ngoài gỗ, thị trường lâm sản ngoài gỗ
chưa hoàn hảo. Ngoài ra, việc thiếu những thông tin đầy đủ đó làm cho nhiều người
chưa nhận thức đầy đủ về giá trị của lâm sản ngoài gỗ, trong đó có cả những người
lập chính sách.
Cho đến nay phát triển lâm sản ngoài gỗ được xem là một trong những nội
dung của chiến lược quản lý rừng bền vững theo hướng "Bảo tồn có khai thác". Tuy
nhiên, những chính sách cho phát triển lâm sản ngoài gỗ thực sự là chưa được chú ý
đúng mức. Biểu hiện của nó mới dừng ở mức nhà nước cho phép khai thác lâm sản

ngoài gỗ ở hầu hết các loại rừng, kể cả rừng phông hộ, giảm thuế với các hàng hóa
lâm sản ngoài gỗ, tăng cường nghiên cứu những kiến thức có liên quan đến lâm sản
8

ngoài gỗ, tăng cường phổ cập cho nông dân kỹ thuật khai thác, chế biến và tiêu thụ
các lâm sản ngoài gỗ v.v
Người ta nhận thấy còn thiếu những nghiên cứu đầy đủ về kỹ thuật, chính sách
cho phát triển lâm sản ngoài gỗ, trong đã có chính sách sử dụng tài nguyên, chính
sách quản lý cộng đồng, chính sách thị trường, chính sách ngân hàng tín dụng,
chính sách khoa học công nghệ, chính sách dân tộc, chính sách về giới v.v có liên
quan đến phát triển lâm sản ngoài gỗ.
Trong những năm gần đây, xu hướng nghiên cứu của thế giới là các nghiên cứu
nhằm phát triển bất kỳ một sản phẩm nào luôn luôn phải được nhìn nhận toàn diện.
Một sản phẩm được phát triển không chỉ được nghiên cứu đầy đủ về yếu tố kỹ thuật
mà cả yếu tố xã hội. Về kỹ thuật phát triển lâm sản ngoài gỗ, do tính đa dạng của lâm
sản ngoài gỗ, các nghiên cứu kỹ thuật về lâm sản ngoài gỗ chủ yếu tập trung vào một
số loài có giá trị kinh tế cao. Số loài lâm sản ngoài gỗ khác, kết quả nghiên cứu kỹ
thuật chủ yếu dựa trên các kiến thức bản địa. Vì vậy, để phát triển lâm sản ngoài gỗ
một nhu cầu cấp thiết đó là cần phải có nghiên cứu đầy đủ về kỹ thuật đối với một số
loài có giá trị cao nhằm phát triển mở rộng và tăng năng suất.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.2.1. Nhận thức về lâm sản ngoài gỗ
Nhận thức được vai trò quan trọng của lâm sản ngoài gỗ từ năm 1978, nhà
nước đó thành lập phòng nghiên cứu Lâm đặc sản, về sau phát triển thành Phân viện
Đặc sản rừng và nay là Trung tâm Nghiên cứu Lâm đặc sản thuộc Viện khoa học
lâm nghiệp Việt Nam. Theo quyết định số 639/TCLĐ ngày 27/9/1995 của Bộ Lâm
nghiệp thì Trung tâm Nghiên cứu lâm đặc sản có nhiệm vụ chính là nghiên cứu sản
xuất, gây trồng, cải tiến và áp dụng các kỹ thuật khai thác, chế biến và bảo quản lâm
sản ngoài gỗ. Đây là cơ quan đầu ngành về lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam. Trong
nhiều năm Trung tâm đã nghiên cứu, phát hiện những lâm sản ngoài gỗ có giá trị.

Ngoài ra những nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ còn được thực hiện ở một số cơ sở
nghiên cứu và đào tạo của ngành lâm nghiệp, nông nghiệp và ngành khác như Trường
Đại học Lâm Nghiệp, Viện Điều tra Quy hoạch rừng, Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội, Trường Đại học Dược, Viện Dược liệu, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp
Việt Nam, v.v
9

