Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Đề tài: Thực trạng vận hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (857.31 KB, 89 trang )

trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
khoa ng©n hµng tµi chÝnh –

BµI TËP NHãM
TµI CHÝNH QuèC TÕ
Đề tài:
Thực trạng vận hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam và
các biện pháp hoàn thiện
Danh sách nhóm 2: 1. CQ500084 Nguyễn Nam Anh
2. CQ503141 Đinh Thị Hải Yến
3. CQ500896 Nguyễn Hoàng Hiệp
4. CQ503169 Võ Đức Anh
5. CQ500186 Nguyễn Thị Ngọc Bích
6. CQ501055 Đỗ Thị Hồng
7. CQ503110 Phạm Thị Thanh Xuân
8. CQ500276 Nguyễn Văn Chuẩn
9. CQ506001 SômPhaPhon MANG NO MEK
1
MỤC LỤC:

Trang
Lờ nói đầu………………………………………………………………… ……….3
Chương I: Lý luận chung về tỷ giá và chính sách tỷ giá……………………… ….4
1.1. Tỷ giá… ………………………………………………………………… … 4
1.1.1. Khái niệm và phân loại……………………………………………… … 4
1.1.1.1. Khái niệm……………………………………………………… …… 4
1.1.1.2. Phân loại……………………………………………………… …… 4
1.1.2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái………………………………… ……….6
1.1.2.1. Thuyết ngang giá vàng……………………………………… ……….6
1.1.2.2. Thuyết ngang giá sức mua (PPP )…………………………… ……….6
1.1.3. Niêm yết tỷ giá………………………………………………… …………8


1.2. Chính sách tỷ giá………………………………………………… ………… 9
1.2.1. Khái niệm và hệ thống chính sách tỷ giá…………………… …………….9
1.2.2. Các công cụ của Chính sách tỷ giá………………………… …………… 10
1.2.2.1. Nhóm công cụ trực tiếp………………………………… ………………10
1.2.2.2 Nhóm công cụ gián tiếp………………………………… ………………11
1.2.3. Vai trò của chính sách tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế……… ……………… 11
1.2.3.1. Đối với cán cân thanh toán…………………………… ……………… 11
1.2.3.2. Với lạm phát và lãi xuất……………………………… ………………….11
1.2.3.3. Với sản lượng và việc làm………………………………………… ….12
1.2.3.4. Đối với đầu tư quốc tế…………………………………………… …… 12
1.2.3.5. Với nợ nước ngoài……………………………………………… … ….12
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến TGHĐ………………………………… ……….13
1.2.4.1. Sức mua của mỗi đồng tiền trong một cặp tiền tệ……………… ……… 13
1.2.4.2. Cán cân thanh toán quốc tế…………………………………… ………13
1.2.4.3. Yếu tố tâm lý………………………………………………… … … 13
1.2.4.4. Vai trò quản lý của ngân hàng trung ương………………… …… …….13
1.2.4.5. Năng suất lao động………………………………………………… …….13
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tỷ giá…………………… ……14
1.3.1. Nhóm các nước có đồng tiền mạnh……………………………………… ….14
1.3.2. Nhóm các nước đang chuyển đổi về cơ cấu kinh tế (Ba Lan, Nga, Séc…) …14
1.3.3. Nhóm các nước Châu Á và khu vực ASEAN……………………………… 15
Chương II: Thực trạng chính sách tỷ giá ở Việt Nam……………………………………17
2.1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá………………………………………18
2.2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá…………………………………………….20
2.3. Thời kỳ 1992-2/1999…………………………………………………………… 21
2.4. Giai đoạn 1999 đến nay: thả nổi tỷ giá có điều tiết………………………………23
2.4.1.Giai từ tháng 2/1999 đến tháng 12/2002…………………………………… 23
2.4.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2006……………………………………… 32
2.4.3. Giai đoạn từ năm 2007 đến nay……………………………………………….38
2

Chương III: Tác động của tỷ giá đối với nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn gần đây………………………………… 53
3.1.Tác động đến lạm phát…………………………………………………………… 53
3.2.Mục tiêu cân bằng cán cân thương mại……………………………………………57
3.2.1.Tác động chính sách tỷ giá tới cân bằng cán cân thương mại
từ 1955 đến nay………………………………………………………58
3.3. Ảnh hưởng chính sách tỷ giá tới XNK trong những năm gần đây……………… 63
*.Đánh giá những thành tựu , hạn chế của chính sách tỷ giá hiện nay………….……66
Chương IV: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá
trong giai đoạn sắp tới…………………………… 70
4.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá…………………… 70
4.1.1. Một số quan điểm trong lĩnh vực điều hành tỷ giá…………………………….70
4.1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá
của Việt Nam trong thời gian tới…………………………………… …72
4.2. Mục tiêu và định hướng hoàn thiện của chính sách tỷ giá…………………………73
4.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá
của Việt Nam trong thời gian tới…………………………………… …74
4.3.1. Tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước……… …74
4.3.2. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ……………………………………… …….76
4.3.3. Hoàn thiện chính sách lãi suất, đảm bảo xử lý tốt mối quan hệ
giữa hai công cụ là lãi suất và tỷ giá……………………………… 80
4.3.4. Hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái trên cơ sở kết hợp đồng bộ
với các chính sách quản lý vĩ mô khác của Nhà nước…………………81
4.3.5. Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường ngoại hối theo định hướng
của nền kinh tế thị trường………………………………………… 83
4.3.6. Nâng cao hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN………………………84
4.3.7. Nhanh chóng thực hiện các công cụ phong ngừa rủi ro……………………… 84
Kết luận…………………………………………………………………………………………….87
3
LỜI NÓI ĐẦU

