Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Phân tích nhân tố thành tạo cảnh quan và cấu trúc đứng cảnh quan Sa Pa ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.5 KB, 29 trang )

Chương 1: Khái quát chung huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai
1.1 Vị trí địa lý
Sa Pa là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai, có tọa độ địa lý : 22
0
07’00’’-
22
0
28’46’’ vĩ Bắc, 103
0
43’28’’ - 104
0
04’5’’ kinh Đông. Phía bắc giáp huyện Bát
Xát. Phía nam giáp huyện Văn Bàn. Phía đông giáp huyện Bảo Thắng và thành phố
Lào Cai. Phía tây giáp huyện Than Uyên ( Lai Châu).
Huyện Sa Pa có tổng diện tích là 678,64km
2
, gồm 17 xã và 1 thị trấn. Thị trấn
Sa Pa là trung tâm kinh tế - chính trị của huyện, cách thành phố Lào Cai 40km.
Xét về mặt tự nhiên, vị trí địa lý của Sa Pa phản ánh quy luật phân hóa địa đới
theo vĩ độ biểu hiện trong các hợp phần của cảnh quan. Sa Pa nằm gần sát với chí
tuyến Bắc lại có độ cao lớn (trung bình từ 1200 – 1800m), thấp nhất là Ngòi Bo
400m, cao nhất là đỉnh Fanxipang 3143,5 m) làm cho cảnh quan huyện Sa Pa có sự
phân hóa theo đai cao. Đây cũng là lãnh thổ đầu nguồn của nhiều dòng chảy đổ về
sông Hồng, do đó mang chức năng phòng hộ xung yếu không chỉ ở lãnh thổ Sa Pa
mà còn ở cả tỉnh Lào Cai.
Xét về mặt kinh tế, Sa Pa là lãnh thổ trung chuyển quan trọng của hai vùng địa
lý kinh tế Tây Bắc va Đông Bắc qua đèo Hoàng Liên, có các hành lang kinh tế
quan trọng Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên và Hà Nội - Vĩnh Phúc - Yên Bái - Lào
Cai - Trung Quốc. Sa Pa còn ở gần các điểm du lịch hấp dẫn thuộc tuyến du lịch
Điện Biên - Mường Lay - Lai Châu, cửa khẩu Lào Cai và tuyến xuyên biên giới
sang Hà Khẩu (Trung Quốc), tạo lợi thế tiếp nhận khách du lịch trong và ngoài


nước đến thăm quan. Đặc biệt Sa Pa nằm trong 4 chương trình VN35-VN38 theo
tuyến du lịch Tây Bắc là Hà Nội - Lào Cai - Sơn La - Lai Châu thuộc chương trình
du lịch quốc tế.
1.2.Đặc điểm chính về các điều kiện tự nhiên
Sa Pa nằm gần chí tuyến bắc, lại nằm ở độ cao lớn, trung bình 1200 - 1800m,
thấp nhất là Ngòi Bo 400m, cao nhất là đỉnh Fanxipang 3143,5m đã dẫn đến sự
phân hóa phức tạp cảnh quan huyện Sa Pa. Nằm ở phía Tây Bắc của Việt Nam, thị
trấn Sa Pa ở độ cao 1.600 mét so với mực nước biển, cách thành phố Lào Cai 38 km
và cách Hà Nội 376 km. Ngoài con đường chính từ thành phố Lào Cai để tới Sa Pa
còn một tuyến giao thông khác, đó là quốc lộ 4D nối từ xã Bình Lư, Lai Châu. Mặc
1
dù phần lớn cư dân huyện Sa Pa là những người dân tộc thiểu số, nhưng thị trấn lại
tập trung chủ yếu những người Kinh sinh sống bằng nông nghiệp và dịch vụ du lịch.
Sa Pa có khí hậu mang sắc thái ôn đới và cận nhiệt đới, không khí mát mẻ quanh
năm. Thời tiết ở thị trấn một ngày có đủ bốn mùa: buổi sáng là tiết trời mùa xuân,
buổi trưa tiết trời như vào hạ, thường có nắng nhẹ, khí hậu dịu mát, buổi chiều mây
và sương rơi xuống tạo cảm giác lành lạnh như trời thu và ban đêm là cái rét của
mùa đông. Nhiệt độ không khí trung bình năm của Sa Pa là 15°C. Mùa hè, thị trấn
không phải chịu cái nắng gay gắt như vùng đồng bằng ven biển, khoảng 13°C -15°C
vào ban đêm và 20°C - 25°C vào ban ngày. Mùa đông thường có mây mù bao phủ
và lạnh, nhiệt độ có khi xuống dưới 0°C, đôi khi có tuyết rơi. Lượng mưa trung bình
hàng năm ở đây khoảng từ 1.800 đến 2.200 mm, tập trung nhiều nhất vào khoảng
thời gian từ tháng V tới tháng VIII. Thị trấn Sa Pa là một trong những nơi hiếm hoi
của Việt Nam có tuyết. Trong khoảng thời gian từ năm 1971 tới năm 2008, 14 lần
tuyết rơi tại Sa Pa. Lần tuyết rơi mạnh nhất vào ngày 13 tháng 2 năm 1968, liên tục
từ 3 giờ sáng đến 14 giờ cùng ngày, dày tới 20 cm.
Sa Pa có mạng lưới sông suối khá dày, bình quân khoảng 0,7 -1,0 km/km
2
, với
hai hệ thống suối chính là hệ thống suối Đum và hệ thống suối Bo.

- Hệ thống suối Đum có tổng chiều dài khoảng 50 km, bắt nguồn từ vùng núi
cao phía Bắc dãy Hoàng Liên Sơn được phân thành hai nhánh chính và phân bố ở
hầu hết các xã phía Bắc và Đông Bắc gồm các xã Sa Pa, Trung Chải, Tả Phìn với
tổng diện tích lưu vực khoảng 156 km
2
.
-Hệ thống suối Bo có chiều dài khoảng 80 km, bắt nguồn từ các núi cao phía
Nam dãy Hoàng Liên Sơn với diện tích lưu vực khoảng 578 km
2
chạy dọc theo
sườn phía Tây và Tây Nam của dãy Hoàng Liên Sơn gồm các xã San Sả Hồ, Lao
Chải, Tả Van, Bản Hồ, Nậm Sài, Thanh Phú, Hầu Thào, Thanh Kim và Bản Phùng.
Các suối hầu hết có lòng hẹp, dốc, nhiều thác ghềnh, lưu lượng nước thất thường
và biến đổi theo mùa, mùa mưa thường có lũ lớn với dòng chảy khá mạnh (suối Bo
989 m/s) dễ gây nên các hiện tượng lũ ống, lũ quét, nhất là đối với vùng thấp. Mùa
khô các suối thường cạn.
2
1.3. Đặc điểm chính về kinh tế - xã hội
Huyện Sa Pa có 17 xã và 1 thị trấn gồm 95 thôn, bản. Tổng dân số là 42600
người, tỉ lệ tăng dân số là 3,85%, mật độ dân số là 63 người/km
2
(năm 2005). Nhìn
chung, mật độ dân số trên diện tích tự nhiên không cao nhưng mật độ dân số trên
diện tích đất nông nghiệp cao, trung bình 1173,6 người/km
2
. Như vậy, diện tích đất
nông nghiệp quá ít so với nhu cầu sản xuất của cư dân.
Dân số phân bố không đồng đều, thành nhiều cụm nhỏ rải rác, phần lớn tập
trung ở các xã ven đường giao thông và thị trấn Sa Pa. Nhóm dân tộc Dao - Giáy -
Xa Phó sống tập trung trên đai cao 700 - 1700 m, nhóm H