Trước đây, xuất phát từ tình hình thực tiễn, sản phẩm có giá trị cao được khai
thác từ rừng được gọi là " Đặc sản rừng". Từ năm 1986 cho đến nay, với chủ trương
chuyển nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị trường, đổi mới quản lý rừng, những
nhận thức về vai trò của lâm sản ngoài gỗ trong quá trình xóa đói, giảm nghèo và
bảo tồn rừng đã có nhiều thay đổi. "Lâm sản phụ" và "Đặc sản rừng" được gọi
chung là "Lâm sản ngoài gỗ". Trong cuốn "Tổng quan lâm sản ngoài gỗ ở Việt
Nam" đưa ra khái niệm lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam như sau: " Lâm sản ngoài gỗ
là các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật lấy từ rừng hoặc đất rừng, nó không bao gồm
gỗ, củi, than gỗ và các sản phẩm không có nguồn gốc sinh vật. Lâm sản ngoài gỗ
bao gồm các nhóm tre nứa, mây song, cây thuốc, cây làm thực phẩm, gia vị, tinh
dầu, dầu bột, nhựa, nhựa mủ, ta nanh, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã
(động vật sống hay các sản phẩm của chúng).v.v ". Khác với định nghĩa của
J.H. de Beer, ở Việt Nam các tác giả đã không xếp củi và than gỗ vào lâm sản ngoài
gỗ trong khi đó khi nghiên cứu ở khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, Hà Tĩnh, một số
chuyên gia đã xếp củi và than gỗ trong nhóm lâm sản ngoài gỗ [39].
1.1.2.2. Nghiên cứu phát triển lâm sản ngoài gỗ
- Về đa dạng lâm sản ngoài gỗ và cách phân loại
Với vai trò quan trọng của lâm sản ngoài gỗ trong thời đại hiện nay, việc làm
trước tiên để phát triển chúng ta cần nghiên cứu xác định và phân loại được toàn bộ
lâm sản ngoài gỗ, sau đó tập trung nghiên cứu một số loại lâm sản ngoài gỗ có thế
mạnh ở nước ta. Các kết quả nghiên cứu cho thấy lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam rất
phong phú đa dạng.
Từ năm 1996 -2000, khi nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ, một số nhà khoa học

tại Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản đã xác định được danh lục các loài lâm sản
ngoài gỗ, trong đó có khoảng 40 loài tre nứa, 40 loài song mây, 60 loài cây có chứa
ta nanh, 260 loài cho dầu và nhựa, 160 loài chứa tinh dầu, 70 loài chứa chất thơm
và hàng trăm loài làm thức ăn. Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc sản, (1999) [30].
Năm (1999) [8] Võ Văn Chi, Trần Công Khánh (2000) [13]. Đây là những công
trình có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở để phát hiện và đánh giá tiềm năng các loài lâm
sản ngoài gỗ ở nước ta, từ đó đề xuất phương hướng phát triển lâm sản ngoài gỗ cho
10

từng khu vực một cách khoa học hợp lý. Năm 2000 [3], Nguyễn Ngọc Bình, Phạm
Đức Tuấn trồng cây nông nghiêp dược liệu và đặc sản dưới tán rừng, đã đánh giá về
lâm sản ngoài gỗ trong cuốn: "Phân tích phân ngành lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam".
Nội dung công trình đã đưa ra được khái niệm, cách phân loại, một số vấn đề và
những hạn chế lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam. Các tác giả đã thống kê được ở Việt
Nam có 76 loài cho nhựa thơm, 600 loài cho ta nanh, 93 loài cho chất màu, 160 loài
chỉ cho dầu, 260 loài cho tinh dầu và 1498 loài cho các dược phẩm. Tác giả cho
rằng trong điều kiện hiện nay, cần tập trung nghiên cứu và phát triển về lâm sản
ngoài gỗ đặc biệt là một số loài đặc hữu, giá trị cao, có thế mạnh ở nước ta như thảo
quả ở Lào Cai, trúc sào ở Cao Bằng, quế ở Yên Bái.v.v Đây là những công trình
nghiên cứu và phân tích tổng hợp các thế mạnh về ngành lâm sản ngoài gỗ ở Việt
Nam. Công trình đã đưa ra một cách nhìn mới về tình hình phát triển lâm sản ngoài
gỗ ở nước ta hiện nay và từ đã xác định hướng đi cho ngành lâm sản ngoài gỗ trong
tương lai. Ở Việt Nam, khung phân loại lâm sản ngoài gỗ đầu tiên được chính thức
thừa nhận bằng văn bản là “Danh mục các loài đặc sản rừng được quản lý thống
nhất theo ngành”. Đây là văn bản kèm theo Nghị định 16/HĐBT ngày 10/12/1984
của Hội đồng Bộ trưởng về việc thống nhất quản lý các đặc sản rừng. Theo danh
mục này đặc sản được chia làm 2 nhóm lớn: Hệ cây rừng và hệ động vật rừng. Mỗi
nhóm lớn lại được chia làm nhiều nhóm phụ như sau:
- Nhóm cây rừng cho nhựa, ta nanh, dầu và tinh dầu.
- Nhóm cây rừng cho dược liệu .