Tỷ giá hối đoái giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh
tế của mỗi quốc gia cũng như các quan hệ thương mại quốc tế thông qua
việc phản ánh tương quan giá trị đồng tiền của những nước khác nhau. Cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, ngày nay tỷ giá hối đoái
đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia và là vũ khí
lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt trên thế giới.
Trong thời gian qua, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đã nhiều lần thay đổi phương pháp điều hành tỷ giá. Từ chỗ
được giữ cố định, “đông cứng” trong một thời gian khá dài, đến nay tỷ giá
hối đoái đã được hình thành một cách khách quan theo tín hiệu thị trường và
có sự điều tiết của Nhà nước. Thực tế đã chứng minh rằng, cơ chế điều hành
tỷ giá hối đoái hiện nay là phù hợp với đặc điểm tình hình và mục tiêu phát
triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, để cơ chế điều hành tỷ giá mới có thể thực
sự phát huy tác dụng cần thiết phải có những cải cách hơn nữa trong việc
quản lý tỷ giá hối đoái. Làm sao để tỷ giá hối đoái sát hợp với tín hiệu thị
trường, theo hướng điều tiết của Nhà nước, khuyến khích xuất khẩu, hạn chế
nhập khẩu, nâng cao uy tín của đồng tiền và tiến tới một đồng Việt Nam có
khả năng chuyển đổi luôn là câu hỏi được đặt ra cho không chỉ những nhà
hoạch định chính sách mà còn cho tất cả chúng ta những người học và
nghiên cứu kinh tế.
Đề tài nghiên cứu: “Thực trạng vận hành chính sách tỷ giá ở Việt
Nam và các biện pháp hoàn thiện” được lựa chọn chính từ những yêu cầu,
đòi hỏi đó.
Nội dung của bài luận này chỉ dừng lại nghiên cứu việc điều hành chính sách
tỷ giá của NHTW Việt Nam và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác quản lý tỷ giá hối đoái trong thời gian tới. Bên cạnh đó, do hạn chế
về thời gian, thông tin và trình độ lý luận nên trong quá trình viết không
tránh khỏi những sai sót nhất định. Chúng em rất mong nhận được sự hướng
dẫn đóng góp của các thầy cô, bạn bè để hoàn thiện hơn trong việc học tập
4

1.1. Tỷ giá
1.1.1. Khái niệm và phân loại
1.1.1.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện đại, hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều có đồng tiền riêng khác nhau cả về hình thức lẫn giá trị và đều tham gia
ngày càng tích cực vào đời sống kinh tế xã hội quốc tế theo trình độ phát
triển và vị thế của quốc gia mình. Trong quá trình tham gia các hoạt động
thương mại, đầu tư, vay mượn và trao đổi quốc tế các nước, các tổ chức ,
cá nhân, các đối tác phải thanh toán với nhau thông qua các đồng tiền của
các bên được chuyển đổi, tính toán theo một tương quan tỷ lệ nhất định.
Vì vậy, tuỳ thuộc vào từng góc độ nghiên cứu, xem xét mà tỷ giá hối
đoái có thể được định nghĩa theo hai cách sau:
Định nghĩa 1: Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này
thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia.
Theo định nghĩa này, tỷ giá hối đoái được coi là giá cả của một loại
hàng hoá đặc biệt- hàng hoá tiền tệ.
Ví dụ: 1 USD = 19.500 VND
Định nghĩa 2: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của
hai nước với nhau mà trong thời đại ngày nay sự so sánh đó là sự so sánh
sức mua của các tiền tệ.
1.1.1.2. Phân loại
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh
nào đó của tỷ gía hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó. Do
vậy cần thiết phải phân loại tỷ giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá
khác nhau:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ.
5
a)Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm

hai loại:
Tỷ giá điện hối: là tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách
nhiệm chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -T/T)
Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách
nhiệm chuyển ngoại hối bằng thư ( mail transfen M/T)
b) Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các
loại
Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành trên
cơ sở ngang giá vàng.
Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ
cung cầu qui định .
Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước
không can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào
đó.
c)Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra
các
loại:
Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có
kỳ hạn bằng ngoại tệ.
Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển
khoản ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản qua
ngân hàng.
Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại
hối bằng tiền mặt.
d)Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mau bán
ngoại hối của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán

ngoại hối của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
6
Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận
ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao
nhận ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp
đồng(có thể là 1,2,3 tháng sau).
e)căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá
chia ra làm hai loại:
Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.
Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.
1.1.2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái
1.1.2.1. Thuyết ngang giá vàng
Trong thời kỳ bản vị kim loại, nhất là bản vị vàng (và bạc), các đồng
tiền quốc gia đều được so sánh, quy đổi với nhau trên cơ sở hàm lượng kim
loại (vàng) chứa đựng trong đồng tiền của mình hay do đơn vị đồng tiền của
mình đại diện. Trong giai đoạn này, đặc biệt từ năm 1870 đến thời kỳ đầu
đại chiến thế giới lần thứ nhất, người ta xác định tỷ giá giữa các đồng tiền
bằng cách so sánh hàm lượng vàng chứa trong mỗi đơn vị tiền tệ của từng
nước.
Ví dụ: Hàm lượng vàng của một bảng Anh (GBP) là 2,488281 gam và
của một đô la Mỹ là 0,888671 gam. Do đó, tỷ giá hối đoái của GBP và USD
là:
GBP/USD=2,488281/0,888671=2,80
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái của một nước cũng như trên
thế giới khá ổn định và thường chỉ biến động theo mức tăng giảm hàm lượng
vàng chứa đựng trong mỗi đơn vị tiền tệ.
Do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, đặc biệt là do những bất lợi của chế độ bản vị vàng (kiềm
chế sự phát triển kinh tế và giao lưu kinh tế quốc tế ) nên phần lớn các

nước đã từ bỏ chế độ bản vị vàng vào đầu những năm 30. Đến năm 1971,
các nước hoàn toàn bãi bỏ chế độ bản vị vàng.
1.1.2.2. Thuyết ngang giá sức mua ( Purchasing Power Parity - PPP )
7
Khi tỷ lệ lạm phát của một nước tăng tương đối so với lạm phát của
một nước khác, mức cầu đồng tiền nước đó giảm do xuất khẩu giảm. Ngoài
ra, người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có xu
hướng tăng nhập khẩu. Như vậy, cả hai lực lượng này tạo áp lực giảm giá
đồng tiền của nước có lạm phát cao.Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa
các quốc gia, tạo nên các kiểu mẫu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp
và ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái .
Một trong những lý thuyết nổi tiếng nhất và gây nhiều tranh cãi nhất
trong tài chính quốc tế là thuyết ngang giá sức mua, tập trung vào mối liên
hệ lạm phát – tỷ giá hối đoái.
Ý tưởng căn bản của thuyết ngang giá sức mua ban đầu được phát triển
bởi nhà kinh tế học cổ điển David Ricardo vào thế kỷ 19. Nhưng chính
Gustar Cassel, một nhà kinh tế người Thụy Điển mới là người phổ biến rộng
rãi PPP vào những năm 20 của thế kỷ XX. Trong những năm này, rất nhiều
nước như Đức, Hungary, Nga phải trải qua thời kỳ lạm phát phi mã vì sức
mua đồng tiền của các nước đó giảm rất mạnh, bị mất giá mạnh so với các
đồng tiền ổn định như USD. Lúc này quan niệm về thuyết PPP trở nên phổ
biến trước thực trạng lịch sử như vậy. Có nhiều hình thức khác nhau của
thuyết PPP.
Theo hình thức tuyệt đối, thuyết PPP là sự phát triển của quy luật một
giá. Nội dung cơ bản của quy luật một giá là: nếu hai nước cùng sản xuất
một loại hàng hoá giống nhau thì giá cả của hai loại hàng hoá đó giống nhau
trên toàn thế giới và không phụ thuộc vào nước nào sản xuất ra nó.
Như vậy, theo quy luật một giá thì nếu như thép của Mỹ được sản xuất
với giá 100 USD/tấn, còn thép của Nhật được sản xuất ra với giá 10.000
JPY/tấn thì có nghĩa là 1 USD = 100 JPY, tỷ giá USD/JPY = 100.