mông cư trú trên đai cao
700 - 2000 m, còn nhóm Tày - Thái cư trú ở đai độ cao dưới 700 m. Các dân tộc
đều cư trú ở những độ cao địa hình với khí hậu phù hợp với đặc điểm sinh thái nhân
văn, cá biệt chỉ có dân tộc Kinh và một bộ phận nhỏ dân tộc Thái (32 khẩu) cư trú ở
thị trấn Sa Pa do hai dân tộc này có tính thích nghi cao với điều kiện môi trường
sống.
Số người trong độ tuổi lao động là 22000 người chiếm 51,6% dân số toàn
vùng năm 2005. Trong đó, lao động nông nghiệp chiếm 78,9%, còn lại là lao động
trong ngành dịch vụ và các cơ quan nhà nước. Trình độ lao động còn thấp, khoảng
73% lao động có trình độ dưới lớp 5, lao động kỹ thuật chiếm 12%.
Nhìn chung, lực lượng lao động của Sa Pa rất dồi dào, có bản chất siêng
năng, cần cù, song trình độ lao động, trình độ kỹ thuật sản xuất còn thấp và đang
thiếu việc làm. Lao động có việc làm chỉ chiếm 60% số người trong độ tuổi lao
động. Đây là lực lượng lao động phục vụ cho các ngành nông - lâm nghiệp trong
các năm sau này.
Trên lãnh thổ huyện Sa Pa có 7 dân tộc cùng chung sống, trong đó người
H’mông chiếm 54,9%, người Dao chiếm 25,5%, người Kinh chiếm 13,6%, người
Tày chiếm 3%, người Giáy chiếm 1,6%, người Thái chiếm 0,2%, người Xa Phó
chiếm 1,2%. Như vậy, dân tộc chính là dân tộc H’Mông và dân tộc Dao, trong đó
chủ yếu là dân tộc H’Mông. Mỗi dân tộc có những phong tục tập quán riêng. Người
H’Mông sống chủ yếu trên các đai cao trên 1200 m ở các sườn núi cao hiểm trở. Họ
làm ruộng bậc thang giỏi, trồng lúa nước, làm nương rẫy định canh, khai thác củi
3
Ngoài ra, hoạt động nông nghiệp khác như trồng lanh lấy sợi dệt vải, trồng thảo quả
dưới tán rừng già là những hoạt động sản xuất đặc trưng của nhân dân trong huyện.
Mặc dù có những nét đặc sắc trong phương thức canh tác, đồng bào người
H’Mông, người Dao biết làm ruộng bậc thang, nương rẫy, làm các ống dẫn nước
phục vụ tưới tiêu nhưng còn nhiều lạc hậu, chủ yếu phụ thuộc tự nhiên, vẫn còn
du canh du cư, đốt nương làm rẫy

Các dân tộc thiểu số ở Sa Pa cũng rất coi trọng đời sống tinh thần thể hiện ở
các lễ hội. Lễ hội của họ diễn ra ở quy mô làng bản. Khác với người miền xuôi, thời
gian mở hội của họ không những tập trung vào mùa xuân mà còn diễn ra cuối hè,
cuối thu. Đó chính là các thời gian rỗi rãi, nông nhàn khi vụ mùa đã được thu hoạch
vào thời kì chăm bón chờ thu hoạch. Lễ hội luôn đề cao tính dân chủ bình đẳng và
phản ánh đậm nét các tín ngưỡng cổ như: lễ Tết nhảy của người Dao đỏ, hội Gầu
Tào của người H

mông; lễ quét làng của người Xa phó. Ngoài ra còn có lễ cơm mới,
lễ trừ ma giải hạn, lễ xuống đồng Đặc điểm lễ hội và thời gian lễ hội cũng thể hiện
những niềm tin ước vọng của cư dân nông nghiệp trong vùng.
Chương 2: Đặc điểm cấu trúc đứng của cảnh quan huyện Sa Pa
tỉnh Lào Cai
2.1. Cấu trúc thẳng đứng của cảnh quan
2.1.1Khái niệm về cấu trúc thẳng đứng
Cấu trúc thẳng đứng của cảnh quan được tạo nên bởi đặc điểm liên hệ và
mối quan hệ tác động tương hỗ giữa các thành phần cấu tạo của cảnh quan, phụ
thuộc vào hướng thay đổi của các thành phần cấu tạo trong quá trình phát triển
cũng như vào tuổi và lịch sử phát triển của thể tổng hợp.
Cấu trúc thẳng đứng của cảnh quan bao gồm các thành phần cấu tạo địa
chất, đá mẹ, địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, thủy văn, sinh vật và mối quan hệ
giữa chúng. Nó được biểu thị qua lát cắt tổng hợp nói lên sự sắp xếp các thành
phần theo tầng từ dưới lên trên và ngược lại. Nằm dưới cùng là nham thạch, rồi
đến vỏ phong hóa và đất với các tầng nước ngầm, trên đó là địa hình với màng
lưới sông ngòi, tầng trên cùng là thực bì và lớp không khí bao quanh. Cấu trúc
4
thẳng đứng tồn tại trong mọi đơn vị lãnh thổ của nó, từ cấp phân vị cao đến cấp
phân vị thấp. Vì thế, nó rất phức tạp, nó có sự khác nhau ở mỗi cấp phân vị, ngay
cả các cá thể của cấp phân vị đó. Do đó, xác định cấu trúc thẳng đứng của một
địa tổng thể thuộc cấp phân vị nào cần phải xác định rõ các thành phần thuộc cấp

phân vị nào tương đương với cấp phân vị của địa tổng thể đang xét.
2.1.2.Xác định cấu trúc thẳng đứng
Vì thế, xác định cấu trúc thẳng đứng của cảnh quan là xác định sự tham
gia của các thành phần tự nhiên vào quá trình phát sinh và phát triển của các
cảnh quan.
Về vai trò, chức năng của các hợp phần trong thành tạo cảnh quan có nhiều
ý kiến không đồng nhất. Một số tác giả cho rằng các hợp phần có vai trò như nhau
trong thành tạo cảnh quan thể hiện ở mức độ bảo thủ hay tiến bộ của nó. Do các
hợp phần của cảnh quan có vai trò như nhau trong quá trình thành tạo cảnh quan
nên cấu trúc thẳng đứng của cảnh quan có dạng cấu trúc đơn như sau:
Hình 2.1. Mô hình đơn hệ thống (V.X. Preobrajenxki)
5
Địa chất
Khí hậuĐịa hình
Thủy văn
Đất
Sinh vật
2.2 Các nhân tố thành tạo cảnh quan huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai
2.2.1. Đá mẹ
Lịch sử phát triển địa chất của Việt Nam: lãnh thổ Việt Nam được chia thành
8 miền địa chất : Đông Bắc Bộ, Bắc Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Kontum,
Nam Trung Bộ và Nam Bộ, cực Tây Bắc Bộ và Trường Sa –Hoàng Sa .
- Tiền Cambri: Các thành tạo địa chất thời kì Tiền Cambri cấu thành nên
móng kết tinh và phức hệ uốn nếp hoặc lớp phủ Paleozoi lộ ra ở khối Kon Tum,
Phanxipang, đới sông Hồng có tuổi Arkei, Proterozoi hạ và thượng .
- Cambri - Ordovic hạ: Các trầm tích Cambri- Ordovic hạ phân bố ở Bắc Bắc
Bộ, Tây Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đặc trưng bởi các trầm tích cacbonat xen kẽ đá
lục nguyên thuộc tướng biển nông, biển ven bờ chứa Bọ ba thùy .
- Ordorvic – Silur: Các trầm tích trong giai đoạn này phân bố ở các miền
Đông bắc Bắc Bộ, bắc Bắc Bộ,Tây bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Bộ ,chủ yếu từ

Quảng Nam Đà Nẵng trở ra phía bắc. Miền Tây bắc Bộ đặc trưng bởi các trầm tích
lục nguyên - cacbon nat, còn ở miền Bắc Trung Bộ chủ yếu là các trầm tích lục
nguyên - phun trào. Các trầm tích này phủ bất chỉnh hợp lên các trầm tích cổ hơn.
- Devon: Các trầm tích trong giai đoạn này phân bố ở Đông Bắc Bộ, Bắc Bắc
Bộ, Tây Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ gồm các trầm tích lục nguyên – cacbonat phát triển
liên tục với bề dày từ 1600-1800m đến 2200-2400m .
- Carbon - Permi: Các trầm tích trong giai đoạn này phân bố ở Đông Bắc Bộ,
Bắc Bắc Bộ, Tây Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ và bắt đầu xuất hiện phổ biến ở Nam
Trung Bộ và Nam Bộ. Các trầm tích trong giai đoạn này bị chi phối bởi hai chu kì
tích tụ liên quan đến hai ranh giới phân kì. Chu kì thứ nhất các trầm tích chủ yếu là
carbonat đôi khi có ít trầm tích lục nguyên ở phần dưới. Chu kì thứ hai xảy ra
trong thời gian thành tạo tầng Veoschwagerina phổ biến khắp Việt Nam và lãnh thổ
kế cận đặc trưng bởi các trầm tích núi lửa.
- Paleogen - Neogen: Các trầm tích Paleogen - Neogen (Đệ tam) chủ yếu phân bố
trên các hố sụt, các vùng trũng trên lục địa hoặc trên các thềm lục địa, đây là
những kiến trúc được hình thành do hoạt động kiến tạo đứt gãy trẻ hoặc đứt gãy cổ
tái hoạt động phân bố kéo dài theo hướng Tây Bắc -Đông Nam. Các trầm tích đặc
trưng bởi chủ yếu các thành tạo của lục địa và châu thổ, đôi nơi xen kẽ núi lửa, với
bề dày thay đổi từ vài chục mét đến 5000m.
- Đệ tứ: Các trầm tích Đệ Tứ phân bố chủ yếu ở các vùng đồng bằng ven biển.
6
Dựa vào lịch sử phát triển của địa chất nước ta chúng ta tiến hành nghiên
cứu nền địa chất tỉnh Sa pa ta thu được kết quả :
Huyện Sapa nằm hoàn toàn trong dãy núi địa lũy kiểu phức nếp lồi Hoàng Liên
Sơn với nền địa chất bao gồm đá biến chất Proterozoi hệ tầng Ngòi Hút và đá biến
chất tuổi Proterozoi thượng đến Cambri hạ tầng Sapa. Quá trình trầm tích bị gián
đoạn rồi trầm tích Devon xuất hiện bắt đầu bằng hệ cát kết, cuội kết, đá phiến sét
xerixi trồi chuyển lên đá vôi. Sau đó là một gián đoạn trầm tích lớn. Trầm tích
Neogen (N) và Đệ tứ (Q) trong Kainozoi phân bố rải rác trong các trung lũng hẹp
giữa núi. Còn lại phần lớn lãnh thổ huyện được cấu tạo bởi các đá xâm nhập