- Nhóm cây rừng cho nguyên liệu làm các loại hàng tiểu thủ công và mỹ nghệ .
- Các sản phẩm công nghiệp được chế biến từ nguyên liệu là các loại cây rừng .
- Các nhóm động vật rừng cho da, lông, xương, ngà, thịt, xạ, mật, dược liệu và
các nhóm động vật rừng có đặc dụng khác.
Khung phân loại lâm sản ngoài gỗ trên của chúng ta là một mốc quan trọng,
đánh giá sự tiến bộ về nhận thức, sự hiểu biết về lâm sản ngoài gỗ của Việt Nam.
Mặc dù còn một vài điểm chưa thật hợp lý như: Coi shellac (loại nhựa cánh kiến đỏ
đã được chế biến) là sản phẩm có nguồn gốc thực vật.
11

Căn cứ vào danh mục phân loại lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam đó được ban
hành, Trung tâm nghiên cứu Lâm đặc sản đã dựa vào tính chất của sản phẩm để đưa
ra hệ thống phân loại như sau:
Lâm sản ngoài gỗ gồm 2 hệ là hệ cây rừng và hệ động vật rừng.
- Hệ cây rừng có 4 nhóm: nhóm cây rừng cho nhựa, tinh dầu, ta nanh; Nhóm
cây rừng cho dược liệu; Nhóm cây rừng cho nguyên liệu làm các loại hàng tiểu thủ
công và mỹ nghệ; Các sản phẩm công nghiệp được chế biến từ nguyên liệu là các
loại cây rừng.
- Hệ động vật rừng gồm 2 nhóm: Nhóm động vật rừng cho da, lông, xương,
ngà, thịt, xạ, mật; nhóm các sản phẩm được chế biến từ nguyên liệu do các loại
động vật rừng cung cấp và shellac được xếp vào một nhóm riêng. Theo cách phân
loại này, thảo quả được xếp vào nhóm cây dược liệu. Trong khi đó, nhóm cây dược
liệu có rất nhiều loài, có những loài có giá trị cao, có loài có tiềm năng lớn. Vì vậy,
cách phân loại này chưa nêu lên giá trị đầy đủ của từng loại lâm sản ngoài gỗ và
được chia ra làm 6 nhóm chính bao gồm:
- Nhóm 1: sản phẩm có sợi.
- Nhóm 2: sản phẩm dùng làm thực phẩm.
- Nhóm 3: các sản phẩm thuốc và mỹ phẩm.
- Nhóm 4: các sản phẩm chiết xuất.
- Nhóm 5: động vật và các sản phẩm động vật không làm thực phẩm và làm thuốc.

- Nhóm 6: các sản phẩm khác gồm cây cảnh, lá để gói thức ăn và hàng hóa.
Nhìn chung, mỗi cách phân loại đều có những tồn tại nhất định, nhưng chúng
đều có ý nghĩa trong nghiên cứu về sự đa dạng, phong phú của lâm sản ngoài gỗ, về
tiềm năng phát triển ngành lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam.
- Về vai trò và giá trị lâm sản ngoài gỗ:
Ở nước ta, lâm sản ngoài gỗ có vai trò và giá trị to lớn trong đời sống người
dân vùng núi của nước ta. Để khẳng định vai trò và giá trị của lâm sản ngoài gỗ,
một số công trình nghiên cứu đã được thực hiện.
Khi nghiên cứu về lâm sản ngoài gỗ ở nước ta, các công trình nghiên cứu đều
khẳng định: lâm sản ngoài gỗ chính là một yếu tố cho phát triển kinh tế xã hội miền
12

núi. Lâm sản ngoài gỗ đó là nguồn cung cấp các thực phẩm, thuốc chữa bệnh phục
vụ cho cuộc sống của người dân ở nông thôn miền núi. Trong quá trình sử dụng, giá
trị của lâm sản ngoài gỗ được phát hiện ngày càng nhiều, vai trò của lâm sản ngoài
gỗ đối với phát triển kinh tế xã hội miền núi ngày càng lớn. Nhiều nghiên cứu cũng
cho thấy, thị trường song mây bắt đầu phát triển mạnh từ 1970 để xuất sang châu
Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lân (1999) ở khu bảo tồn
thiên nhiên Pù Mát (Nghệ An) cho thấy 100% số hộ dân tham gia khai thác gỗ và
lâm sản ngoài gỗ. Tác giả cũng cho thấy 22.5% số hộ thường xuyên khai thác mật
ong, nứa, song mây; 11.75% số hộ thường xuyên khai thác măng, mộc nhĩ, thu nhập
của họ bình quân khoảng 20.000đ/ngày và 8.3% số hộ chuyên khai thác củi bán lấy
tiền mua lương thực và trong những ngày giáp hạt có tới trên 90% số hộ ở bản Châu
Sơn phải vào rừng đào củ mài, củ chuối, củ nâu, hái lá rừng để ăn.
Năm 1999, khi nghiên cứu ở Vườn quốc gia Ba Vì, D.A Glimour và
Nguyễn Văn Sản (1999) [9] kết luận: lâm sản ngoài gỗ là nguồn thu nhập quan
trọng đối với cuộc sống của người dân nông thôn. Tác giả cho rằng một trong
những nguyên nhân mất rừng, làm suy thóai đa dạng sinh học có nguồn gốc từ
đời sống khó khăn của người dân, lâm sản ngoài gỗ bị sử dụng không hợp lý,
cạn kiệt. Một trong những giải pháp có hiệu quả để giải quyết vấn đề đời sống