Giả sử tỷ giá USD/JPY = 50 thì điều đó có nghĩa: thép của Nhật bị đắt
tương đối so với thép của Mỹ. Khi đó cầu thép của Nhật sẽ giảm xuống cho
đến khi giá thép của Nhật còn 5000 JPY/tấn hoặc tỷ giá phải nâng lên
USD/JPY = 100 (tức là giảm giá đồng JPY). Tương tự khi tỷ giá là 150
JPY/USD thì xu hướng là cầu thép của Nhật tăng tới 15.000JPY/tấn hoặc tỷ
giá phải giảm xuống đến 100 JPY/USD (tăng giá đồng JPY).
Trên cơ sở quy luật một giá, thuyết PPP phát biểu rằng: Tỷ giá bất kỳ
giữa hai đồng tiền của hai nước sẽ bằng tỷ số mức giá của hai nước đó tại
cùng thời điểm.
Ví dụ: Thép Nhật tăng giá 11.000 JPY/tấn, thép Mỹ vẫn ở giá 100
USD/tấn, tỷ giá cũ là 100 JPY/USD, thì lúc đó thuyết PPP nói rằng tỷ giá sẽ
8
được điều chỉnh theo hướng giảm giá đồng JPY, tức là bằng 110 JPY/USD.
Việc vận dụng thuyết PPP chỉ cung cấp cho ta một hướng dẫn lâu dài về sự
vận động của tỷ giá.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn nó không được hoàn hảo, thậm chí còn bị
sai lệch đáng kể vì thị trường là không hoàn hảo, tồn tại chi phí vận chuyển,
bảo hiểm, thanh toán, thông tin và nhiều hàng rào thương mại khác, do đó,
thuyết PPP tuyệt đối hiếm khi thấy trong thực tế, nhưng thuyết PPP tương
đối lại khá phổ biến.
Thuyết PPP tương đối được duy trì, dù cho sức mua của đồng tiền
không giống nhau ở mọi nơi, thay đổi mức giá cả giữa hai quốc gia được hấp
thụ bởi sự biến động của tỷ giá, do đó, quan hệ PPP được duy trì không thay
đổi. Nếu nước A có tỷ lệ lạm phát bằng 0% và nước B có tỷ lệ lạm phát bằng
10% thì đồng tiền của nước B phải giảm giá 10% so với đồng tiền của nước
A. Sự biến động của tỷ giá sẽ duy trì tỷ lệ giá cả giữa hai nước trước và sau
khi lạm phát xảy ra là không thay đổi.
Nếu thuyết PPP tương đối hoạt động, có hiệu lực ngay lập tức và chính
xác, thì chính sách tiền tệ sẽ không có tác dụng cải thiện cán cân thương
mại. Bất cứ sự thay đổi nào trong các mức giá cả giữa hai nước do thay đổi

mức cung ứng tiền sẽ được hấp thụ ngay lập tức bởi sự thay đổi của tỷ giá.
Trong thực tế thuyết PPP tương đối có ảnh hưởng tương đối tới sự biến động
của tỷ giá, nhưng xảy ra chậm hơn. Xu hướng là rõ ràng nhưng nhiều yếu tố
có thể làm méo mó quan hệ này trong ngắn hạn. Một trong những nguyên
nhân chủ yếu là do trong giai đoạn ngắn hạn đối với cả thị trường trong nước
và thị trường quốc tế thì giá cả hàng hoá được coi như là cố định. Trong khi
đó tỷ giá trao đổi thì được điều chỉnh thường xuyên do sự cập nhật thông tin
và do sự thay đổi của chính sách kinh tế. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi của
tỷ giá đã tạo ra sự sai lệch lớn và kéo dài so với thuyết PPP.
1.1.3. Niêm yết tỷ giá
Theo tập quán kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, tỷ giá hối đoái thường
được yết giá như sau:
USD/DEM = 1,4125/1,4175
USD/VND = 15.300/15.500
Trong công thức trên, đồng USD đứng trước gọi là đồng tiền yết giá và
là một đơn vị tiền tệ. VND đứng sau gọi là đồng tiền định giá và là một số
đơn vị tiền tệ và thường xuyên thay đổi phụ thuộc vào thời giá của tiền yết
giá.
9
Tỷ giá đứng trước 15.300 là tỷ giá mua đô la trả bằng VND của ngân
hàng, được gọi là tỷ giá mua vào của ngân hàng (BID RATE).
Tỷ giá đứng sau 15.500 là tỷ giá bán đô la thu bằng VND của ngân
hàng, gọi là tỷ giá bán ra của ngân hàng (ASK RATE). Tỷ giá ASK thường
lớn hơn tỷ giá BID. Chênh lệch giữa chúng gọi là SPREAD, còn được gọi là
lợi nhuận (chưa nộp thuế) của ngân hàng trong giao dịch mua bán ngoại hối.
Trong giao dịch ngoại hối, khách hàng thường có thể lấy tên thủ đô của
các nước công nghiệp phát triển thay cho tên tiền tệ của nước đó ở vị trí tiền
định giá. Ví dụ: thay vì đọc USD/DEM người ta đọc “tỷ giá
USD/FrankFurt”, USD/FRF là “tỷ giá USD – Paris”
Để đảm bảo tính nhanh gọn, các tỷ giá thường không được đọc đầy đủ