macma axit granit phức hệ Pò Se và phức hệ Y Yên Sun.
- Đá biến chất: tuổi Proterozoi thuộc hệ tầng Ngòi Hút và một ít tuổi Proterozoi
thượng- Cambri hạ, thuộc hệ tầng Sapa, phức hệ Sinh Quyền. Từ dưới lên trên bao
gồm: đá phiến xerixit, đá phiến thạch anh xerixit - clorit, cát kết dangjquaczit có
chứa các thấu kính nhỏ đá hoa đôlômit, dày khoảng 900m.
- Đá trầm tích: tuổi paleozoi thuộc hệ tầng Cam Đường - thống dưới - hệ Cambri,
tuổi Cambri sớm, Đêvôn sớm - giữa, Cambri giữa - Odovic sớm. Trầm tích Đêvôn
phân bố xen giữa các dải trầm tích đá biến chất Proterozoi Ngòi Hút và đá granit
phức hệ Yê Yên sun, có dạng dải dài dọc theo sườn thung lũng Mường Hoa và một
dải hệp ở phần phía đông suối Nậm Cang.
- Đá Macma: 4 phức hệ macma: Phức hệ Pò Sen phân bố thành khối lớn phía đông
thị trấn Sapa, thành phần thạch học bao gồm granodiorit hạt lớn bị milomit hóa có
cấu tạo gronai, granit biotit hạt lớn. Phức hệ Điện Biên Phủ phân bố thành các khối
nhỏ ở Hầu Thào, Sả Séng, phía tây Sả Phìn, thành phần thạch học bao gồm các đá
granodorit dạng porphyr, granophya, granit hạt nhỏ sáng mausfgranofia. Phức hệ
Yê Yên Sun tạo nên khối núi Fanxipang, thành phần thạch học bao gồm granit
biotit hạt nhỏ, granit sáng màu, granosienit, granosienit dạng pegmatit. Phức hệ Pu
sam Cáp dưới dạng đường kéo dài theo phương á vĩ tuyến.
- Trầm tích đệ Tứ (Q): bao gồm các trầm tích bở rời nguồn gốc aluvi, proluvi, deluvi,
coluvi và eluvi. Trầm tích eluvi (tàn tích) được bảo tồn tốt nhất trên vùng đỉnh
phân hủy có thảm rừng che phủ, bề dày hàng mét. Những di tích bề mặt san bằng
7
1300-1500m có vỏ phong hóa dày tới hàng chục mét tại phần lớn diện tích thị trấn
Sapa nhờ có những giai đoạn san bằng kéo dài. Trầm tích aluvi (sông tích) phân bố
trên bãi bồi của suối với diện tích nhỏ hẹp, thành phần cơ giới phần lớn là cuội
tảng, số ít aluvi hạt mịn tạo nên những cánh đồng lúa nước. Do lãnh thổ nghiên
cứu là một vùng nâng mạnh trong suốt thời kỳ Đệ Tứ nên hầu như không tìm thấy
di tích phù sa cổ của các bậc thềm sông suối. Trầm tích proluvi (lũ tích) phát triển
đặc biệt rộng rãi, tạo thành những nón phóng vật- lũ tích đồ sộ với bề dày tới trên
dưới 20m. Trầm tích deluvi (sườn tích) phổ biến rộng rãi trên hầu hết các sườn dốc

12-20
0
. Phần thấp của các sườn thoải hình thành trên đá phiến chuyển tiếp xuống
bề mặt đáy thung lũng và dải trũng, bề dày lớp tích tụ deluvi có thể đạt tới trên
dưới 10m, ưu thế vật liệu giàu bột - sét. Trầm tích coluvi (rơi tích)
phân bố ở khu vực các khối đá vôi bị hoa hóa và dọc theo chân các vách dốc. Vật
liệu đổ lở thường là những tảng đá có kích thước lớn, có khi tới 10m.
- Trước 100.000.000 TCN thời kì Tân Kiến Tạo ,kỉ Phấn Trắng thuộc đại Trung
Sinh: thành tạo núi Phan Xi Păng (3.143m).
2.2 .2.Địa hình.
Trong sự phân hóa cảnh quan Sa Pa, quá trình tạo núi trong thời kỳ tân kiến
tạo với sự phân bậc địa hình đã cải tạo bề mặt địa hình cổ, tạo nên tính chất núi cao
của lãnh thổ, là nguyên nhân hình thành các vành đai cảnh quan theo độ cao.
Đặc trưng cấu trúc địa chất, cộng với các quá trình ngoại sinh tạo nên tính
đa dạng của các địa hình. Trên dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Cam Thắng ưu thế các
dạng địa hình có độ dốc > 35
0
, dọc theo sườn tây Sa Pa, Sa Pả, vạt tích tụ đa nguồn
gốc tả Giàng Phình, Tả Phìn, Bản Khoang ưu thế địa hình độ dốc < 8
0
. Địa hình
sườn có độ dốc 20 - 25
0
chiếm ưu thế trên toàn lãnh thổ. Địa hình dốc là nên tảng
phân hóa nhanh và rõ rệt cấu trúc cảnh quan theo các đai cao nhiệt đới, á nhiệt đới
và ôn đới. Do vậy, theo phân chia của Đặng Văn Bào Sa Pa thuộc vùng địa môi
trường núi cao - trung bình địa lũy Hoàng Liên Sơn
Các dạng địa hình được phân hóa có đặc điểm sau :
+ Bề mặt nằm ngang và hơi nghiêng.
+ Địa hình sườn

+ Địa hình karst
8
+ Địa hình nguồn gốc dòng chảy
2.2.2.1.Các bề mặt nằm ngang và hơi nghiêng
- Di tích bề mặt san bằng cổ ( peneplen – bề mặt bóc mòn hoàn toàn): còn
sót dưới dạng các bề mặt đỉnh phân thủy giữa các sông suối lớn, các bề mặt đỉnh và
phần chia nước bằng phẳng nhưng hẹp, hơi lượn sóng, phân bố trên dãy Hoàng
Liên Sơn ở độ cao 2000m. Đây là di tích bề mặt san bằng rộng lớn, thống nhất
trong quá khứ - bề mặt đông dương có tuổi Paleogen trung (P2 được nâng lên mạnh
và gần như hoàn toàn, nay chỉ còn lại những diện tích nhỏ hẹp. Bề mặt san bằng cổ
được bảo tồn bởi lớp phủ eluvi mỏng, đôi chỗ hoàn toàn trơ đá gốc hoặc đới phong
hóa vụ bở saprolit. Tuổi tương đối của di tích bề mặt san bằng cổ này khi xem xét
trong mối liên quan vói bề mặt đông dương và với các bề mặt khác có thể xếp vào
tuổi Paleogen thượng ( P3).
- Bề mặt đỉnh san bằng bóc mòn không hoàn toàn (pediplen, pediment) bề
mặt này phân bố rộng khắp trong vùng, trên các đường chia nước phụ và các đồi
thoải lượn sóng hoặc phân bậc, ở các độ cao 1000 – 1800m ở dãy Hoàng Liên Sơn
và dãy Cam Thắng. Thành tạo bề mặt bao gồm eluvi và đá khối tảng lẫn dăm sạn,
trơ sỏi đá, vỏ phong hóa vụn bở litonma và sapolit, có nơi còn bảo tồn tầng phong
hóa khá tốt. Tuổi tương đối của bề mặt này là Paleogen thượng - Mioxen (P3- N1).
- Bậc thang bào mòn trước núi (pediment thung lũng) là dạng bề mặt trước
núi kéo dọc theo thung lũng, địa hình hơi nghiêng thoải, phân bố ở các bậc độ cao
1300 - 1400 m ở Sa Pa và 1500 - 1700m ở Sa Pa, có bề rộng trung bình 300-500m,
thành tạo bề mặt bồm các eluvi, dăm sạ lẫn mảnh vụn, cát, bột, sét, màu đỏ nâu,
dày 1 – 2m. Trên bề mặt thường phát triển quá trình xâm thực của dòng chảy sông
suối. Tuổi tương đối được xác định là Plioxen – Pleistoxen (N2 – Q1).
2.2.2.2 Địa hình sườn
Nhóm địa hình bề mặt sườn được phân chia theo hướng các quá trình địa
mạo và năng lượng địa hình. Sườn trọng lực có độ dốc trên 25
0