khó khăn của người dân mà vẫn bảo tồn và phát triển rừng bền vững ở nước ta
là phát triển tài nguyên lâm sản ngoài gỗ.
Năm 2001, trong quá trình thực hiện dự án "Sử dụng bền vững lâm sản ngoài
gỗ" tại vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ và vùng đệm Vườn Quốc gia
Ba Bể các nhà nghiên cứu kết luận rằng: phát triển lâm sản ngoài gỗ là một trong
những hướng đi đem lại hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng mục tiêu nâng cao chất lượng
sống cho người dân, từ đó xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế xã hội trong khu
vực. Ngoài những đóng góp vào thu nhập nhằm cải thiện cuộc sống của người dân
miền núi, lâm sản ngoài gỗ còn được đánh giá là một yếu tố góp phần bảo tồn rừng
và phát triển bền vững ở miền núi nhiệt đới. Nhiều loài lâm sản ngoài gỗ có nguồn
gốc từ các dây leo, cây bụi, cây thảo, cây ký sinh hay phụ sinh sống dưới tán rừng,
nên việc khai thác chúng một cách hợp lý sẽ không làm phá vỡ cấu trúc của rừng.
13

Do đó rừng kinh doanh lâm sản ngoài gỗ vẫn duy trì được vai trò bảo vệ môi trường
và đa dạng sinh học của rừng .
Việc phát triển gây nuôi các loài động, thực vật thuộc nhóm lâm sản ngoài gỗ
đang có nguy cơ bị tiêu diệt cũng được coi là một hình thức bảo tồn ngoại vi
(exsitu) đáng khích lệ. Các kết quả trồng hàng vạn cây sâm ngọc linh ở huyện Trà
Mi (Quảng Nam), trồng cây hoàng liên ở Sa Pa (Lào Cai), nuôi hươu sao ở Hà
Tĩnh, nuôi nai ở Châu Sơn (Buôn Ma Thuật), nuôi trăn và cá sấu ở đồng bằng sông
Cửu Long đã thể hiện sự kết hợp giữa bảo tồn và phát triển bền vững. Một trong
những khó khăn nhất của công tác bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam hiện nay là sức
ép của dân cư và nhu cầu thu hái lâm sản của người dân sống trong và quanh Vườn
Quốc Gia và các Khu Bảo tồn thiên nhiên quá lớn. Tình trạng dân số quanh khu bảo
tồn và vùng đệm ngày một tăng, đất canh tác ngày một thu hẹp, người dân có đời
sống quá thấp và thường chỉ sử dụng 3 tháng trong năm cho sản xuất nông nghiệp,
thời gian còn lại phải đi vào rừng để thu hái lâm sản và săn bắn để kiếm sống. Hiện
tượng này là phổ biến ở hầu hết các khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam. Nếu
không giải quyết được sức ép của người dân lên rừng thì không thể bảo vệ tốt các

Vườn Quốc gia và Khu Bảo tồn thiên nhiên được. Chỉ có lâm sản ngoài gỗ với đặc
điểm dễ nuôi trồng, mau thu hoạch, có giá trị cao mới có thể sớm tăng thu nhập và cải
thiện đời sống của người dân miền núi để giảm sức ép của họ lên các khu bảo tồn. Các
điển hình về công tác bảo vệ rừng tốt ở các vùng trồng quế, thảo quả, hồi đã nói lên vai
trò của lâm sản ngoài gỗ với việc bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ rừng. Nếu không có cây thảo
quả trồng dưới tán, thì chắc chắn hàng nghìn ha rừng tốt của Lào Cai và Hà Giang đã trở
thành đất nương rẫy .
Trong công trình nghiên cứu "Giá trị và sử dụng lâm sản ngoài gỗ ở 2 tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kạn" (2001) [25] của Phan Văn Thắng và các cộng sự cho thấy giá trị sử
dụng của lâm sản ngoài gỗ đối với người dân rất lớn. 90% số hộ dân sống dựa vào
rừng. Sản phẩm khai thác chủ yếu hiện nay là gỗ và lâm sản ngoài gỗ như măng,
tre, trúc, hồi, giẻ, và cây dược liệu. Thu nhập từ lâm sản ngoài gỗ trong mỗi hộ gia
đình đứng thứ 2 trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình và chiếm trung bình khoảng
22% tổng thu nhập kinh tế.
14

Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều khẳng định vai trò to lớn của lâm
sản ngoài gỗ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội miền núi cũng như góp phần
vào công tác bảo tồn rừng. Nó đã làm thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của lâm
sản ngoài gỗ trong thời kỳ hiện nay, làm cơ sở để đề xuất hướng đi mới trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội miền núi và bảo tồn.
- Về kiến thức bản địa:
Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả đã cho thấy ở Việt Nam tồn tại một hệ
thống kiến thức bản địa phong phú về lâm sản ngoài gỗ, trong đó có cả những kiến
thức về gây trồng, khai thác, chế biến, sử dụng và thị trường. Tuy nhiên, do đa số
kiến thức bản địa được lưu truyền bằng lời nói nên chúng thường tản mạn, mất dần
cùng với sự suy thoái của tài nguyên lâm sản ngoài gỗ. Đến nay những nghiên cứu
về kiến thức bản địa liên quan đến lâm sản ngoài gỗ còn rất hạn chế.
- Về kỹ thuật gây trồng, thu hái và chế biến lâm sản ngoài gỗ:
Để hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật liên quan đến xây dựng mô hình kinh

doanh lâm sản ngoài gỗ có hiệu quả, năng suất cao và ổn định, không chỉ sử dụng
kiến thức bản địa mà cần dựa trên một số nghiên cứu một cách có cơ sở khoa học
với các biện pháp tiên tiến, hiện đại. Ở nước ta, vào những năm 1950-1960, các nhà
khoa học đó cố gắng nghiên cứu nhằm tạo được mô hình phát triển lâm sản ngoài
gỗ có hiệu quả kinh tế cao và ổn định. Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung
một số loài cây dược liệu, cây đặc sản có giá trị cao như thông, quế, trúc, thanh
kao, sa nhân Nguyễn Bá Chất (1990) [7]. Đây là các công trình nghiên cứu về hệ
thống các biện pháp kỹ thuật làm cơ sở cho việc gây trồng và phát triển lâm sản
ngoài gỗ. Tuy nhiên các công trình chủ yếu tập trung nghiên cứu về một số loài cây
có giá trị cao lúc đó. Vẫn còn nhiều loài lâm sản ngoài gỗ giá trị cao nhưng chưa
được nghiên cứu đầy đủ, trong đó có giẻ, trầm hương, thảo quả v.v
Nhìn chung cho đến nay còn rất ít các nghiên cứu hướng vào tìm hiểu kỹ thuật
gây trồng lâm sản ngoài gỗ ở dưới tán rừng - cơ sở quan trọng cho bảo tồn rừng
bằng phát triển lâm sản ngoài gỗ.
15

- Về thị trường lâm sản ngoài gỗ:
Thị trường là một trong những thành tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đến
việc kinh doanh và phát triển lâm sản ngoài gỗ, để phát triển trong các mô hình phát
triển lâm sản ngoài gỗ dựa trên cơ sở phân tích thị trường. Nội dung nghiên cứu bao
gồm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Đánh giá thực trạng hiện nay.
+ Giai đoạn 2: Trên cơ sở phên tích đánh giá thực trạng tiến hành lựa chọn sản
phẩm nhiều hứa hẹn nhất và đưa ra phương pháp tiếp thị.
+ Giai đoạn 3: Xây dựng chiến lược doanh nghiệp và một kế hoạch kinh
doanh bền vững.
Tác giả đó sử dụng phương pháp phân tích thị trường để đánh giá tính hiệu
quả và bền vững của một mô hình kinh doanh lâm sản ngoài gỗ. Nó đó chứng minh
về tính bền vững của một mô hình kinh doanh khi tính đến yếu tố thị trường, đồng
thời mở ra một cách nhìn mới trong quá trình đề xuất phương thức kinh doanh lâm