mà chỉ đọc những con số thường biến động, đó là những con số cuối. Ví dụ:
USD/DEM = 1,7015 chỉ được đọc các số lẻ sau dấu phẩy. Các số này chia
làm hai nhóm số. Hai số thập phân đầu tiên đọc là “Số” (Figure), hai số kế
tiếp đọc là “Điểm” (Point). Tỷ giá trên đọc là “Đô la, Đê mác bằng một, bảy
mươi số, mười lăm điểm”. Cách đọc điểm có thể dùng phân số “một phần
tư” thay vì đọc 25, “ba phần tư” thay vì đọc 75.
Phương pháp yết giá ngoại tệ: Có hai phương pháp yết giá ngoại tệ là
yết giá trực tiếp và yết giá gián tiếp.
Nếu xét ở góc độ thị trường tiền tệ quốc tế, trên thế giới hiện nay chỉ
có hai đồng tiền quốc gia: USD, GBP và hai tiền tệ quốc tế: SDR, EURO
(trước đây là ECU) là dùng cách yết giá trực tiếp (Certain quotation), các
tiền tệ còn lại dùng cách yết giá gián tiếp (incertain quotation):
Ví dụ: USD/DEM, GBP/FRF, SDR/FRF, SDR/FRF
Có nghĩa là giá của USD, GBP hay của SDR, EURO được thể hiện
trực tiếp ra bên ngoài, còn các tiền tệ khác như DEM, FRF, VND mới thể
hiện gián tiếp ra bên ngoài. Ví dụ: USD/VND = 15.000
Tức là giá của một USD bằng 15.000 VND, còn giá của một VND
chưa thể hiện trực tiếp ra bên ngoài; muốn xác định ta làm phép chia như
sau:
1 VND = 1/15000 ≈ 0,00007 USD
10
Nếu xét ở góc độ thị trường tiền tệ quốc gia, thì nước Anh và nước Mỹ
dùng cách yết giá gián tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối, còn các quốc gia
khác lại dùng cách yết giá trực tiếp để thể hiện giá cả ngoại hối.
1.2. Chính sách tỷ giá
1.2.1. Khái niệm và hệ thống chính sách tỷ giá
Chính sách tỷ giá là tổng thể các nguyên tắc công cụ biện pháp được
nhà nước điều chỉnh tỷ giá của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định
nhằm đạt mục tiêu đã định trong chiến lược phát triển của quốc gia đó.
Để quản lý và điều hành tỷ giá NHTW thường sử dụng các chính sách

chủ yếu sau:
- Chính sách chiết khấu: khi NHTW nâng cao lãi suất chiết khấu làm
lãi suất trên thị trường tăng, làm các nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường
quốc tế chạy vào nước mình để thu lợi tức cao làm dịu sự căng thẳng của
cầu vượt cung ngoại hối do đó làm tỷ giá giảm xuống và ngược lại.
- Chính sách hối đoái: khi tỷ giá lên cao NHTW bán ngoại hối ra thị
trường kéo tỷ giá tụt xuống và ngược lại. Tuy nhiên NHTW phải có dự trữ
ngoại hối đủ lớn, nếu cán cân thanh toán thiếu hụt thường xuyên thì khó có
đủ ngoại hối thực hiện phương pháp này.
- Phá giá tiền tệ: là sự nâng cao một cách chính thức TGHĐ hay là việc
nhà nước hạ thấp sức mua đồng tiền nước mình so với ngoại tệ làm đẩy
mạnh xuất khẩu hạn chế nhập khẩu cải thiện cán cân thương mại làm tỷ giá
bớt căng thẳng.
- Nâng giá tiền tệ: là việc Nhà nước chính thức nâng giá đơn vị tiền tệ
nước mình so với ngoại tệ làm cho tỷ giá giảm xuống.
1.2.2. Các công cụ của Chính sách tỷ giá
1.2.2.1. Nhóm công cụ trực tiếp
NHTW thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố
định hay gây ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định
theo mục tiêu đã đề ra. Hoạt động can thiệp trực tiếp của ngân hàng trung
ương tạo ra hiệu ứng thay đổi cung tiền có thể tạo ra áp lực lạm phát hay
thiểu phát không mong muốn cho nền kinh tế vì vậy đi kèm hoạt động can
thiệp này của NHTW thì phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị trường mở để hấp
thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ ở lưu thông.
11
Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ được thực hiện thông qua việc
NHTW tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ. Một nghiệp vụ
mua ngoại tệ trên thị trường của NHTW làm giảm cung ngoại tệ do đó làm
tăng tỷ giá hối đoái và ngược lại. Do đó đây là công cụ có tác động mạnh lên
tỷ giá hối đoái.

Nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là việc NHTW mua bán có chứng từ có
giá. Tuy nhiên nó chỉ tác động gián tiếp đến tỷ giá mà lại có tác động trực
tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô khác (lãi suất, giá cả). Nó được dùng phối
hợp với nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội
tệ do nghiệp vụ thị trường mở gây ra.
Ngoài ra Chính phủ có thể sử dụng biện pháp can thiệp hành chính như
biện pháp kết hối, quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định
hạn chế mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ,
quy định hạn chế thời gian mua ngoại tệ, nhằm giảm cầu ngoại tệ, hạn chế
đầu cơ và giữ cho tỷ giá ổn định.
1.2.2.2 Nhóm công cụ gián tiếp
Lãi suất tái chiết khấu là công cụ hiệu quả nhất. Cơ chế tác động đến tỷ
giá hối đoái của nó như sau: Khi lãi suất chiết khấu thay đổi kéo theo sự thay
đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó tác động đến xu hướng
dịch chuyển của dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn hoặc ít nhất
làm cho người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang
đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Cụ
thể lãi suất tăng dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn trên thị
trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và người sở hữu vốn ngoại tệ trong
nước sẽ có xu hướng chuyển đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi
suất cao hơn do đó tỷ giá sẽ giảm (nội tệ tăng) và ngược lại muốn tăng tỷ giá
sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu.
Muốn giảm tỷ giá hối đoái thì Chính Phủ có thể quy định mức thuế
quan cao, quy định hạn ngạch và thực hiện trợ giá cho những mặt hàng xuất
khẩu chiến lược. Và ngược lại sẽ làm tăng tỷ giá hối đoái.
Ngoài ra Chính Phủ có thể sử dụng một số biện pháp khác như điều
chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ vớiNHTW, quy định mức lãi suất
trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ. Mục đích là phòng ngừa rủi
ro tỷ giá, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu
mất cân đối.

12
1.2.3. Vai trò của chính sách tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế
1.2.3.1. Đối với cán cân thanh toán
Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc
gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng xuất nhập khẩu của
chính quốc gia đó. Khi TGHĐ tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá
trong nước của hàng nhập khẩu và giảm giá ngoài nước của hàng xuất khẩu
của nước đó, cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước. Các
nguồn lực sẽ được thu hút vào những ngành sản xuất mà giờ đây có thể cạnh
tranh hiệu quả hơn so với hàng nhâp khẩu và cũng vào ngành xuất khẩu mà
giờ đây có thể có hiệu quả hơn trên các thị trường quốc tế. Kết quả là xuất
khẩu tăng nhập khẩu giảm làm cán cân thanh toán được cải thiện.
1.2.3.2. Với lạm phát và lãi suất
Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng
nhập khẩu tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình,các nhà sản xuất sử dụng đầu
vào nhập khẩu phải tiêu dùng hàng nhập khẩu với mức giá tăng cùng tỷ lệ
phá giá. Kết quả mức giá chung trong nền kinh tế trở nên cao hơn đặc biệt là
nền kinh tế nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có xuất khẩu và nhập khẩu
chiếm tỷ lệ cao so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua
các năm có nghĩa là lạm phát đã tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có
thể kiểm soát sẽ kích thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ
tác động làm lãi xuất tăng làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời
sống kinh tế.
1.2.3.3. Với sản lượng và việc làm
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước
thì khi TGHĐ tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh
tranh cho các lĩnh vực này giúp phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn
việc làm giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên và ngược lại.
1.2.3.4. Đối với đầu tư quốc tế
- Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư

nước ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản
xuất được đưa vào nước sở tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo
tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi phí sản xuất và
hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi TGHĐ có ảnh
hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết
định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
13
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng
quốc tế cũng như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ
tăng tổng lợi tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ
xảy ra hiện tượng luồng vốn chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm
luồng vốn sẽ đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế
đòi hỏi các quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định
hợp lý giảm mức độ rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
1.2.3.5. Với nợ nước ngoài
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ
nước đó hoặc những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng
nghĩa với sự tăng lên của gánh nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân
chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước đặc biệt các nước đang
phát triển càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để đảm bảo
tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến TGHĐ
1.2.4.1. Sức mua của mỗi đồng tiền trong một cặp tiền tệ
Do tỷ giá được xác định dựa trên quan hệ cung cầu về ngoại hối và
nguyên tắc một giá nên khi sức mua của đồng nội tệ tăng lên sẽ làm tỷ giá
giảm xuống và ngược lại
1.2.4.2. Cán cân thanh toán quốc tế

Đây là yếu tố cực kì quan trọng trong những yếu tố kinh tế tác động
đến tỷ giá. Đánh giá chung có tính chất truyền thống đối với sự biến động
của TGHĐ, các nhà kinh tế đều cho rằng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và
dịch vụ quốc gia là những nhân tố cơ bản đứng sau lưng tăng giá TGHĐ.
Tình trạng của cán cân thanh toán tác động đến cung cầu về ngoại hối
do vậy, tác động trực tiếp đến TGHĐ.
1.2.4.3. Yếu tố tâm lý
14
Dựa vào sự phán đoán từ các sự kiện kinh tế, chính trị của một nước
và tình hình thế giới, cả chính trị và kin tế có liên quan các nhà kinh doanh
ngoại hối bao gồm các ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp và kể cả
người đầu cơ tùy theo sự phán đoán đó mà hành động.
Yếu tố tâm lý ảnh hưởng một cách hết sức nhạy cảm đối với thị
trường tài chính, trong đó có thị trường hối đoái. Tuy nhiên những biến động
này bao giờ cũng mang tính chất ngắn hạn, xác lập một vị thế ngắn hạn.
1.2.4.4. Vai trò quản lý của ngân hàng trung ương
Chế độ tỷ giá mà phần đông các nước vận hành là thả nổi có quản lý
do đó vai trò can thiệp của nhà nước giữ vị trí quan trọng. NHTW tự biến
mình thành một bộ phận của thị trường, quyện chặt với thị trường, lúc với tư
cách người mua lúc khác là tư cách người bán, nhằm tác động về phía cung
hay cầu của quỹ ngoại hối thị trường nhằm cho ra một tỷ giá phù hợp như ý
đồ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên điều kiện vật chất để có thể can thiệp là
thực lực về tiềm năng quốc gia biểu hiện bằng quỹ ngoại tệ bình ổn giá, bao
gồm ngoại tệ dự trữ quốc gia.
1.2.4.5. Năng suất lao động
Nếu năng suất lao động trong nước có sự gia tăng sẽ làm cho mức giá
tương đối có xu hướng sụt giảm làm đồng ngoại tệ có xu hướng giảm hay
đồng nội tệ lên giá làm tỷ giá giảm xuống.
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tỷ giá
Hiện nay trên thế giới, các quốc gia nhìn chung đều sử dụng chính sách thả

nổi có quản lý nhưng mức độ quản lý hay thả nổi là khác nhau ở các quốc
gia khác nhau.
1.3.1. Nhóm các nước có đồng tiền mạnh
Những nước này gần như tự do ngoại hối và thống nhất một tỷ giá duy
nhất cho tất cả các hoạt động có liên quan. Các nước này có khả năng dự trữ
ngoại tệ của NHTW dồi dào, có thị trường ngoại hối phát triển ở mức độ
cao, các công cụ gián tiếp mà NHTW sử dụng rất phong phú, đa dạng và có
tính chất hỗ trợ nhau. Điển hình ở nhóm này là Mỹ.
Thị trường tiền tệ, ngoại hối của Mỹ là thị trường phát triển và hoàn
chỉnh vào loại nhất thế giới, nghệ thuật điều chỉnh tỷ giá của họ cũng đạt đến
độ hoàn hảo và có ảnh hưởng toàn cầu. Chính sách đồng đô-la yếu, rơi tự do
chính là yếu tố kích thích xuất khẩu của Mỹ, thúc đẩy tăng trưởng tạo ra
nhiều nhu cầu việc làm, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp vốn vẫn lơ lửng
15
như một mối đe doạ với siêu cường quốc kinh tế thế giới. Về dài hạn, chính
sách này ít nguy cơ gây tăng mạnh lạm phát và sẽ làm tăng lãi suất và kích
thích các nhà đầu tư nước ngoài tạo ra hàng tỷ đô-la cho Mỹ trang trải các
thâm hụt trong ngân sách và tài khoản vãng lai.
1.3.2. Nhóm các nước đang chuyển đổi về cơ cấu kinh tế (Ba Lan,
Nga, Séc…)
Các nước trong nhóm này đều gắn đồng tiền với một số ngoại tệ nhất
định (Ba Lan với 5 đồng tiền USD, DEN, GBP, FRF, CHF; CH Séc với 2
đồng tiền DEM, USD) tỷ giá được công bố hàng ngày với mức dao động
cho phép. NHTW sẽ can thiệp khi tỷ giá ra ngoài biên độ dao động. Trong
giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường, dự trữ ngoại tệ thấp, thị trường
hối đoái và nội tệ chưa phát triển thì cơ chế trên tỏ ra là một điểm tựa tương
đối chắc chắn cho NHTW trong việc kiểm soát chính sách tỷ giá. Chúng ta
sẽ xem xét trường hợp của nước Nga.
Trước cuộc khủng hoảng T8/1998, chủ trương thực hiện liệu pháp
‘sốc’ để cải tổ nền kinh tế, Chính phủ Nga đã áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi

hoàn toàn cùng với khá nhiều chính sách tự do hoá trong giai đoạn 91-95.
Những đợt phá giá vô căn cứ đã góp phần tạo ra sự tụt dốc tới 3000 lần của
đồng Rúp so với USD, làm tăng lạm phát trong nước. Ước tính đến năm
1995, tổng giá trị USD bằng tiền mặt lưu hành quy đổi giá trị so với đồng
Rúp đã vượt quá 3 lần, Nga là quốc gia tầm cỡ duy nhất trong lịch sử phụ
thuộc quá nhiều vào đồng tiền của một quốc gia khác. Ngày 6-7-1995, Chính
phủ Nga đưa ra hệ thống ‘hành lang hối đoái’ nhằm tạo tiền đề cho quá trình
cố định tỷ giá đồng tiền này.
Năm 1998, sau khi thay đổi mệnh giá đồng Rúp theo tỷ lệ mới
1/1000 tỷ giá đồng Rúp giảm xuống còn một con số, Chính Phủ Nga đã
quyết định thực hiện chính sách cố định tỷ giá ở mức 6.2 R/USD. Song với
những biến động quá lớn về giá cả một số mặt hàng chủ chốt trên thị trường
quốc tế đã gây nên khủng hoảng tiền tệ T8/1998, hệ thống Ngân hàng rơi
vào tình trạng mất khả năng thanh toán, khoảng 1/3 ngân hàng bị phá sản,
gần 160 tỷ USD nợ nước ngoài không có khả năng trả Ngày 9/9/1998, Nga
đã buộc phải từ bỏ mục tiêu biên độ tỷ giá và chuyển sang hệ thống tỷ giá
hối đoái thả nổi, do thị trường quyết định, NHTW chỉ có nhiệm vụ ngăn
chặn sự dao động quá nhiều của tỷ gía. T7/2004, NHTW Nga đã quyết định
chuyển sang hệ thống mới, tỷ gía được xác định trên cơ sở tỷ giá bình quân
của đồng Rúp so với USD và € .
Bài học rút ra ở đây là:
16
+ Cơ chế điều hành TGHĐ cần được đặt trong mối quan hệ với lãi
suất và lạm phát, phù hợp với từng thời kỳ nhất định, phối hợp song song
với chính sách kinh tế trên tất cả ngành lĩnh vực khác.
+ Sự phá giá vô căn cứ đồng tiền quốc gia trong thời kỳ chuyển
đổi và chính sách thả nổi khiến đồng tiền nội tệ bị mất giá nghiêm trọng, lạm
phát gia tăng khó kiểm soát làm tháo chạy dòng vốn đầu tư nước ngoài,
giảm tốc độ tăng trưởng.
+ Cơ chế TGHĐ thả nổi nếu được đặt trong biên độ dao động nhất

định có thể thành công và thích hợp với công cuộc cải cách kinh tế- xã hội.
1.3.3. Nhóm các nước Châu Á và khu vực ASEAN
Các nước ASEAN đa số đều thả nổi TGHĐ, không quy định giới hạn
với các NHTM. Đa số các nước này có thị trường hối đoái phát triển, thị
trường chứng khoán có tốc độ tăng trưởng cao, mức dự trữ ngoại tệ lớn đủ
điều kiện để tiến tới tự do hoàn toàn, NHTW có đủ sức cũng như các công
cụ để can thiệp trong trường hợp cần thiết.
Trung Quốc là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng mạnh và hàng đầu
ở Châu Á, T4/1994 Chính Phủ nước này đã chính thức công bố thực hiện
chính sách TGHĐ “thả nổi có quản lý”: tỷ giá đồng NDT được dao động
trong một biên độ hẹp và NHTW có thể điều chỉnh tỷ giá mục tiêu trên cơ sở
các biện pháp kiểm soát chặt chẽ vốn vào ra của Chính phủ. Điều này không
những làm ổn định tiền tệ mà còn tạo được lòng tin của nhõn dõn thông qua
việc đưa đồng tiền đến gần giá trị thực của nó. T12/1996, NDT được chính
thức chuyển đổi trong các giao dịch trên tài khoản vãng lai sau khi đựơc ấn
định ở mức 8.27 NDT/USD( biên độ dao động 0.125% ). Chế độ tỷ giá mới
này đã biến Trung Quốc thành khu vực an toàn, thu hút đầu tư rất mạnh kể
cả trong thời kỳ khủng hoảng khu vực, thay thế Mỹ trở thành nước thu hút
FDI lớn nhất thế giới, dự trữ ngoại tệ chỉ xếp sau Nhật Bản. Vai trò của đồng
NDT ngày càng được củng cố và nâng cao trên khu vực và thế giới.
Ngày 31/7/2005, Trung Quốc tuyên bố TGHĐ đồng NDT căn cứ
vào “giỏ” ngoại tệ gồm USD, Euro, yên Nhật và đồng won Hàn Quốc.
NHTW Trung Quốc mới đây đã tăng giá NDT 2% nhằm làm dịu tình trạng
mất cân bằng trong mậu dịch đối ngoại của Trung Quốc, mở rộng kích cầu
trong nước cũng như nâng cao mức cạnh tranh của doanh nghiệp trên trường
quốc tế, nâng cao hiệu quả tận dụng vốn nước ngoài…Người phát ngôn
NHTW Trung Quốc cho biết: hiện nay khâu quản lý ngoại tệ của nước này
đã được nới lỏng dần dần, việc xây dựng thị trường ngoại tệ không ngừng
tăng cường, các cuộc cải cách tiền tệ đã thu được tiến triển thực chất, kiểm
soát vĩ mô thu được thành quả nổi bật, kinh tế quốc dân tiếp tục duy trì đà

17
tăng trưởng ồn định.Vì vậy Trung Quốc chọn thời điểm này để thực hiện cải
cách tỷ giá.
Kết luận
Khi có một thị trường hối đoái và nội tệ phát triển ở mức cao có đầy
đủ công cụ gián tiếp giúp NHTW linh hoạt trong can thiệp và trung hoà giữa
các chỉ tiêu của chính sách tiền tệ.Bản thân nền kinh tế đó cũng phải phát
triển mạnh, có dự trữ đồng tiền có sức mạnh và có khả năng chuyển đổi, ổn
định tương đối, có xu hướng tăng giá.
Đặc trưng chính sách tỷ của một quốc gia phụ thuộc chủ yếu
vào cơ chế xác định và cơ chế can thiệp lên tỷ giá mà quốc
gia đó áp dụng. Căn cứ vào cơ chế xác định và cơ chế can
thiệp lên tỷ giá, thì chính sách tỷ giá của Việt Nam kể từ khi
có đồng tiền Quốc gia (1955) cho đến nay có thể được chia
thành bốn giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất: 1955-1989
Đặc trưng của thời kỳ này là nhà nước độc quyền về ngoại thương và
ngoại hội, do đó tỷ giá cũng do Nhà nước độc quyền xác định, không tính
đến yếu tố cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Đây là thời kỳ chế độ tỷ giá cố
định, đa tỷ giá với tính chất phi thị trường sâu sắc.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
Ở VIỆT NAM
18
Giai đoạn thứ hai: 1989-1991
Đặc trưng của thời kỳ này là bãi bỏ chế độ đa tỷ giá, chuyển sang áp
dụng chế độ đơn tỷ giá (tỷ giá chính thức) và được điều chỉnh mạnh theo tín
hiệu thị trường. Chính vì vậy, nhiều người coi thời kỳ này là thời kỳ “thả
nổi” tỷ giá, Nhà nước không có khả năng kiểm soát.
Giai đoạn thứ ba: 1992- 2/1999
Đặc trưng của thời kỳ này là tỷ giá được chính thức ấn định trên các cơ