phân bố hầu hết
phía trên của dãy Hoàng Liên Sơn và dãy Cam Thắng. Các sườn còn lại gồm sườn
bóc mòn – xâm thực, sườn bào mòn tích tụ deluvi, sườn bào mòn – rửa trôi, sườn
bào mòn – rửa lũa, sườn rửa lũa – tích tụ deluvi có độ dốc 8- 25
0
9
- Sườn đổ lở ( sườn trọng lực nhanh): sườn đổ lở phân bố gần đường chia
nước của dãy Hoàng Liên Sơn, dãy Cam Thắng và các đỉnh núi cao. Sườn này có
nguồn gốc từ các quá trình trọng lực nhanh như đổ lở, sạt lở đá, phát triển liên tục
cho đến ngày nay. Về hình thái, sườn có độ dốc lớn > 25
0
đến dốc đứng, trắc diện ít
bị chia cắt bởi các dòng chảy thường xuyên và tạm thời, không có cấu trúc phân
bậc. Tầng phong hóa rất mỏng, hầu hết là tảng lăn, mảng vỡ đến trơ đá gốc hoặc
dưới dạng các bãi đá ở trạng thái liên kết không bền vững. Tuổi của sườn đổ lở là
đệ tứ không phân chia ( Q)
- Sườn trọng lực chậm: có nguồn gốc tổng hợp từ các quá trình trọng lực
chậm (đất trôi, đất chảy…). Sườn trọng lực chậm ở đây phát triển trong điều kiện
địa chất đặc trưng là các khối trượt hình thành trong tầng deluvi và lớp phong hóa
dày chứa nhiều sét cao lanh trên đá granit. Về hình thái, sườn trọng lực có độ dốc
12 -25
0
, trắc diện sườn phân bậc dạng lượn sóng thoải,các bậc này bao trùm hầu
hết mặt sườn, tạo nên cấu trúc vẩy cá điển hình. Trong khu vực nghiên cứu, sườn
trọng lực chậm được quan sát thấy rõ ở phần sườn tây bắc ngòi Đum ở đô cao 700
– 1000m và ở phần phía đông của Mường Hoa thuộc địa phận xã Bản Hồ, ở độ cao
400 – 700m. Tuổi địa hình này là Neogen – đệ tứ không phân chia ( N – Q)
- Sườn bóc mòn – xâm thực : phân bố ở các phần sườn của các bồn thu nước
và những đoạn sườn trên các giông núi có độ dốc tương đối lớn. Nguồn gốc của
sườn xam thực là quá trình sườn bởi các dòng chảy tạm thời. Điển hình cho loại

sườn này thuộc dãy Hoàng Liên Sơn, bề mặt sườn thung lũng Mường Hoa. Địa
hình sườn có nhiều hệ thống khe rãnh xói mòn – dòng chảy tạm thời của bồn thu
nước. Sườn có độ dốc tới 20 – 25
0
, các giông nũi có trắc diện thẳng. Tuổi của sườn
này là đệ tứ không phân chia (Q)
- Sườn bào mòn rửa trôi : phân bố không liên tục và là phần sườn tiếp tục
bóc mòn sau quá trình xâm thực. Hầu hết các sườn có độ dốc 12 – 15
0
. Địa hình
sườn bị cắt xẻ bởi các máng trũng của dòng chảy tạm thời.
-Tầng phong hóa: Bề mặt dày trung bình 2m, lớp thổ nhưỡng mỏng do đã bị
bào mòn rửa trôi lâu dài khi rừng bị phá hủy hoặc bị mất rừng. Tuổi của sường này
được xác định là đệ tứ không phân chia.
10
- Sườn rửa trôi – tích tụ deluvi : phân bố không liên tục, chỉ tập trung ở phần
chân sườn các dãy núi và phần sườn xung quanh các vũng trũng. Sườn có độ dốc 8
– 12
0
trắc diện hơi lõm. Tầng phong hóa dày xen lẫn các tầng mùn cũ, dăm sạn,
tảng lăn, cấu tạo phân lớp thô sơ, thể hiện quá trình tích tụ deluvi theo từng đợt.
Tuổi của sườn này là đệ tứ không phân chia (Q)
2.2.2.3 Địa hình karst
- Bề mặt đỉnh san bằng bóc mòn karst: các bề mặt đỉnh phát triển trầm tích tuổi
Cambri – Ocdovic (C – O) ở Tà Phìn, Sa Pả, tuổi đêvon ở Tả Giàng Phình, phân
bố ở độ cao 1300 – 1400m, 1600 – 1800m. Tạo thành bề mặt là các eluvi đồng
nhất của đới saprolit gồm các mảnh vỡ vụn dăm sạn, lổn nhổn và trơ sỏi đá gốc.
Tuổi tương đối của bề mặt này là Paleogen thượng (P).
- Bề mặt đáy thung lũng và cánh đồng karst: phân bố rải rác ở các độ cao 1200–
1400m ở Tả Phìn, Tà Giàng Phình, Bản Khoang. Bề mặt địa hình hơi nghiêng

thoải đến hầu hết như bằng phẳng, tạo nên các bồn trũng giữa núi, bề mặt rộng
trung bình 200 – 500m. Trên bề mặt này vẫn còn tồn tại các chỏm, bề mặt caru tàn
và bị hệ thống suối hiện đại cắt ngang qua. Hiện nay, quá trình tích tụ chiếm ưu thế
và chủ yếu được tích tụ các vật liệu proluvi và lũ bùn đá – vật liệu thô xẽn lẫn hạt
mịn, tơi xốp nên các bậc thềm trong phần đáy thung lũng. Tuổi tương đối của bề
mặt địa hình này là Plioxen – Pleistoxen (N2 – Q1)
- Sườn bóc mòn – rửa lũa karst: sườn có độ dốc tới trên 45
0
, vách thẳng
đứng, trắc diện không ổn định. Quá trình bóc mòn chủ đạo trên sườn là trọng lực
nhanh cùng với rửa lũa – hòa tan, nên địa hình mặt sườn khá phức tạp, tảng lăn, đá
tai mèo sắc nhọn, nhiều chỗ lấp đầy các sản phẩm phong hóa terarossa. Tuổi của
sườn này là đệ tứ không phân chia (Q)
- Sườn rửa lũa – tích tụ deluvi: sườn này phân bố nhỏ hẹp ở phần sườn phía
dưới các sườn núi đá trầm tích cacbonnat đã bị biến chất thàng đa hoa kéo từ Sa Pa
đến Lao Chải. Trắc diện sườn lồi lõm đến thẳng, độ dốc 15 – 20
0
. Các thành tạo bề
mặt gồm các dăm sạn, sét pha, có hỗ trơ đá gốc và các sản phẩm terarosa phủ lên.
Tuổi của sườn này là đệ tứ không phân chia (Q)
2.2.2.4 Địa hình nguồn gốc dòng chảy
11
Địa hình dòng chảy thường xuyên trong lãnh thổ chủ yếu là những dạng xâm
thực sâu như thung lũng sông suối và khe rãnh xói mòn. Do đây là một vùng nâng
mạnh trong suốt thời kỳ đệ tứ nên không tìm thấy di tích của các bậc thềm sông.
- Bãi bồi: bãi bồi ở Sa Pa rất nhỏ hẹp, do hầu hết là đáy thung lũng xâm thực
trơ đá gốc. Ngoại trừ phần thung lũng suối Mường Hoa có trắc diện ngang dạng
chữ U có nơi dạng ngăn kéo, trắc diện dọc ít dốc, quá trình xâm thực và quá trình
xâm thực ngang xảy ra đồng thời với quá trình tích tụ các bãi bồi ven lòng. Tuổi
tương đối của bề mặt này là Holocen (Qiv) – hiện đại. Do đây là một vùng nâng