sản ngoài gỗ. Năm 2001, khi nghiên cứu về thị trường lâm sản ngoài gỗ tại Vũ
Quang - Hà Tĩnh, tác giả Lã Thị Phi kết luận: Yếu tố thị trường là căn cứ quan trọng
để đề xuất chiến lược phát triển lâm sản ngoài gỗ. Vì những lý do khác nhau mà cho
đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống và
đồng bộ về lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam. Phần lớn các công trình nghiên cứu này
mới được thực hiện theo hướng chuyên ngành như tập trung phát hiện loài cho lâm
sản ngoài gỗ, mô tả đặc điểm hình thái, công dụng, giá trị kinh tế, một số đặc điểm
sinh thái, mà thiếu hẳn những nghiên cứu về giải pháp kỹ thuật và kinh tế - xã hội
tạo động lực cho phát triển lâm sản ngoài gỗ trở thành nguồn hàng hóa. Một số
công trình trong khi nghiên cứu tương đối đầy đủ về lĩnh vực kỹ thuật thì lại thiếu
hẳn về nghiên cứu thị trường. Vì vậy, hầu hết các mô hình kinh doanh lâm sản
ngoài gỗ đã xây dựng đều mang tính chất của những mô hình kém bền vững.
Chính vì vậy, cho đến nay mặc dự đã nhận thức được vai trò quan trọng của
lâm sản ngoài gỗ, nhưng vẫn chưa có những các chính sách thúc đẩy phát triển sản
phẩm ngoài gỗ. Những chính sích khuyến khích khai thác sản phẩm ngoài gỗ của
rừng được thể hiện chủ yếu trong các “Luật bảo vệ và phát triển rừng” và những các
16

văn bản có liên quan đến “Chính sách giao đất, khoán rừng”. Nội dung chủ yếu nhất
của các chính sách đó là cho phép người dân được khai thác lâm sản ngoài gỗ của
các khu rừng, kể cả rừng do họ gây trồng hay nhận khoán bảo vệ. Văn bản mới nhất
là Quyết định của Thủ tướng chính phủ về đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm
trường quốc doanh, ban hành ngày 16 tháng 9 năm 1999. Trong đó có quy định bên
nhận khoán đất lâm nghiệp và rừng của lâm trường quốc doanh được hưởng sản
phẩm phụ (lâm sản ngoài gỗ) thu hỏi từ rừng, được quyền đầu tư trồng cây nông
lâm kết hợp, xen ghép với cây rừng để tăng thu nhập cải thiện đời sống. Việc
cho phộp tự do khai thác các lâm sản ngoài gỗ một cách không khoa học, không có
những quy định cụ thể của chính sách nhà nước, của quy định cộng đồng về quyền
lợi và nghĩa vụ trong quá trình khai thác lâm sản ngoài gỗ là một trong những
nguyên nhân làm cạn kiệt nhanh tài nguyên lâm sản ngoài gỗ. Phần lớn những

chính sách có liên quan đến lâm sản ngoài gỗ chưa tác động tích cực đến bảo tồn và
phát triển nguồn tài nguyên này.
1.1.3. Thảo quả và những nghiên cứu phát triển
1.1.3.1. Trên thế giới
Thảo quả là loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị dược liệu và giá trị kinh tế cao
đó được con người biết đến từ lâu. Ở Trung Quốc, thảo quả được gây trồng và sử
dụng cách đây hàng trăm năm. Nhưng những nghiên cứu về thảo quả còn rất hạn
chế. Kết quả nghiên cứu thảo quả ban đầu được trình bày trong cuốn sách về công
dụng và giá trị của một số loại cây dược liệu do các nhà y học của Trung Quốc biên
soạn và xuất bản vào đầu thế kỷ 19. Năm 1968, một số nhà nghiên cứu cây thuốc tại
Vân Nam, Trung Quốc đó xuất bản cuốn sách "Kỹ thuật gây trồng cây thuốc ở
Trung Quốc". Cuốn sách đó đề cập đến cây thảo quả với một số nội dung chủ yếu sau:
- Phân loại thảo quả: gồm có tên khoa học (Amomum tsao-ko Crevost et
Lemaire), tên họ (Zingiberaceae).
- Hình thái: dạng sống, thân, gốc, rễ, lá, hoa, quả.
- Vùng phân bố ở Trung Quốc.
- Đặc điểm sinh thái: khí hậu và đất đai
- Kỹ thuật trồng: Nhân giống, làm đất, trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại.
17