sở :
Đấu thầu tại trung tâm giao dịch ngoại tệ từ 10/1991 đến 31/12/1994.
Do đó nội dung tỷ giá đã hàm chứa yếu tố cung cầu ngoại tệ trên thị trường
Tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng từ
1/1995 đến 2/1999. Chính vì vậy nội dung tỷ giá đã hàm chứa nội dung cung
cầu ngoại tệ toàn diện và khách quan hơn trước.
Ngoài ra trong giai đoạn này đã nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính- tiền
tệ Đông Nam Á 1997-1998.
Giai đoạn thứ tư: Từ tháng 2/1999 đến nay
Đặc trưng cơ bản của thời kỳ này là thay vì ấn định và công bố tỷ giá
chính thức, NHNN bây giờ chỉ “thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên
ngân hàng. Đây là thời điểm chuyển từ chế độ tỷ giá cố định (tỷ giá chính
thức ) sang chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết.
Trong bốn giai đoạn nêu trên, bài thảo luận này xin được điểm qua
những nét nổi bật trong 3 giai đoạn đầu và đi sâu vào giai đoạn gần đây
nhất với chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết từ 2/1999 đến nay.
2.1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá
a) Bối cảnh kinh tế
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và
hướng nội. Đây là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Các bạn hàng chủ yếu là các nước XHCN trong hội đồng tương trợ
kinh tế. Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các
nước theo một tỷ giá đã được thoả thuận trong hiệp định ký kết song phương
hay đa phương.
19
b) Chính sách tỷ giá (phương pháp xác định, chính sách quản lý)
Tỷ giá trong giai đoạn này được xác định dựa trên việc so sánh sức
mua giữa hai đồng tiền, sau đó được qui định trong các hiệp định thanh toán
được ký kết giữa các nước XHCN.
Tỷ giá của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là

tỷ giá giữa đồng Nhân dân tệ (CNY) và VND. 1CNY=1470VND. (Tỷ giá
này được xác định bằng cách chọn ra 34 đơn vị hàng hóa cùng loại, thông
dụng nhất, tại cùng một thời điểm tại thủ đô và có tham khảo thêm giá cả ở
một số tỉnh khác để qui đổi ra tổng giá cả của 34 mặt hàng đó theo hai loại
tiền của 2 nước.)
Sau đó, khi Việt Nam có quan hệ ngoại thương với Liên Xô, tỷ giá
giữa VND và đồng Rúp (SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa CNY và SUR
đã có từ trước. 1 SUR = 0.5 CNY ⇒ 1 SUR = 735 VND.
Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này được giữ cố định trong một thời
gian dài.
Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là
việc tồn tại song song nhiều loại tỷ giá: tỷ giá chính thức, phi mậu dịch, kết
toán nội bộ.
- Tỷ giá chính thức: (còn gọi là tỷ giá mậu dịch) là tỷ giá do ngân hàng
nhà nước công bố và dùng để thanh toán mậu dịch với Liên Xô và các nước
XHCN khác. Đây là tỷ giá dùng trong thanh toán có liên quan đến mua, bán
hàng hóa, dịch vụ vật chất giữa các nước trong phe XHCN.
- Tỷ giá phi mậu dịch: là tỷ giá dùng trong thanh toán chi trả hàng hóa
hoặc dịch vụ vật chất không mang tính thương mại . Như: chi về ngoại giao,
đào tạo, hội thảo, hội nghị…
- Tỷ giá kết toán nội bộ: được tính trên cơ sở tỷ giá chính thức cộng
thêm hệ số phần trăm nhằm bù lỗ cho các đơn vị xuất khẩu. Tỷ giá này
không công bố ra ngoài mà chỉ áp dụng trong thanh toán nội bộ. Nó thoát ly
tỷ giá mậu dịch nhằm bù đắp những khoản thua lỗ trong kinh doanh xuất
nhập khẩu của các doanh nghiệp nhà nước. Đây thực chất là một hình thức
bù lỗ có tính chất bao cấp thông qua tỷ giá.
c) Tác động đến nền kinh tế
Thực ra trong giai đoạn này do quan hệ thương mại đầu tư của Việt
Nam và khối SEV là quan hệ hàng đổi hàng, mang nặng tính chất viện trợ,
việc di chuyển, chuyển giao về ngoại tệ là không có nên việc quy định tỷ giá

hối đoái giữa VND và các ngoại tệ khác chỉ mang tính hạch toán.
20
Quan hệ về cung cầu ngoại hối trên thị trường đã không được phản ánh
đúng đắn trong tỷ giá. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là việc tồn tại
một thị trường “chợ đen” với một tỷ giá khác xa tỷ giá chính thức.
Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường tự do
1985 15 115
1986 80 425
1987 368 1.270
1988 3.000 5.000
1989 3.900 4.750
Do đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự
do chuyển đổi nên:
- Cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, xuất khẩu gặp nhiều bất lợi
trong khi nhập khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hậu quả là hàng nội
bị hàng ngoại chèn ép, sản xuất trong nước bị đình đốn.
- Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ để bù lỗ cho các đơn vị
sản xuất hàng xuất khẩt nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù
đắp chi phí sản xuất.
- Cán cân thanh toán bị bội chi, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút, phản ứng
của chính phủ lúc này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mậu dịch và
kiểm soát hàng nhập khẩu. Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vật
tư, hàng hóa, nguyên vật liệu cần thiết khiến cho tốc độ tăng trưởng chậm
lại, sản xuất trong nước trì trệ, đình đốn lại càng trở nên tồi tệ, sức ép lạm
phát tăng vọt.
2.2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá
a) Bối cảnh kinh tế.
Đông Âu, Liên Xô sụp đổ, quan hệ ngoại thương được bao cấp với các
thị trường truyền thống bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn
bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ.