mạnh trong suốt thời kỳ đệ tứ không tìm thấy di tích của các bậc thềm sông.
- Đáy thung lũng xâm thực trơ đá gốc: thung lũng lũng sông suối có trắc diện
ngang dạng chữ V, trắc diện dọc chưa đạt tới trắc diện cân bằng tạo nên nhiều dạng
thác ghềnh đặc trưng. Quá trình xâm thực diễn ra mạnh mẽ, quá trình xâm thực
ngang yếu nên địa hình này tập trung ở hầu hết phần đáy các sông suối. Bề mặt địa
hình đáy trơ đá gốc hoặc rải rác cuội tảng. Tuổi tương đối của bề mặt này Holocen
(Qiv) – hiện đại
Do địa hình núi cao dốc nên quá trình đổ lở phát triển và bị chia cắt bởi nhiều
sông suối nên quá trình xâm thực diễn ra mạnh mẽ, kết hợp với mưa nhiều và tập
trung, từ đó phát triển các dạng địa hình có nguồn gốc dòng chảy tam thời. Cũng
do vậy mà ở đây chỉ phổ biến kiểu dòng chảy tạm thời miền núi với 3 bộ phận hình
thái rõ rệt (bồn thu nước, kênh dẫn, nón phóng vật), trong đó các nón phóng vật có
ý nghĩa to lớn hơn cả.
- Nón phóng vật: các thành tạo nón phóng vật phát triển tại nơi các máng sói
hoặc các suối nhỏ đổ ra thung lũng về bên vùng sườn và trũng giữa núi. Các nón
phóng vật thường có dạng quạt, bề mặt hơi nghiêng thoải, từ 3 – 8
0
, thường bị cắt
sẻ bởi các rạch nhỏ. Phần phía tây thung lũng suối Mường Hoa thấy rõ nhất sự có
mặt của thành tạo này, một vài nơi nón phóng vật liên kết với nhau tạo nên bề mặt
khá rộng, trải dài ven đáy thung lũng, hoặc các thế hệ các nón phóng vật cổ chồng
gối lên nhau, tạo nên dạng địa hình giống như các bậc thềm sông. Trầm tích bề mặt
chủ yếu là các vật liệu bở rời nhỏ, như dăm sạn, cát, sét, sản phẩm phong hóa màu
nâu tơi xốp. Tuổi tương đối của bề mặt này Neogen – Đệ tứ không phân chia (N-
12
Q). Đối với khu vực các bề mặt san bằng cổ; còn các phóng vật dưới đáy các thung
lũng có tuổi Holocen ( Qiv) – hiện đại.
- Vạt tích tụ đa nguồn gốc (p – d – a): bề mặt này phổ biến ở các trũng giữa núi
Tả Giàng Phình, Tả Phìn, Sa Pả. Về hình thái, đây là những bề mặt hơi nghiêng,
phân bậc, ít bị chia cắt bởi dòng chảy hiện đại. Vật liệu thành tạo bề mặt gồm khối

tảng mảng vỡ hỗn tạp xen lẫn cuội, sỏi, cát, sét. Đặc biệt tại Tả Phìn còn quan sát
thấy dòng cuội sỏi, ở Tả Giàng Phình các thể tích tụ Proluvi cổ. Các aluvi là thành
tạo trẻ xen lẫn các thành tạo prolu và một ít thành tạo deluvi hình thành vạt tích tụ
đa nguồn gốc. Tuổi tương đối của bề mặt này là Neogen – Đệ tứ không phân chia
(N – Q).
2.2.3 Khí hậu
2.2.3.1 Đặc điểm chế độ khí hậu
Khí hậu Sa Pa đặc trưng cho khí hậu Hoàng Liên Sơn, hầu như quanh năm
duy trì tình trạng ẩm ướt. Mùa đông, front cực đới thường bị chặn trên sườn đông
Hoàng Liên Sơn, tồn tại nhiều ngày mưa dai dẳng trên toàn vùng. Kết quả ở đây
mất hẳn thời kỳ khô hanh nửa đầu mùa đông tiêu biểu cho miền khí hậu phía bắc:
độ ẩm tương đối trung bình năm khoảng 85% trở lên, tháng ít mưa nhất trung bình
cũng đạt trên 20 – 30 mm. Đặc biệt hiện tượng mưa phùn cuối mùa đông phát triển
mạnh mẽ vì các thung lũng mở rộng về phía đồng bằng đã tạo điêu kiện tích tụ các
luồng gió nồm thổi từ biển tới.
Chế độ nhiệt và bức xạ
- Chế độ nhiệt: nền nhiệt Sa Pa thay đổi theo quy luật đai cao, trị số trung
bình năm của nhiệt độ không khí khoảng 22 – 23
0
C ở khu vực núi thấp, 18 – 20
0
C
ở độ cao 1000m và 15 – 16
0
C ở độ cao 1500m, khu vực dãy Hoàng Liên Sơn cao
trên 2000m nhiệt độ trung bình năm giảm xuống đến 12 – 13
0
C, thấp nhất trên
đỉnh Fanxiphang 8 – 10
0

C.
0
10
20
30
0
C
0
10
20
30
0
C
13
0
10
20
30
0
C
Biến trình năm của nhiệt độ ở trạm khí tượng, thủy văn ở trạm Lào Cai ,Sa Pa,
Hoàng Liên Sơn
Tổng nhiệt độ năm ở vùng thấp khoảng 8000 – 8500
0
C, giảm xuống 7500 –
8000
0
C ở vùng núi trung bình, 7000 – 7500
0
C ở 1000m, 5000 – 6000

0
C ở 1500m
và đạt 4500
0
C ở vùng núi cao trên 2000m.
Tháng I lạnh nhất trong năm có nhiệt độ trung bình 11 – 12
0
C, nhiệt độ tối
thấp trung bình 9 – 10
0
C ở vùng núi thấp; tương ứng 8- 9
o
C và 6
0
C vùng núi trung
bình: 6 – 7
0
C và 5 -6
0
C vùng núi cao. Tháng VII có nhiệt độ cao nhất trong năm
đật 24 -25
0
C ở vùng núi thấp, 19 – 20
o
C vùng núi trung bình và 16 -17
0
C vùng núi
cao.
Dao động ngày đêm của nhiệt độ mạnh mẽ 7 – 8
0

C ở vùng núi thấp, 6 – 7
0
C
ở vùng núi trung bình và 5 – 6
0
C ở vùng núi cao. Thời kỳ nhiệt độ dao động ngày
đêm mạnh nhất là các tháng IV, V, IX và X. Trong các tháng này, trị số biên độ
nhiệt ngày đêm lên tới 7 – 8
0
C ở vùng núi thấp. Khu vực núi cao chỉ có tháng IV
có trị số lớn nhất (> 7
0
C) khu vực núi thấp trị số biên độ nhiệt ngay đêm thấp nhất
vào các tháng I, II khoảng 6 – 7
0
C, khu vưc cao trên 1500m trị số ngày nhỏ nhất
vào tháng VI, VII khoảng 4 -5
0
C
4
6
8
0
C
4
6
8
0
C
4

6
8
Biên độ dao động nhiệt ở trạm khí tượng, thủy văn ở trạm Lào Cai, Sa Pa,
Hoàng Liên Sơn
14
0
- Chế độ bức xạ: trung bình hàng năm khoảng 1450 – 1600 giờ nắng (thấp hơn
so với đồng bằng bắc bộ là 1600 – 1700 giờ nắng trong năm, tây Hoàng Liên Sơn
khoảng 1900 giờ nắng/năm). Thời kỳ có giờ lớn nhất là mùa hè, tháng có giá trị
cực đại là tháng 5 khoảng 160 – 190 giờ/tháng. Tuy nhiên, ở các vùng cao do mưa
quá nhiều vào mùa hè nên số giờ nắng trung bình cực đại vào tháng 3,6 với trị số
150 – 190 giờ/tháng. Mùa đông là thời kỳ nắng ít. Các tháng cuối mùa đông có trị
số trung bình thấp nhất, khoảng 75- 85 giờ/tháng ở vùng này thời kỳ ít nắng nhất
trùng với thời kỳ có lượng mưa nhiều. Tháng VI , VII có số giờ nắng trung bình 75
– 95 giờ/ tháng.
2
4
6
2
4
6
2
4
6
Biểu đồ số giờ nắng ở trạm khí tượng, thủy văn ở trạm Lào Cai, Sa Pa,
Hoàng Liên Sơn
Chế độ mưa, ẩm, bốc hơi
- Chế độ mưa: đại bộ phận lãnh thổ huyện Sa Pa thu được lượng mưa
khoảng 2000 – 2500mm/năm so với ngày mưa khoảng 100 – 150 ngày trong năm.
Tuy nhiên do sự khác biệt về đặc điểm độ cao cũng như hướng dạng địa hình trên

lãnh thổ làm xuất hiện một số trung tâm mưa lớn trên sườn đón gió như Tả Van,
Cát Cát, Ô Quy Hồ, Sa Pa, lượng mưa đạt trên 2500mm/năm. Ở khu vực Hoàng
Liên Sơn mưa tăng trên 3500mm/năm, số ngày mưa khoảng 180 – 200 ngày.Mùa
mưa dài 7 tháng (tháng VI – tháng X) đến 8 tháng (tháng VI – tháng XI) ở thị trấn
Sa Pa, dãy Hoàng Liên Sơn. Tháng VII , VIII có lượng mưa cực đại với trị số trung
bình 300 – 400mm/tháng. Ở các trung tâm mưa lớn tăng lên tới 400 – 500
mm/tháng. Số ngày mưa vào các tháng này cũng rất lớn, khoảng 15–20 ngày/tháng
và 20 – 25 ngày/tháng ở các trung tâm mưa lớn.
15
Giờ
Giờ
Giờ
Nửa đầu mùa đông là thời kỳ mưa ít nhất trong năm thường là vào tháng
VII, I. Thời kỳ này trung bình có 6 – 8 ngày có mưa trong một tháng, ở các nơi
mưa nhiều trung bình 10 – 12 ngày trên tháng, có nơi Sa Pa có đến 15 ngày trên
tháng. Lượng mưa ở các tháng khô nhất cũng đạt 20 – 30mm/tháng, ở khu vực cao
trên 1500m cũng đạt tới 60 – 70mm/tháng như ở Sa Pa, Tả Van, Cát Cát… Ở các
nơi có lượng mưa dưới 1500mm thì vào các tháng này (tháng VII, I) lượng mưa
trung bình tháng không vượt quá 20mm
63.8
71.8
82
219.6
416.6
546.8
680
632.1
418.2
235.7
101.4