- Thu hoạch và chế biến: phẩm chất quy cách, bao gói, bảo quản.
- Công dụng: dùng làm thuốc trị các bệnh đường ruột, bệnh hàn.
Đây là cuốn sách tương đối hoàn chỉnh đó giới thiệu một cách tổng quát và có hệ
thống về đặc điểm sinh vật học, sinh thái học, kỹ thuật gây trồng, thu hái chế biến và
bảo quản. Tuy nhiên, đây là cuốn sách viết cho cho nhiều loài cây dược liệu nên cây
thảo quả được giới thiệu ngắn gọn dưới dạng tóm tắt của bản hướng dẫn kỹ thuật cho
một số vùng ở Trung Quốc. Vì vậy, khi áp dụng ở Việt Nam, một số đặc điểm cũng
như biện pháp kỹ thuật có nhiều thay đổi để
phù hợp với điều kiện ở nước ta. Đây vẫn
là cuốn sách ghi lại một cách hệ thống

những kiến thức về cây thảo quả.
Trong những năm gần đây, khi con người nhận thức được tầm quan trọng của
lâm sản ngoài gỗ nói chung và thảo quả nói riêng, một số nhà khoa học tiếp tục
nghiên cứu về thảo quả. Năm 1992[39], J.H. de Beer - một chuyên gia lâm sản
ngoài gỗ của tổ chức Nông lương thế giới - khi nghiên cứu về vai trò và thị trường
của lâm sản ngoài gỗ đó nhận thấy giá trị to lớn của thảo quả đối với việc tăng thu
nhập cho người dân sống trong khu vực vùng núi nơi có phân bố thảo quả nhằm xoá
đói giảm nghèo, đồng thời là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh kinh tế xã hội vùng
núi và bảo tồn phát triển tài nguyên rừng. Về nhu cầu thị trường của thảo quả là rất
lớn, chỉ tính riêng ở Lào, hàng năm xuất khẩu khoảng 400 tấn sang Trung Quốc và
Thái Lan. Đây là công trình nghiên cứu tổng kết về vai trò thảo quả đối với con
người, xã hội cũng như tình hình sản xuất buôn bán và dự báo thị trường, tiềm năng
phát triển của thảo quả.
Năm 1996, Tiền Tín Trung, một nhà nghiên cứu về cây thuốc dân tộc tại viện
Vệ sinh dịch tễ công cộng Trung Quốc biên soạn cuốn sách "Bản thảo bức tranh
màu Trung Quốc". Cuốn sách đã mô tả tới hơn 1000 loài cây thuốc ở Trung Quốc,
một trong số đó là thảo quả. Nội dung đề cập là:
- Tên khoa học.
- Một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học cơ bản.
- Công dụng và thành phần hóa học của thảo quả.
Nhìn chung, nội dung có liên quan đến thảo quả trong cuốn sách đề cập tương
đối ngắn gọn, nó cho biết một số đặc điểm cơ bản về tỷ lệ thành phần các chất chứa
18

trong thảo quả nhưng đề cập rất ít đến đặc điểm sinh thái cũng như biện pháp kỹ
thuật gây trồng và phát triển thảo quả. Ở đây tác giả đã đề cập đến đặc điểm phân
loại của thảo quả, công dụng, phân bố, một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái
học của thảo quả. Tác giả cũng trình bày kỹ thuật nhân
giống, trồng, chăm sóc
bảo vệ, thu hái, chế biến, tình hình sản xuất và buôn bán