21
Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm
1989. Chính phủ cam kết và thực thi chiến lược ổn định hóa nền kinh tế - tài
chính – tiền tệ, trong đó vấn đề tỷ giá được coi là khâu đột phá, có vai trò
cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách, chuyển đổi cơ chế và mở cửa
kinh tế.
b) Chính sách tỷ giá.
Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng
Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện
chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức
năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng. Tỷ giá mua bán của các ngân hàng được
phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5%.
Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc
điều chỉnh giảm giá mạnh nội tệ (không khác gì thả nổi). (Bảng dưới)
Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ
yếu vào quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông qua chính sách
tỷ giá linh hoạt hơn – điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường
tự do sao cho mức chênh lệch nhỏ hơn 20%. Kết quả là mức chênh lệch tỷ
giá được thu hẹp.
Năm
Tỷ giá ngân hàng
(bình quân)
Tỷ giá thị trường
tự do (bình quân)
1989 3.900 4.750
1990 5.133 5.610
1991 9.274 9.546
1992 11.179 11.334
c) Tác động đến nền kinh tế.
Kim ngạch xuất khẩu tăng. Năm 1990 tăng 18,8% ; 1991: 48,63%.

Đồng Việt Nam liên tục bị mất giá so với Đô la Mỹ làm giá cả hàng
nhập khẩu tăng nhanh. Chi phí đầu vào cho quá trình sản xuất tăng lên là
22
điều kiện thúc đẩy lạm phát. Tỷ lệ lạm phát của nước ta tăng trở lại: từ
34,7% năm 1989 lên 67,5% trong hai năm 1990 và 1991.
2.3. Thời kỳ 1992-2/1999
a) Bối cảnh kinh tế.
Thị trường với các nước XHCN cũ bị thu hẹp một cách đáng kể.
Về phương diện thanh toán quốc tế, Việt Nam đứng trước một tình thế
vô cùng khó khăn. Bên cạnh hệ thống thanh toán đa biên đã bị tan rã, tất cả
các nước CNXH đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt
Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi (chủ yếu là USD). Việc chuyển đổi
đồng tiền thanh toán có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán của Việt
Nam bằng ngoại tệ vì trước đó, hầu hết nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam đều
bằng đồng Rúp chuyển nhượng, chỉ có một lượng nhỏ bằng ngoại tệ tự do
chuyển đổi.
Điều đó đã dẫn đến cán cân vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt
lớn, nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu. sự thiếu hụt trong cán cân thương mại
được bù đắp bằng các khoản viện trợ, cho vay của các nước CNXH mà chủ
yếu là Liên Xô.
Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á bùng nổ
buộc các nước này phải tiến hành phá giá mạnh đồng nội tệ và Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
b) Chính sách tỷ giá.
-Thời kỳ 1992-1994: tỷ giá chính thức hình thành trên cơ sở đấu thầu
tại trung tâm giao dịch ngoại tệ.
Trong thời gian này, NHNN đề nghị với chính phủ thành lập Quỹ điều
hòa ngoại tệ tại NHNN để có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm ổn
định tỷ giá. Chính phủ ủy quyền cho Thống đốc được toàn quyền điều hành
quỹ một cách linh hoạt.

Có thể nói, việc thành lập quỹ ngoại tệ tại NHNN đã làm dịu những
biến động thất thường của tỷ giá trên thị trường. NHNN đã sử dụng quỹ một
cách rất linh hoạt và hiệu quả. Quỹ tạo cho NHNN một nguồn lực thực sự để
can thiệp nhằm ổn định tỷ giá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế về
ngoại tệ.
Tháng 9/1991 ngân hàng nhà nước đã thành lập một trung tâm giao
dịch ngoại tệ tại thành phố Hồ Chí Minh và tháng 11/1991, một trung tâm
giao dịch thứ hai ở Hà Nội cũng ra đời.
23
Đối tượng tham gia giao dịch trên các trung tâm này là các ngân hàng
được phép kinh doanh ngoại tệ, các tổ chức XNK kinh doanh trực tiếp với
nước ngoài và NHNN. Ngoài ra các ngân hàng được phép tập hợp các yêu
cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng không trực tiếp mua bán tại trung tâm.
Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoặc
ngược lại để đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
Tỷ giá chính thức của đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào tỷ
giá đóng cửa tại các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ giá
mua vào không được vượt quá 0.5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch
trước.
Việc thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ là bước ngoặt đầu tiên
của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự theo hướng thị
trường. Thông qua hoạt động của hai trung tâm, với vai trò là người tổ chức
và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường
để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị
trường.
Năm Tỷ giá chính thức
1992 10.718
1993 10.840
1994 11.003
-Thời kỳ 1995-1999: tỷ giá được hình thành trên cơ sở tỷ giá liên ngân

hàng.
Thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (20/10/1994). Có qui mô
lớn hơn, hoạt động linh hoạt hơn nên tỷ giá hối đoái ngày càng phản ánh đầy
đủ hơn quan hệ cung cầu thị trường. Qua thị trường liên ngân hàng, ngân
hàng nhà nước nắm bắt dấu hiệu thị trường về tỷ giá hối đoái, công bố tỷ giá
chính thức hàng ngày và biên độ giao dịch cho các ngân hàng thương mại.
Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ Châu Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị
trường ngoại hối rơi vào tình trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ
luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-1998, nhà nước đã ba lần chủ động
24
điều chỉnh tỷ giá VND/USD, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch giữa các
ngân hàng thương mại với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ.
Năm Tỷ giá chính thức
1995 11.021
1996 11.040
1997 11.175
1998 12.985
1999 14.016
c) Tác động đến nền kinh tế.
Cuối giai đoạn, trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng tài chính ở khu vực,
tỷ giá tăng lên do điều chỉnh của chính phủ là để tăng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa Việt Nam.
Việc tỷ giá của Việt Nam không tăng quá nhanh như của các nước khác
trong khu vực có tác động tích cực vì không tạo tâm lý hoang mang cho
người dân, không gây ra một sức ép lớn lên nợ nước ngoài và hạn chế thiệt
hại cho nhập khẩu.
2.4. Giai đoạn 1999 đến nay: thả nổi có điều tiết
2.4.1.Giai từ tháng 2/1999 đến tháng 12/2002
a) Bối cảnh kinh tế

Đây là thời kỳ đầu chuyển đổi từ cơ chế quản lỳ nên kinh tế kế hoạch
hóa tập trung bao cấp, sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Chế độ tỷ
giá đã linh hoạt nhưng vẫn có sự kiểm soát của nhà nước(hàng ngày NHNN
công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
của VND/USD trên các phương tiện thông tin đại chúng, thay cho việc công
bố tỷ giá chính thức và tỷ giá nình quân mua vào,bán ra trên các thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng). Trên thực tế có thị trường ngoại tệ chợ đen đã ảnh
hưởng không nhỏ đến nền kinh tế.
25

×