66.4
0
200
400
600
800
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Nói cao
(tr¹m Hoµng Liªn S¬n, 2170 m)
mm
55.6
79.2
105.5
197.2
353.2
392.9
753
478.1
332.7

208.7
121.6
55.1
0
200
400
600
800
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Nói trung b×nh
(tr¹m sapa, 1570
m
)
16
mm
23.3
40.2
49.5
127.4

194.3
253.2
272.9
328.3
226.3
135.9
67
19.3
0
200
400
600
800
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Nói thÊp
(tr¹m Lµo cai, 99
m
)
mm

Biểu đồ lượng mưa ở trạm khí tượng, thủy văn ở trạm Lào Cai, Sa Pa,
Hoàng Liên Sơn
- Chế độ bốc hơi: trung bình hàng năm lượng bốc hơi tiềm năng không vượt
quá 1000mm. Lượng bốc hơi có sự phân hóa theo đai cao: khoảng 900 – 1000mm
ở vùng núi thấp, 800 – 900mm ở vùng núi trung bình và khoảng 650 – 700 vùng
núi cao.
Biến trình năm của lượng bốc hơi có cũng dạng với biến trình năm của tổng số
giờ nắng. Vào tháng V lượng bốc hơi có trị số cực đại khoảng 110-130mm/tháng.
Ở khu vực núi cao lượng bốc hơi cực đại quan trắc thấy vào tháng IV, tháng V với
trị số thấp 80 – 90mm/tháng. Tháng XII, I là tháng có lượng bốc hơi nhỏ nhất: khu
vực cao dưới 1000m có trị số khoảng 30 – 45mm/tháng, khu vực cao trên 1000m
lượng bốc hơi cực tiểu có trị số 30 – 40 mm/tháng
17
- Chế độ ẩm: Huyện Sa Pa là một trong khu vực ẩm ướt so với toàn quốc,
hầu như không có giai đoạn khô hanh đầu mùa đông, quanh năm duy trì độ ẩm
cao, không có tháng nào có độ ẩm tương đối nhỏ hơn 80%. Độ ẩm trung bình năm
khoảng 80 – 85%, khu vực núi cao độ ẩm tăng lên 90%.
80
90
100
80
90
100
%
80
90
100
%
Biến trình năm của độ ẩm ở trạm khí tượng, thủy văn ở trạm Lào Cai, Sa Pa,
Hoàng Liên Sơn

Đáng chú ý là khu vực này rất khó phân biệt thời kỳ nào là ẩm nhất. Từ
tháng VII đến tháng II năm sau độ ẩm không khí rất cao và đồng đều, trung bình
khoảng 85 – 90% ở độ cao trên 2000m đạt đến 90 – 97%. Chính vì vậy ở đây cũng
không có thời kỳ khô rõ rệt vào đầu mùa đông mà chỉ số duy nhất có một tháng
tương đối khô vào đầu mùa hạ (tháng V hoặc VI) với độ ẩm tương đối trung bình
khoảng 81 – 85%. Các vùng núi cao có trị số thấp nhất vào tháng III tháng IV,
khoảng 81 – 82 %. Tuy nhiên, những trường hợp khô cực đoan vẫn thường gặp
trong những trường hợp gió mùa đông bắc mạnh vào tháng VII,I với trị số khoảng
20 – 25% và 10 – 15% ở vùng cao. Đặc biệt ở Sa Pa đã có trường hợp giảm xuống
đến 5% vào tháng 3 do ảnh hưởng của gió khô Ô Quy Hồ.
Các hiện tượng thời tiết đặc biệt :
- Giông: trung bình 50 – 55 ngày giông trên năm, các vùng cao trên 1500m
có số ngày giông thường nhiều hơn, trung bình khoảng 55 – 60 ngày trên năm.
Mùa giông trùng với mùa mùa gió mùa hạ, bắt đầu từ tháng III kết thúc vào tháng
18
%
IX. Tháng VII, tháng VIII thường có nhiều giông nhất, khoảng 9 – 10 ngày trên
tháng. Những tháng đầu và cuối mùa đông vẫn có thể gặp giông khoảng 2- 3 ngày
trên tháng. Vào giữa mùa đông từ tháng XI – tháng II hầu như không có giông.
Giông sảy ra nhiều, ảnh hưởng đến khí hậu : sau mỗi cơn giông thường có mưa to
gây lũ lụt, gây thiệt hại đến đời sống của nhân dân
- Mưa đá: mưa đá thường kèm theo giông, càng lên cao hiện tượng mưa đá
xuất hiện càng nhiều. Ở thị trấn có khoảng 2 -3 trận mưa đá/ năm.
- Mưa phùn: do Sa Pa nằm ở phía đông Hoàng Liên Sơn vào mùa đông luôn
có 1 front tĩnh gây mưa dai giẳng tạo cho khu vực này có mưa phùn nhiều nhất
nước.Mưa phùn tập trung chủ yếu vào mùa đông, từ tháng XII – III. Tháng I –
tháng II có số ngày mưa phùn lớn nhất trung bình khoảng 8 – 9 ngày trên tháng ở
vùng thấp, 13 – 14 ngày vùng có độ cao trên 1500m. Các tháng khác của mùa
đông cũng có thể gặp vài ngày có mưa phùn ở vùng thấp và 3 -5 ngày ở vùng cao.
- Sương mù: hiện tượng này khá phổ biến ở Sa Pa, trung bình khoảng 115 –

120 ngày/năm, ở dãy Hoàng Liên Sơn có 205 – 210 ngày/năm. Sương mù chủ yếu
hay gặp vào mùa đông. Tháng XII , I có số ngày sương mù lớn nhất trung bình 3 -4
ngày/tháng. Riêng ở thị trấn Sa Pa có 16 – 18 ngày/tháng, mùa hè trung bình mỗi
tháng cũng có 2 – 4 ngày sương mù. Sương mù có xu hướng tăng theo độ cao, đặc
biệt cao trong những thung lũng kín khuất gió làm cho khu vực này trở nên ẩm
ướt. Ở khu vực Ô Quy Hồ, Tả Văn khí hậu rất ẩm, hệ số thủy nhiệt trên 2,3.
- Sương muối: so với toàn vùng Đông Bắc thì lãnh thổ Sa Pa sương muối ít
xuất hiện. Ở vùng núi thấp hầu như không có sương muối nhưng càng lên cao
sương muối càng xuất hiện thường xuyên. Vùng núi thấp hàng năm có khoảng 2 –
3 ngày có sương muối, tập trung vào tháng XII – tháng I. Khu vực núi cao, số ngày
có sương muối trong năm lên tới 7 – 8 ngày. Tháng XII – I có khoảng 2 - 4 ngày
sương muối trên tháng. Các tháng XI và II trung bình một vài năm gặp sương muối
một lần. Sương muối và mưa đá là nhũng hiện tượng thời tiết bắt lợi cho sản xuất
nông nghiệp và lâm nghiệp.
2.2.3.2. Đặc điểm các kiểu khí hậu :
Theo huyện Sa Pa được phân chia thành 10 kiểu nằm trong 5 nhóm kiểu,
dựa trên cơ sở phân chia là điều kiện nhiệt ẩm, do quyết định của sự tồn tại của
19
thảm thực vật tự nhiên. Hiện tượng giảm nhiệt độ theo độ cao là nhân tố quyết
định sự phân bố của nhiệt độ vùng núi. Quy luật giảm nhiệt độ theo độ cao được
thể hiện trong các đặc trưng nhiệt khác nhau như: nhiệt trung bình tháng nóng nhất
hoặc tháng lạnh nhất trong năm tổng nhiệt năm, nhiệt độ trung bình năm.
Nhiệt độ trung bình năm là đặc trưng thích hợp nhất, phản ánh rõ rệt phân
hóa của nhiệt độ cũng như đặc trưng phân bố của thảm thực vật tự nhiên theo đai
cao được phân chia thành 5 cấp :
Hơi nóng (I) > 20
0
C < 700m
Mát(II) 15 – 20
0