thảo quả trên thế giới.
1.1.3.2. Việt Nam
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ẩm và là một trong những nơi
phân bố tự nhiên của thảo quả. Từ lâu đời, nhân dân ta đó biết tìm kiếm và khai thác
thảo quả để làm thức ăn, thuốc chữa bệnh và coi thảo quả là cây "truyền thống".
Theo tài liệu của Pháp, thì công trình đầu tiên đề cập đến thảo quả là công trình
nghiên cứu về hệ thực vật Đông Dương của Lecomte et al gồm 7 tập với tên cuốn
sách "Thực vật chí đại cương Đông Dương". Tác giả đó thống kê được toàn Đông
dương có hơn 7000 loài thực vật, trong đó 1350 loài cây thuốc nằm trong 160 họ thực
vật mà thảo quả là một trong những loài cây có giá trị cao.
Năm 1999 [15], khi nghiên cứu những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, tác
giả Đỗ Tất Lợi đó cho rằng: Thảo quả là loài cây thuốc được trồng ở nước ta vào
khoảng năm 1890. Trong thảo quả có khoảng 1-1.5% tinh dầu màu vàng nhạt, mùi
thơm, ngọt, vị nóng cay dễ chịu có tác dụng chữa các bệnh đường ruột. Đây là một
công trình nghiên cứu khẳng định công dụng của thảo quả ở nước ta. Tuy nội dung
nghiên cứu về thảo quả của công trình còn ít, nhưng nó đã phần nào mở ra một triển
vọng cho việc sản xuất và sử dụng thảo quả trong y học ở nước ta. Vào những năm
1960 đến những năm 1980, một số nhà khoa học khi nghiên cứu về cây thuốc ở
nước ta có đề cập đến thảo quả. Do thảo quả là cây "truyền thống", có đặc thù
riêng khác với một số loài lâm sản ngoài gỗ là có phạm vi phân bố hẹp, chúng được
trồng chủ yếu dưới tán rừng ở các tỉnh phía Bắc như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang
nên các nhà khoa học ít quan tâm. Các công trình nghiên cứu liên quan còn tản mạn.
Năm 1982[19], Đoàn Thị Nhu công bố kết quả nghiên cứu của mình về "Bảo vệ,
khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc thiên nhiên và phát triển trồng cây thuốc trên
đất rừng ở Việt Nam". Trong đó tác giả kết luận: thảo quả là cây dược liệu quý và
thích nghi tốt ở điều kiện dưới tán rừng, tuy nhiên cho
đến nay vẫn chưa có nghiên
cứu nào về kỹ thuật gây trồng thảo quả dưới tán
rừng. Năm 1994, nhận thức được
tiềm năng nâng cao đời sống kinh tế xã hội của người dân vùng núi từ nghề rừng.

19

Tỉnh Lào Cai đã xác định thảo quả là loài cây giá trị cao cần được phát triển. Sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai đó phối hợp với các nhà khoa học
tại Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản tiến hành tổng kết các kinh nghiệm gây trồng,
thu hái và chế biến bảo quản thảo quả trong nhân dân. Sau gần 2 năm điều tra thu
thập, tổng hợp kết hợp với một số kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước, bản
hướng dẫn kỹ thuật tạm thời gây trồng thảo quả ra đời. Nội dung bản hướng dẫn là:
xác định tên khoa học loài thảo quả phân bố trong địa phương, mô tả một số đặc
điểm sinh vật học, sinh thái học cơ bản, kỹ thuật nhân giống, trồng, chăm sóc và thu
hái. Đây là bản hướng dẫn kỹ thuật về gây trồng và thu hái thảo quả ở nước ta. Do
chủ yếu là tổng kết kinh nghiệm trong nhân dân và kế thừa một số kết quả nghiên
cứu trong nước và trên thế giới cho nên các biện pháp kỹ thuật như chọn vùng
trồng, điều kiện lập địa trồng, nhân giống, chọn giống, trồng v.v còn chưa cụ thể,
vẫn mang tính chất định tính. Các căn cứ để xác định điều kiện lập địa trồng thích
hợp, thời vụ trồng, mật độ trồng v.v. để nâng cao năng suất và tính ổn định của mô
hình trồng thảo quả còn nhiều thiếu sót nên hiệu quả của mô hình thử nghiệm còn
thấp và chưa đảm bảo tính bền vững. Vì vậy, thực chất bản hướng dẫn kỹ thuật này
chỉ là tạm thời cần nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện.
Trong công trình " Đa dạng sinh học có mạch vùng núi cao Sa pa", các tác giả
Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thị Thời (1998) [29] đã phân loại lâm sản ngoài gỗ
theo hệ thống sinh thái và thống kê được tập đoàn đông đảo thực vật có giá trị làm
thuốc ở địa phương. Các tác giả đưa ra một số loài cây làm thuốc có thế mạnh của
khu vực không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có giá trị xuất khẩu, tăng thu nhập như
củ hoàng liên, thảo quả, cỏ xước,v.v Trong đó cần đặc biệt chú trọng phát triển cây
thảo quả. Bên cạnh một số nghiên cứu về hình thái và sinh thái, để phát hiện tiềm
năng công dụng của thảo quả trong lĩnh vực y dược, một số công trình nghiên cứu
về thành phần hoá học như: công trình về thành phần hoá học của thảo quả, công
trình đã đưa ra một cách khái quát về vai trò của thảo quả đối với người dân cũng
như địa phương, tình hình gây trồng, sản xuất, tiềm năng thị trường và hiệu quả của

thảo quả tại một số địa phương ở nước ta. Công trình này đã vẽ nên một bức tranh
khái quát về hiện trạng và xu hướng phát triển của thảo quả ở nước ta. Đồng thời cho
thấy tiềm năng về thảo quả ở nước ta rất lớn nhưng trong quá trình phát triển và mở
rộng gây trồng thảo quả cho năng suất cao còn gặp một số khó khăn. Khó khăn lớn
20

×