C 700 – 1700m
Lạnh (III) 12 – 15
0
C 1700 – 2400m
Rất lạnh (IV) 10 – 12
0
C 2400 – 2800m
Rét(V) < 10
0
C > 2800m.
Tổng lượng mưa năm là cách phản ánh chung nhất điều kiện ẩm của lãnh
thổ. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa lượng mưa và đặc điểm cấu trúc của
các kiểu thảm thực vật tự nhiên tồn tại trên lãnh thổ nghiên cứu, đã phân chia tổng
lượng mưa năm ra 3 cấp :
Mưa rất nhiều (A) >2500mm/năm
Mưa nhiều (B) 2000 – 2500mm/năm
Mưa trung bình (C) < 2000mm/ năm
Độ dài mùa lạnh được phân chia căn cứ vào các tháng lạnh trong năm.
Tháng lạnh là những tháng có nhiệt độ trung bình dưới 18
0
C là nhiệt độ mà
Koppen coi là nhiệt độ của vùng ôn đới ẩm :
Mùa lạnh trung bình (1) 3 – 4 tháng
Mùa lạnh dài (2) 5 -7 tháng
Mùa lạnh rất dài (3) 8 – 10 tháng
Lạnh quanh năm (4) 12 tháng
Độ dài mùa khô được phân chia vào số tháng khô trong năm. Tháng khô là
tháng có lượng mưa trung bình nhỏ hơn 50mm.
Mùa khô ngắn (a) 1 - 2 tháng
Mùa khô trung bình (b) 3 – 4 tháng

Mùa khô dài (c) 5 – 6 tháng
20
Nhận thấy rằng chế độ nhiệt phản ánh rất rõ quy luật phân hóa nhiệt ẩm
theo độ cao ở huyện Sa Pa.
2.2.4.Thủy văn
2.2.4.1.Thủy văn mặt
Khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa lớn, địa hình phân cắt mạnh tạo cho huyên Sa Pa
có mạng lưới sông suối dày (0,7-1km/km
2
), có dạng cành cây và vuông góc, hệ
thống sông suối nhỏ và chủ yếu xâm thực sâu. Hai hệ thông sông chính trong lãnh
thổ Sapa là Ngòi Đum và Ngoi Bo là những phụ lưu cấp 1 của sông Hồng bắt nguồn
từ dãy núi Hoàng liên Sơn. Ngòi Đum ( Hùng Hồ) bắt nguồn từ độ cao 2150m khu
vực Tả Phìn và Suối Thầu, chiều dài 27km, diên tích lưu vực 156km
2
. Ngòi Bo bắt
nguồn từ độ cao 2300m, khu vực Séo Mý Tỷ- Tả Trung Hồ, chiều dài 51km, diện
tích lưu vực 587km
2
. Các sông này có lòng hẹp dốc, thác ghềnh nhiều, lưu lượng
thất thường, mùa lũ lưu lượng lớn( Ngòi Bo 989m
3
/s) lượng phù sa cao (Ngòi Đum
2930g/m
3
nước, Ngòi Bo 3430g/m
3
nước) một số suối nhánh như: Lâm Pu, Lâm
Trung Hồ, Dền Thàng Tả Trung Hồ, đổ ra Lậm Pu và Lam Cang, Lậm Cô, Lậm
Than đổ ra Lậm Cang còn Seo Bí Tỷ, Séo Trung Hồ đổ ra suối Tả Van cùng với

suối Lâm Si, Lậm Bo, Lậm Sài, Lậm Mát tất cả đều đổ ra Nậm Bo. Bên cạnh đó
suối Vàng suối Cá Chỉ Vàng, Suối Bù Lung Sung, suối Móng Sến đổ ra ngồi đuôi,
tất cả đổ ra Nồi Đun. Ngoài 2 hệ thống sông suối chính còn có các con suối Trùy
Sơn,suối Thàu, Phìn Hồ chảy về phía đị phận huyện Phong Thổ (sLai Châu) và
huyện Bát Xát.
Sông suối của Sapa mang đặc thù của sông suối miền núi. Hầu hết thung lũng, có
dạng hình chữ V, trên đó địa hình tích tụ ít phát triển, độ dốc lớn, chứng tỏ đang ở
giai đoạn xâm thực đào lòng. Phần thung lũng suối Tả Van- Mường Hoa có dạng
chữ U, hai bên thung lũng là sườn tích tụ khá dốc, phần đáy thung lũng rộng vài
chăm m kéo dài theo trên đó có dất nhiều khoáng vật lớn nhỏ liên tiếp được hình
thành tại các cửa suối nhánh từ sườn phía Tây. Độ cao bình quân khu vực (H
O
), độ
dốc bình quân lưu vực, Y
O
và mật độ dưới sông (D) của các sông ngòi ở đây lớn
hơn nhiều, trong khi hệ số uấn khúc (U
k
) lại nhỏ hơn hệ số hình dạng (K
HD
) có giá
trị tương đương so với trị số bình quân toàn quốc. Trị số đối xứng của khu vực lại
khác biệt hơn nhiều, hoặc mang trị số âm hoặc dương.
21
2.2.4.2. Thủy văn ngầm.
Chế độ thủy văn ngầm không phụ thuộc vào lượng mưa mà còn phụ thuộc
nhiều vào thổ nhưỡng, lớp vỏ phong hóa, trên mặt. Lượng chảy ngầm huyện Sapa
trung bình là 48km và biến động theo đai cao và địa hình đai trên 1000m là 700mm,
đai 500-1000m và đai dưới 500m là 400mm. Tuy nhiên để khai thác triệt để nước
ngầm của vùng cho việc phát triển nộng nghiệp, lâm nghiệp thì cần thiết phải quan

tâm và phát triển hệ thống rừng đầu nguồn.
2.2.5. Thổ nhưỡng.
Thổ nhưỡng trong cảnh quan cũng tương tự như sinh vật. Bất cứ một cảnh
quan nào cũng bao chiếm một tập hợp có quy luật các kiểu đất theo lãnh thổ, kiểu
phụ, các loại và các biến dạng thổ nhưỡng mà tập hợp theo lãnh thổ này tương ứng
với vùng thổ nhưỡng.
Nét đặc thù của thổ nhưỡng Sa pa thể hiện ở sự phân hóa theo đai cao rất rõ
nét, hình thành đầy đủ cả 4 đai đất: Đất feralit đỏ vàng núi thấp, đất mùn đỏ vàng
núi trung bình, đất mùn alit núi cao và đất mùn thô than bùn núi cao. Căn cứ vào
phân tích các nhân tố hình thành đất, tham khảo hệ thống phân loại đất theo phái
sinh của Hội Khoa Học Đất Việt Nam (2000) và Vũ Tự Lập (2002), luận án đưa ra
hệ thống phân loại đất khu vực nghiên cứu, bao gồm 6 nhóm với 10 loại đất. Hệ
thống phân loại này phản ánh rõ tương quan giữa cường độ các quá trình hình
thành đất và tác động đồng thời của quy luật địa đới, phi địa đới đai cao và nội địa
đới:
- Đất feralit đỏ vàng: Do phát triển trên địa hình có độ dốc cao, đá mẹ giàu thạch
anh khó phong hóa nên tầng đất mỏng, lẫn nhiều đá. Thành phần cơ giới thịt nhẹ, tỉ
lệ cát cao, phân tầng rõ ràng theo màu sắc, đất có phản ứng chua, dung tích hấp thụ
thấp, nghèo mùn và các chất tổng số, các chất dễ tiêu có hàm lượng trung bình.
Trong đó đất feralit đỏ vàng trên đá granit tập trung ở Bản Hồ, Nậm Sài; đất feralit
trên đá granitgonai có tầng dày lớn hơn, phân bố tập trung ở Bản Phùng, Thanh
Kim, Suối Thầu và Thanh Phú.
- Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa: phân bố dải rác trên địa hình ruộng bậc thang.
Phẫu diện có sự phân hóa rõ rệt theo tầng. Tầng đất mặt do ngập nước thường kỳ
và cày bừa thường xuyên nên mất cấu trúc, cơ giới thường thô nhẹ, nhiều phẫu
22
diện hình thành tầng cát thạch anh, thoát nước mạnh, khả năng giữ nước kém.
Tầng này có độ phì rất thấp, đất thường phản ứng chua đến rất chua, dung tích hấp
phụ thấp. Tầng đất sâu thường từ 40 – 50cm hầu hết còn giữ nguyên đặc tính của
đất feralit đỏ vàng trên đá macma axit, kiến trúc dạng viên hay hạt cục nhỏ, phản

ứng chua, dung tích hấp phụ thấp, nghèo mùn, hàm lượng các chất dễ tiêu trung
bình.
- Nhóm đất mùn đỏ vàng trên núi trung bình: Chiếm diện tích lớn nhất, nhóm này
xuất hiện tầng thảm mục bán phân hủy, tầng đất mặt có màu xám đen của mùn,
chuyển dần theo chiều sâu phẫu diện sang màu đỏ, độ ẩm cao, lượng mùn cao,
phản ứng chua do axit mùn, nghèo cation kiềm, khả năng trao đổi thấp. Nhóm đất
này chia thành 2 loại đất riêng biệt với những đặc tính đặc trưng riêng biệt:
+ Đất mùn vàng xám trên đá macma axit: Hình thành trên đá granit có lẫn
đá cao, thành phần cơ giới nhẹ, phân tầng rõ rệt. Đất hình thành trên đá granitgonai
có thành phần cấp hạt cát ở tàng mặt cao, tỉ lệ hạt sét thấp, xu hướng tăng theo
chiều sâu của phẫu diện, phản ứng chua đến rất chua, dung tích hấp phụ thấp.
+ Đất mùn đỏ vàng trên đá biến chất: Hình thành trên các đá amphibolit, đá
philit. Đất có phản ứng chua đến rất chua, đất giàu hữu cơ, cơ giới thịt trung bình
có dung tích hấp phụ cao đến rất cao; đất có thành phần cơ giới nhẹ, hữu cơ nghèo,
dung tích hấp phụ thấp.
- Đất mùn alit trên núi cao: Phẫu diện có tầng đất mỏng, tầng tích tụ không phát
triển hoặc không có, tầng đất mặt thường màu đen, đen xám chuyển xuống tầng đá
gốc có màu trắng, đồng thời trên mặt xuất hiện tầng hữu cơ thô chưa phân giải, đất
có thành phần cơ giới nhẹ, tầng mặt giàu mùn và chất dinh dưỡng do tích lũy từ
tầng thảm mục phân giải yếu.
- Đất mùn thô than bùn trên núi cao: phân bố khu vực đỉnh Phanxipang độ cao trên
2800m. Dưới thảm mục dày là tầng đất mùn thô dạng bùn mỏng ẩm ướt, bên dưới
đá mẹ granit phong hóa yếu màu trắng. Đặc tính lí hóa của đất không phụ thuộc
hoàn toàn vào đá gốc, hàm lượng mùn tầng mặt cao chủ yếu dưới dạng mùn thô,
phản ứng chua.
23
- Đất phù sa sông ngòi suối: Hình thành do dòng chảy sông suối qua địa hình núi có
độ chênh cao và độ dốc lớn, quy mô diện tích không đáng kể, có phản ứng chua
đến chua vừa, hàm lượng hữu cơ và các chất tổng số nghèo đến trung bình, dung
tích hấp phụ thấp, thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ.

- Đất dốc tụ: Chiếm diện tích rất nhỏ, thành phần cơ giới cát pha, tỉ lệ cấp hạt sét
thấp, phản ững chua, nghèo hữu cơ,hàm lượng chất tổng số từ nghèo đến trung
bình, dung tích hấp phụ thấp.
-Thế giới thực vật lãnh thổ Sa Pa được phát sinh trong điều kiện địa sinh thái
đặc biệt trên vị trí địa lý của nó: cấu trúc sinh thái cảnh quan đa dạng từ nhiệt đới
gần như điển hình của vùng thấp Bản Hồ, đến đỉnh Fanxipăng cao nhất Đông
Dương. Vị trí địa lý Sa Pa là nơi tiếp nhận được cả 3 yếu tố di lưu thực vật: luồng
Inđô - Mã Lai (Tây á), luồng Vân Nam - Tây Tạng (Bắc á), luồng Nam đảo - úc
(Nam đảo). Chính vì vậy, thế giới thực vật huyện Sa Pa mang tính điển hình thu nhỏ
của tỉnh Lào Cai về tính đa dạng sinh học và tài nguyên thực vật, với các đặc trưng:
- Tính đa dạng sinh học cao: hệ thực vật Sa Pa được cấu thành từ các yếu tố
Châu á nhiệt đới với 1287 loài chiếm ưu thế trên 63,6% tổng số loài, tiếp đến là
nhóm các yếu tố đặc hữu 363 loài chiếm 17,9% và sau đó là yếu tố Đông Á 145 loài
chiếm 7,2% còn các yếu tố khác chiếm tỷ lệ không đáng kể. Hệ thực vật có đủ
100% dạng sống mà Raunkiaer đã tổng kết cho thế giới thực vật toàn cầu, đặc biệt
có đủ các dạng bao chồi từ phát triển mùa xuân hè đến nghỉ đông mà Thái Văn
Trừng (1998) đã tổng kết cho Việt Nam. Điều đáng lưu ý là với đặc thù của lãnh thổ
mà ở Sa Pa có hơn 10 loài đặc hữu được phát hiện mang tên sapanensis.
- Chứa đựng nhiều tài nguyên thực vật: có 428 loài được sử dụng làm thuốc
(chiếm 21,2% tổng số loài của khu hệ và 13,4% so với tổng số loài cây thuốc của
Việt Nam), trong đó nhiều loài có giá trị cao như Ngũ gia bì gai (Acanthopanax
trifoliatus), Bình vôi (Stephania spp.), Sa nhân (Amomum aromaticum), Hoàng liên
gai (Berberis wallichana), Đỗ trọng (Eucoma ulmoides)
Đặc điểm các kiểu thảm thực vật:
* Các kiểu thảm thực vật nguyên sinh và thứ sinh nhân tác
- Kiểu rừng kín lùn thường xanh cây lá rộng rét ẩm (>2800m): ưu thế Trúc
lùn Arundinaria, nhiều loài cây bụi trong họ Đỗ quyên (Ericaceae) là Rhododendron
excelsa, Rhododendron chevalieri, Rhododendron triumphans, Vaccinium
24
viscifolium, Vaccinium yersinii, Agapetes, họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Hồi

(Illiciaceae). Kiểu thảm này có chiều cao <0,5m trên đỉnh hoặc dông núi, 1-1,5m ở
sườn núi. Tổng hợp số liệu ở các ô tiêu chuẩn 10mx10m cho thấy khoảng 10-12 chi
tham gia tổ thành kiểu thảm này.
- Kiểu thảm thực vật rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng lá kim rất
lạnh rất ẩm (2400-2800m): còn gọi là kiểu rừng rêu, phẫu đồ chỉ gồm một tầng cây
gỗ và một tầng cây bụi. Tầng cây gỗ có thành phần đơn giản, gồm đại diện thuộc
các họ Chè (Theaceae) là Adinandra, Pyrenaria, Schima; họ Hồi (Illiciaceae) là
Illicium; họ Thích (Aceraceae) là Acer; họ Sồi dẻ (Fagaceae) là sồi (Quercus), dẻ
gai (Castanopsis); họ Đỗ quyên (Ericaceae) là Rhododendron, Lyonia, Enkianthus;
họ Nhân sâm (Araliaceae) là Schefflera, Dendropanax; họ Hoa hồng (Rosaceae) là
Stranvaesia, Triobotrya; rải rác gặp thiết sam (Tsuga yunanensis) và lãnh sam
(Abies spp.) thuộc họ Thông (Pinaceae). Các loài cây gỗ có đường kính tới 0,4-
0,6m mọc cong queo, chiều cao khoảng 10-12m, thân và cành bám đầy rêu và địa y,
các chi trong họ Lan (Orchidaceae) là Dendrobium, Coelogyne. Tầng cây bụi thưa
thớt, ưu thế Gaultheria, Vaccinium, Rhododendron thuộc họ Đỗ quyên (Ericaceae);
Tricalysia thuộc họ Cà phê (Rubiaceae); Sorbus, Rubus thuộc họ Hoa hồng
(Rosaceae); Schefflera, Pentopanax thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae). Các loài
Anemone (họ Mao lương - Rannuculaceae) và rêu phủ đầy mặt đất.
- Kiểu thảm thực vật rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng lá kim lạnh
ẩm (1700-2400m): cấu trúc 3 tầng, gồm hai taầng cây gỗ và một tầng cây bụi. Tầng
vượt tán chiều cao 20-25m, cây gỗ đường kính 0,4 - 0,6m, ưu thế Castanopsis,
Lithocarpus, Quercus (họ Sồi dẻ-Fagaceae), Schima (họ Chè-Theaceae), Altingia
(họ Tô hạp-Altingiaceae), Elaeocarpus (họ Côm-Elaeocarpaceae) mọc hỗn giao.
Tầng hai khá liên tục, có tổ thành phức tạp với các chi lập quần là Michelia,
Magnolia (họ Mộc lan-Magnoliaceae), Cryptocarya, Machilus, Beilschmiedia,
Actinodaphne (họ Long não-Lauraceae). Tầng cây bụi ưu thế Adinandra, Eurya (họ
Chè-Theaceae), Sorbus, Rubus (họ Hoa hồng-Rosaceae), Schefflera (họ Nhân sâm-
Araliaceae), Rhododendron, Gaultheria (họ Đỗ quyên-Ericaceae), Lasianthus,
Prismatomeris, Psychotria (họ Cà phê-Rubiaceae). Tầng cây thảo ưu thế Pteris
25

×